Chương 9
- Thưa cô, ngày hôm qua em đã đến đây như cô dặn. Cô Vân lễ phép nói.
Bà Kim Cúc vừa cởi chiếc áo khoác đỏ vừa đáp lại:
- Cảm ơn em đã đến đúng hẹn. Xin lỗi em là tôi đã quên gọi báo cho em biết ngày tôi trở lại tiệm là ngày thứ năm chứ không phải ngày thứ tư. Ngày hôm qua em có học được chút nào chưa?
Cô Vân lắc đầu trong khi cô gái có mái tóc tém kiểu con trai láu táu:
- Cô Hoàng đâu cần lo lắng cho chỉ nhiều như vậy! Chỉ có người săn sóc, và chỉ vẽ tận tình rồi mà!
Bà Kim Cúc đưa ánh mắt lạnh lùng và bình thản gắn chặt trên khuôn mặt chàng Duy Anh:
- Em là người quản lý của tiệm này.
Người thanh niên đáp lại:
- Dạ phải. Em tên là Nguyễn Duy Anh. Em được anh Tảo giới thiệu và được anh Hoàng nhận vào làm ở đây.
Bà Kim Cúc gật đầu, bước thẳng vào trong tiệm. Nỗi ấm ức hoàn toàn chiếm ngự sự kinh ngạc đang có của bà. Qua lối tự giới thiệu, bà hiểu rằng người thanh niên kia hoàn toàn chối bỏ sự quen biết giữa anh ta với bà trước những cô thợ và nhất là trước mặt cô Vân. Và cũng qua lời tự giới thiệu, cách xưng hô của anh ta với ông Hoàng ngầm cho bà biết anh ta ở vị trí “anh em” chứ không phải là “chú cháu” như bà đã biết sơ về lý lịch của anh.
Cô gái với tóc kiểu con trai và đôi lông mày mỏng như chỉ đi theo bên cạnh bà Kim Cúc phàn nàn:
- Không biết ông Duy Anh có quan hệ gì với chú Tảo mà được chú Hoàng tin tưởng ghê đó cô. Hình như “ổng” không có bằng làm móng tay hay sao đó mà em không thấy “ổng” làm cho người khách nào cả. Khách đông cách mấy “ổng” cũng để tụi em làm chứ không làm phụ như chú Tảo đâu cô!
Sau khi chào người khách đang được phục vụ và cô thợ có nước da nâu sẫm và thân hình đẫy đà tại chỗ làm móng chân nước, bà Kim Cúc quay sang hỏi cô gái thay vì trả lời:
- Duy Anh làm ở đây bao nhiêu lâu rồi hả Kim?
- Dạ gần hai tháng rồi. Khoảng trước Giáng Sinh đó cô. Chú Tảo giới thiệu “ổng” cho chú Hoàng.
Bà Kim Cúc vừa mở phòng chứa đồ dành cho nhân viên vừa hỏi:
- Hai tháng cũng lâu rồi mà Kim không biết là anh ta có hay không có bằng làm móng sao?
- Dạ không cô ạ! “Ổng” kín đáo và nghiêm trang như ông cụ. Chỉ có ngày hôm qua là “ổng” vui vẻ và nói nhiều bởi vì gặp con Vân. Chắc là “ổng” biết nó trước rồi nên đối đãi đặc biệt với nó. Hôm qua “ổng” tự ý lấy vật dụng trong tiệm cho nó tập giống như “ổng” là chủ tiệm này vậy.
Bà Kim Cúc hạ giọng thật thấp khi thấy anh Duy Anh đang tiến về phía sau lưng cô Kim:
- Chuyện gì để cô tính sau.
Cô Kim định nói thêm đã phải quay ra sau với thông báo của anh Duy Anh:
- Chị Minie có khách.
Nhận tấm phiếu chữ nhật nhỏ bằng nửa bàn tay của đàn ông, cô Kim khép ngay đôi môi và lặng lẽ bước theo anh Duy Anh ra phía trước. Bà Kim Cúc, sau khi rút xấp giấy tờ từ trong chiếc xách tay và đóng cửa phòng chứa vật dụng dành cho nhân viên, bước theo sau họ với ánh mắt ngơ ngác nhìn quanh tiệm. Tủ kê ti vi và đầu máy thường để sau phòng ăn của thợ luôn luôn hoạt động hàng giờ bởi những bộ phim Tàu tiếng Việt rổn rảng, gay cấn, éo le hay bi thảm khóc lóc nay được kê trước năm cái bồn ghế spa làm móng chân khách với tin thời sự của đài truyền hình số bốn và tiếng Mỹ lúc văng vẳng, lúc râm ran.
Càng đi ra phía trước, bà càng cảm tưởng như tiệm của mình rộng rãi hơn và khang trang hơn. Tám cái bàn làm móng tay, trước đây được kê thành hai hàng ngang đối diện nhau chiếm phần lớn lối đi chính giữa bởi tám chiếc ghế ngồi của khách, được kê dọc sát vào hai vách tường cho nên giữa lối đi tở nên quang đãng và rộng rãi hơn xưa. Cách sắp xếp không những tạo cho lối đi chính giữa rộng rãi hơn trước mà còn hạn chế những mẫu đối thoại với nhau bằng tiếng Việt của những người thợ khi họ không còn được ngồi ngang hàng với nhau. Nếu ngồi ở bàn làm việc các cô thợ chỉ có thể nói chuyện với khách trong lúc phục vụ bởi vì phía trái và phải của họ là không gian của lối đi chính giữa hay vách tường sát bên cạnh. Trên tường, dọc các chỗ ngồi của các cô thợ rực rỡ bởi những tấm gương soi mặt sáng bóng, những hộp kính chứa vô số mẫu vẽ và những cô người mẫu với những bàn tay thời trang lạ mắt và tuyệt đẹp.
Khu vực tiếp khách cũng được thay đổi trái ngược hoàn toàn với các vị trí trước đây. Cách sắp xếp khá đặc biệt khiến bà tin chắc ý kiến đưa ra cho việc thay đổi chắc chắn phải có sự đồng ý của chồng bà. Quầy tiếp khách và thu tiền nơi mà trước đây được kê ngay góc phải của tiệm nay được đặt ngay sau cửa ra vào mà bảng ghi giá tiền các món phục vụ và bằng hành nghề của tiệm của bức tường cạnh ấy đập ngay vào chú ý của khách. Chỗ cũ của quầy tiếp khách được thay bằng tủ kính trưng bày các lọ nước sơn móng tay đủ màu mà trên mặt tủ là bảng kê giá tiền của từng loại. Ch?u cây cảnh v?i các cành lá tươi xanh vươn cao gần như che khuất cây móc áo khoác và tủ để các tạp chí dọc sát bức tường bên trong. Càng ngắm nghía xung quanh, bà càng bằng lòng với cách thay đổi hợp lý cho dù bà không đoán được cách bài trí này là do anh Tảo người quản lý cũ hay do anh Duy Anh người quản lý mới đặt ra.
Cô Vân đang nói chuyện với anh Duy Anh, ngưng bặt và quay sang hỏi bà Kim Cúc:
- Thưa cô, em phải làm gì ạ?
- Chờ cô chút xíu. Cô phải chuẩn bị giấy tờ cho em điền để gửi cho State Board rồi mới tính được.
Anh Duy Anh chỉ chiếc bàn làm móng tay ngay sau quầy tiếp khách và nói với bà Kim Cúc:
- Bàn làm việc của chị vẫn là chỗ cũ. Chỗ này, chị có thể vừa làm cho khách và có thể quản lý tiệm.
Bà Kim Cúc ngồi xuống ghế, lạnh lùng đáp:
- Trước đây tôi có thời gian nên đã phụ với anh Tảo quản lý tiệm nhưng hiện thời tôi không nghĩ là tôi có thể phụ em. Em đã làm ký cam kết với chồng tôi như thế nào thì cứ thế mà tiếp tục làm.
- Chị không thấy có vấn đề gì khi ngồi chỗ này chớ?
- Không. Tôi có thể ngồi bất cứ nơi nào theo sự sắp xếp của em miễn là thuận lợi cho tiệm, cho khách và những người thợ khác.
- Em nghĩ trước đây chị thường ngồi bàn này và phía này chắc là chị thích chỗ này.
Bà Kim Cúc toan nói cho anh Duy Anh biết là mặc dù bàn làm việc này là bàn làm việc cũ của bà nhưng vị trí của nó hiện thời bị che khuất bởi cái quầy thu tiền và như thế người đối mặt với bà là cái quầy và anh ta chứ không phải tấm cửa gương ra vào mà bà có thể chào khách ngay khi họ mở tấm cửa kính vào như trước đây. Tuy nhiên, bà đã im lặng để giữ mức lịch sự và tôn trọng vị trí quản lý của người thanh niên này, rồi bà bảo cô Vân ngồi xuống chiếc ghế đối diện của khách và hướng dẫn cô điền vào những ô mục của các mẫu đơn. Trong khi cô Vân lúi húi ghi ghi điền điền, bà Kim Cúc mở các hộc tủ của bàn làm việc với đôi mắt ngạc nhiên. Hộp móng tay giả với các số lớn nhỏ, hộp đồ nghề làm móng tay mới sáng với các vật dụng cắt móng tay, những cây giũa móng tay, cây đẩy da chết, xốp chà bóng, và hộp đựng bông gòn đều được xếp đặt thứ tự. Sự ngăn nắp của các vật dụng trong các hộc tủ khiến bà chú ý kỹ hơn những vật dụng trên bàn. Bà nhận ra hộp keo, hộp đựng bột, thuốc rửa móng, những chai nước sơn đủ màu và máy giũa làm móng bột được lau chùi sạch sẽ và sắp đặt thứ tự. Tất cả dường như được chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo để cho công việc tiến hành được thuận lợi hơn và nhanh chóng hơn. Lạ lùng với chiếc khung chữ nhật gắn ngay chính giữa bàn làm việc mới của mình, bà tò mò hỏi anh Duy Anh:
- Cái gì đây?
- Đó là máy hút khí loại tân tiến nhất hiện nay. Loại bàn mới có máy hút khí này do anh Hoàng đặt mua trước Tết và sai thợ lắp ráp cách đây hai tuần. Với cái hộp hút bụi dơ lẫn khí độc tại những chiếc bàn làm việc của thợ và hệ thống thông khí tối tân trong tiệm, thợ làm móng bột không cần đeo khẩu trang cũng bảo đảm được sức khỏe.
Bà Kim Cúc gật đầu và im lặng bấm nút qua lại để thử bộ phận hút bụi. Đến lúc ấy bà mới nhớ ra là khi bước vào tiệm, dù đã vắng mặt trong khoảng thời gian cũng khá lâu, bà không ngửi thấy mùi nồng nặc của thuốc rửa và sơn móng tay như trước đây. Cảm động trước tấm chân tình của chồng dành cho mình, bà quên hẳn người thanh niên đang chăm chú nhìn bà, và đang chờ nghe những lời đối đáp kế tiếp cũng như không để ý là cô gái tên Vân đang chìa những tờ đơn đã điền xong trước mặt.
Anh Duy Anh nói tiếp:
- Em nghe nói anh Hoàng đã bỏ khá nhiều tiền cho hệ thống thông khí cá nhân này, nhưng nhờ vậy mà tiệm đã giữ được thợ và chưa kể là nhiều người muốn xin vào làm việc cho tiệm này. Nơi nào cũng chia sáu bốn cho thợ nhưng thợ thích làm ở tiệm mình vì môi trường làm việc ở đây bảo đảm môi trường an toàn cho sức khỏe hơn các tiệm khác. Tiệm mình giờ cũng nhiều khách lắm bởi vì khách cũng biết là với hệ thống hút khí chết ra khỏi tiệm, họ có thể ngồi trong tiệm cả ngày, kể cả khi họ dắt con nhỏ đi cùng.
Bà Kim Cúc lại gật đầu bình thản và kết thúc câu chuyện với anh bằng câu nói hết sức lạnh nhạt.
- Nhìn số khách trong tiệm vào thời gian mưa tuyết như thế này tôi cũng hiểu được.
Cô Vân hỏi trong lo lắng:
- Em nghe nói hình như muốn làm trong tiệm móng tay phải có tên Mỹ để khách gọi mình dễ hơn tên Việt phải không chị?
Ngạc nhiên với lối xưng hô thay đổi đột ngột của cô Vân, bà Kim Cúc liếc xuống tờ đơn trước mặt. Năm sinh 1971 có nghĩa là cô Vân lớn hơn cậu Phụng con bà mười tuổi. Với số tuổi hai chín cô vẫn có thể đáng hàng cháu của bà thế mà cô đã thay đổi cách xưng hô giống với lối xưng hô của anh Duy Anh đối với bà khi mà bà chắc chắn cô đinh ninh anh ta lớn hơn tuổi cô rất nhiều với phong cách già dặn của anh.
Không nghe bà Kim Cúc trả lời, cô Vân hỏi tiếp:
- Nếu phải có một tên Mỹ, chị đặt cho em một tên được không?
Khuôn mặt ngơ ngẩn của bà Kim Cúc sáng hẳn lên với nụ cười thật tươi.
- Được chứ! Nếu em muốn.
- Em sẽ thích bất cứ tên Mỹ nào mà chị đặt cho em. Em tin tưởng chị làm việc gì cũng tốt đẹp.
Bà Kim Cúc ngạc nhiên:
- Vì sao em nghĩ vậy?
- Em không biết nhưng gặp chị lần đầu tiên em có ngay ấn tượng chị là người ngay thật, uy tín, đáng tin cậy và dễ gần gũi.
Bà Kim Cúc chăm chú nhìn cô Vân một lúc rồi chậm rãi nói:
- Tôi thường ao ước nếu tôi có thêm một đứa con gái nữa tôi sẽ đặt tên là Katherine gọi tắt là Kathy. Katherine nghĩa là trong sáng cao thượng. Tôi nghĩ ngoại diện của em phù hợp với tên này nhưng không hiểu em có muốn tên ấy không.
Cô Vân cười thật tươi:
- Em sẽ là Kathy.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 10
Sau hai ngày trở lại làm việc ở tiệm Bàn Tay Đẹp trong thương xá B, bà Kim Cúc mới có thì giờ rảnh để tự hỏi không hiểu vì sao bà lại giới thiệu tên Kathy cho cô Vân trong khi tất cả mấy cô thợ trong tiệm của bà đều có tên với những chữ i ngắn hay y dài như Mimie, Nickie, Lucy, Christy, Jenny, và Cindy. Các cô thợ trong tiệm Bàn Tay Đẹp này không bao giờ tiết lộ nguồn gốc của các tên Mỹ mà các cô có nhưng cả các cô ấy và bà đã chẳng bao giờ để ý mấy cái tên với chữ i và y cuối có thể gây cười cho những người khách nếu họ để ý nghe những tiếng kêu tên nhau như bà đang để ý trong lúc này. “Nickie ơi! Có kềm mới không cho mi mượn một cái đi!”, “Jenny! Con khách đó chờ bà chứ không chịu cho tui làm, tui lấy con khách không có hẹn này theo tua thôi”, “Christy xong chưa vậy? Con nhỏ khách của tui muốn bà làm lông mày cho nó đó!” “Lucy! Lấy dùm cho Minie cái khăn luôn đi!” Những âm i cuối của các tên vang lên liên tiếp đã tạo nên một kiểu láy âm ngộ nghĩnh khiến cho bà Kim Cúc mỉm cười. Sự hợp lại của các tên có vần i trong cùng một tiệm có thể gây cho những người khách ở tiệm tin tưởng rằng tất cả các tên ấy được đặt ra bởi một người có máu hài hước. Còn các cô thợ của bà thì hãnh diện với cái tên của họ lắm bởi vì tất cả đều nói rằng những tên Mỹ có chữ i hay y cuối biểu hiện sự nhu mì, nhỏ nhắn và dễ thương. Họ đã tán thành ngay khi cô Minie nói là “Em thích mấy cái tên Mỹ như Betty, Nicky, Lucy, Nancy, Minie ... Tên Mỹ với âm i cuối nghe nhon gì đâu!” Từ “nhon” mà cô Minie dùng ở đây là từ phiên âm trại từ chữ “mignon” của tiếng Pháp với nghĩa nhỏ nhắn dễ thương mà qua đối thoại của những người thợ, bà Kim Cúc chỉ đoán được là những tên ấy có lẽ do chính họ tự đặt ra chứ không phải do các chủ cũ của họ đặt cho. Tên Minie của cô Kim thể hiện đúng với mẫu người nhỏ nhắn mảnh mai của cô. Khuôn mặt trắng hồng thon nhỏ với cánh mũi cao thanh thanh, đôi mày tỉa gọn và mái tóc tém ngắn màu vàng ánh tạo cho cô có cái vẻ trẻ trung của cô gái mới lớn. Thêm vào đó, áo cánh ngắn, quần túm cao để lộ mắt cá chân, và đôi guốc cao nhọn bé tí mà cô thường phục sức ngay cả vào mùa đông đã không cho một ai có thể đoán số tuổi ngoài ba mươi của cô. Dáng vóc, khuôn mặt, và cách ăn mặc của cô Kim đã tạo cho cái ngoại dạng “nhon” như cô mong muốn tuy nhiên tính tình cô chẳng tạo cho ai ấn tượng “nhon” khi tiếp xúc với cô bởi vì cái miệng nhỏ xíu và đôi môi mỏng lét của cô thường phê bình và chỉ trích những việc làm của người khác hơn là nói những điều vui vẻ thởi lởi. Mỗi khi nhìn những việc không vừa ý, cô thường dùng chữ “Gớm! Làm gì mà dễ sợ vậy!”, “Kinh khủng quá!”, “Thấy mà ghê!” với cái chau mày bất bình như chứng kiến một tội trạng rất khủng khiếp dù chuyện cô bình phẩm chỉ là chuyện nhỏ nhặt như vết lem của một mẫu móng tay do một cô thợ vẽ vụng về hay một món thức ăn không được làm đúng cách. Chuyện cô thường lên án và bình phẩm trong tiệm nhiều nhất là thái độ khinh người của những người Việt đến Mỹ từ năm 1975 và chuyện sửa thẩm mỹ của những người con gái ham đẹp. Hai chuyện bình phẩm này của cô đã gây tranh luận nhiều lần giữa cô và đám thợ con gái. Phản đối với chuyện thứ nhất, những người thợ trong tiệm đã vặn cô bằng những câu hỏi: “Sao Kim biết mấy người Việt 75 khinh người?”, “Sao Kim không nghĩ là người ta không biết nói tiếng Việt?” rồi cuối cùng làm cô nín lặng bởi câu châm chọc “Nhìn Kim trắng trẻo, mắt xanh, mũi cao, tóc vàng mọi người chắc chắn tin Kim là người Mỹ, đâu có ai nghĩ Kim là người Việt mà nói tiếng Việt với Kim?” Chuyện bình phẩm thứ hai kéo dài hơn chuyện thứ nhất bởi vì trong khi đám con gái hùng hồn lý luận rằng thẩm mỹ tạo cho những người con gái kém may mắn nâng cao lòng tự tin và sự hãnh diện với cái tên “người đẹp” theo đúng nghĩa như các đấng mày râu thường gán cho họ thì cô Kim một mực khăng khăng cho rằng “Trời cho sao để vậy cho tự nhiên chớ mắc mớ gì phải sửa! Càng sửa thì càng mất vẻ tự nhiên và càng xấu xí hơn! Đúng là mấy bà có lắm tiền nên bày chuyện! “ Vấn đề tranh luận càng lúc càng kéo dài và căng thẳng đến nỗi bà Kim Cúc không dám lên tiếng một lời hay can thiệp vào. Cho rằng cuộc tranh cãi của đám thợ không ảnh hưởng đến công việc làm ăn của mình và lý luận của hai phe, dù số người của mỗi phe không cân bằng, đều có lý lẽ đúng đắn riêng của nó, bà Kim Cúc để mặc cho những lời bình phẩm chua cay của cô Kim hay những lời chống đối của các cô thợ đối với cô Kim lâu lâu vang lên trong tiệm. Ỷ đông, đám thợ thay phiên châm chọc cô Kim rằng nếu cô ta không nhận ra giá trị làm đẹp của ngành thẩm mỹ cho các bà các cô, và không thấy rằng nghề móng tay là một phần của ngành thẩm mỹ, thì cô nên nghỉ làm cái nghề mà cô kiếm hơn bảy trăm đồng mỗi tuần chưa kể tiền thưởng của khách. Sau cùng họ còn hùng hồn lý luận rằng thẩm mỹ có thể sửa những tướng xấu của con người cả nam lẫn nữ chứ không đơn giản chỉ làm đẹp cho phái nữ thôi, rồi đay nghiến thêm là cô Kim cần sửa lại cái miệng nhỏ thêm nhiều hơn nữa để khỏi phải bình phẩm những điều khó chịu mà lâu lâu họ phải nghe.
Cô Hằng, có tên Mỹ là Nickie, đồng quan niệm của cô Kim rằng tên Mỹ với vần i hay y thể hiện sự nhỏ bé dễ thương của con gái nhưng lại hậm hực với cô Kim vì bị cô Kim bình phẩm chuyện xăm môi và bị cô Kim gọi là chị trong khi cô ta nhỏ hơn cô Kim gần năm tuổi. Nghe họ đối thoại với nhau, nếu không để ý, thì tưởng là cả hai người ăn nói lịch sự với nhau lắm nhưng thực sự là họ cố tình tự nhận nhỏ bé hơn, trẻ trung hơn người mà họ kêu bằng chị kia. Cô Hằng cũng là người Việt lai Mỹ trắng nhưng cao lớn và rắn chắc hơn cô Kim khá nhiều. Cô là người chi rất nhiều tiền cho các phim bộ tình cảm xã hội ướt át của Hồng Kông, Đại Hàn hay Đài Loan. Cô thường khóc sụt sùi trước những đoạn phim đầy thương tâm rồi tiếp tục khóc trong ngày hôm sau lúc nhắc lại những đoạn phim ấy với đồng nghiệp hoặc với cô Liên, người đã cùng coi phim với cô. Sau khi khóc cho chuyện của phim cô tiếp tục khóc thêm cho chuyện của cô, những câu chuyện đau thương, và khổ sở mà cô trải qua sau năm 1975. Có lẽ vì cô nhiễm phim truyện khá nhiều nên cô có lối kể chuyện rất lưu loát và chính vì thế bà Kim Cúc cũng đã nhiều lần để ý lắng nghe lời cô tâm sự với cả đám thợ hoặc chỉ riêng mình bà. Qua các mẫu chuyện của cô Hằng, bà Kim Cúc biết được cô hoàn toàn mù chữ bởi cái nghèo nàn khổ sở của mẹ cô, và sự chọc ghẹo của bạn cùng trường. Trong những mẫu chuyện ấy, bà Kim Cúc nhớ nhất là chuyện cô làm khuân vác mỗi ngày tại bến cảng T.N. Hình xăm ba đóa hoa hồng và những cánh lá xanh lục trên bờ vai phải của cô được bày ra khi cô nói lý do cô phải xăm chúng. Những vết trầy trụa trở nên ung mủ và chai đen trên mặt vai phải của cô Hằng gây nên bởi những bao hàng nặng trình trịch được thay bằng những đóa hồng xăm màu tươi thắm đã tạo trong trí bà Kim Cúc cảnh một cô gái tội nghiệp đáng thương chạy hùng hục với những bao tải nặng trên vai từ bến tàu đến kho chứa của những người chủ vựa rồi từ kho chứa chạy trở lại bến tàu để lấy lượt khuân hàng khác, cảnh cô gái tội nghiệp đáng thương ấy thành thật trả lại gói tiền của chủ vựa mà cô tình cờ nhặt được và cảnh cô gái tội nghiệp đáng thương ấy kiên quyết phủ nhận sự luyến ái của kẻ muốn tước đoạt trinh tiết của cô khi hắn đặt điều kiện chia cho cô khuân vác hàng nhiều hơn những kẻ đồng nghề với cô. Hình ảnh những bao hàng nặng bốn, năm chục ký oằn thân hình cao đẹp của cô Hằng đã khiến bà Kim Cúc rơi lệ trong những phút họ tâm tình với nhau bởi vì bà chưa bao giờ tưởng tượng ra hình ảnh mâu thuẫn của một cô gái trắng đẹp như thiên thần phải chịu những cảnh vất vả và khổ cực nhất của trần gian.
Cô Minh có tên Jenny cũng là người Việt lai Mỹ trắng. Có lẽ cô cũng sinh ra đời vào khoảng năm 1966 như cô Kim chứ không phải là năm 1971 như cô Hằng nhưng cô không câu nệ chuyện xưng hô chị em như hai cô kia. Với người đồng trang cô thường xưng hô “you me” và với bà Kim Cúc thì cô xưng hô chị em để tỏ ra mình cũng chính chắn chẳng khác gì bà. Hoàn cảnh cô chẳng khá gì hơn cô Hằng; cô mù chữ hoàn toàn vì tình trạng vô gia cư, sự vô thừa nhận của đa số bà con họ hàng và sự ruồng bỏ của chính người mẹ ruột của cô. Bà mẹ vì sợ liên lụy tới “giặc Mỹ”, những người từng bỏ bom miền Bắc, cho nên sau lần di tản năm 1975 đã giao cô cho một người đàn bà ăn xin đáng tuổi ngoại cô. Người mẹ nuôi này, không có phước để hưởng sự đáp ơn của cô, chết đúng ngày cô được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận bảo lãnh cô đến xứ sở tự do. Ảnh hưởng đạo Phật của người mẹ nuôi, cô Minh tin tưởng tuyệt đối vào tiền kiếp và luật nhân quả. Là người thợ làm móng vừa giỏi vừa cẩn thận, cô đã có nhiều khách hẹn nhất trong tiệm. Những người khách của cô luôn luôn kiên nhẫn chờ đến phiên mình để được cô phục vụ chứ không chịu bất cứ người thợ nào phục vụ thay. Thu nhập của cô không những nhiều nhất trong đám thợ mà tiền thưởng của khách dành cho cô cũng nhiều bậc nhất. Điều này đã làm cho cô khẳng định nghề là nghiệp và lập đi lập lại cái cực khổ của nghề hiện tại của cô do bởi tiền kiếp ông bà tổ tiên của cô hành hạ những kẻ nô lệ da màu cho nên đến đời cô phải làm cực khổ để trả bù lại những sức lực mà tổ tiên của cô “đã vay”.
Sự lập đi, lập lại nhiều lần về quả báo do ông bà để lại và về “công việc tôi mọi” hàng ngày của cô Minh đã làm cho cô Liên khó chịu. Cô Liên, có tên Mỹ là Lucy, và là người có thân hình đẫy đà và tròn trịa nhất trong đám thợ, đã cằn nhằn cô Minh rằng công việc chà rửa, cắt móng, xoa bóp tay chân cho khách mà cô Minh làm chẳng khác gì công việc mà cô làm hàng ngày nhưng cô là người Việt lai Mỹ da đen thì tổ tiên cô có nợ gì với người nô lệ da đen kiếp trước mà cô phải trả cho những người cô đang làm. Cô Liên không bao giờ tin vào tiền kiếp nhưng lại tin vào số phận sướng khổ của con người. Cô thường nói là cuộc đời con người là do trời định và con người phải chấp nhận số phận trời ban cho mà không nên than vãn điều gì. Trong khi cô Minh oán trách người mẹ ruột và thương tiếc người mẹ nuôi không còn sống để cô đền đáp công ơn nuôi nấng thì cô Liên đã “giảng đạo” cho cô Minh rằng bất cứ người mẹ nào cũng thương con nhưng vì hoàn cảnh éo le nên đành phải lâm vào cảnh đối xử tàn nhẫn với con và đành phải chịu oán hờn. Cô kể cho mọi người trong tiệm nghe là ngày mẹ cô đem cô cho vợ chồng ông cậu ruột bằng cách dàn cảnh như vợ chồng ông cậu tình cờ lượm được đứa con nuôi, cô đã khóc rất nhiều. Sau đó vì nhớ mẹ cô đã phải đi bộ hai cây số để về tìm bà. Thế nhưng khi trở về nhà ngoại, bà mẹ của cô đã cố tình lẩn tránh. Bà nhất định không chịu nhận cô là con và cương quyết cấm cô gọi bà là mẹ. Buổi tối cuối cùng gặp bà mẹ trước khi trở về nhà ông cậu, cô đã oán trách và nguyền rủa bà là người mẹ tàn nhẫn và ác độc nhất trần gian. Lúc đó, bà đã nói với cô rằng “khi nào con lớn lên, đẻ con và làm mẹ thì con mới hiểu tấm lòng của người mẹ thương con như thế nào! Vì hoàn cảnh mà mẹ phải dứt đi núm ruột của mình thôi!” Khi đến đoạn kể này giọng nói hùng hồn của cô trở nên lập bà lập bập như giọng nói người cà lăm, đôi môi dày của cô rung lên từng hồi, rồi cô òa ra những tiếng nói đứt đoạn hòa trong những tiếng khóc nức nở “... đến giờ ... đến giờ tui có con rồi, tui mới hiểu tình mẹ thương con ra sao bà à! Đẻ con tui ra, tui thương tụi nó bao nhiêu thì tui biết mẹ tui cũng đã thương tui như vậy. Tui hiểu là mẹ tui cho tui đi chỉ vì bả muốn che mắt mấy ông Cách Mạng , và muốn ngừa trước sự trả thù của họ. Ông cậu tui kể là ngày xưa ba tui làm lớn dữ lắm! Ổng làm tướng của quân đội Mỹ lận đó nghe bà ! Nhưng mà bà nghe lời tui đi! Nghe lời tui mà tìm mẹ ruột bà đi! Có lẽ mẹ ruột của bà có nỗi khổ tâm nào khi đem bà cho người khác đó!” Khi nghe cô Liên kể đến đoạn này không một ai trong tiệm để ý đến chuyện biệt tăm của mẹ cô Minh mà xôn xao hỏi ba của cô Liên là ai, tên ông ta là gì và cô đã tìm lại ba của cô chưa. Sau đó, tất cả mọi người đều ồ lên thất vọng trước cái lắc đầu của cô. “Lúc đó, mẹ tui sợ quá nên đốt cả giấy tờ làm sao tui biết đâu mà tìm. Nhưng mà nếu có còn giấy tờ mẹ tui cũng không cho tui tìm đâu vì bả sợ tui sẽ làm bận tâm vợ con của ổng! “. Câu trả lời của cô Liên làm vỡ tan tành hình ảnh trùng phùng của cha con cô theo những tiếng “-” tiếp theo của các cô thợ. Trong lúc các cô thợ vặn hỏi thêm về mẹ của cô thì cô ta tiết lộ thêm rằng “Mẹ tui không có muốn đi Mỹ. Tui sang đây với chồng con tui thôi. Bả ở lại với chồng và hai đứa con trai sau của bả. Bả đẹp mà học giỏi lắm bà à! Đàn ông nào thấy bả cũng mê hết trơn cho nên làm sao mà ở dậy cho được! Trước khi Cách Mạng vô, bả học trường Gia Long Sài Gòn đó mấy bà ! Không dễ nào thi đậu vào trường đó đâu!” Và khi nói về mẹ, Cô Liên đã thao thao về những món quà và những số tiền mà cô đã gửi về cho mẹ cô trong những năm qua, về những cách đáp đền tình thương cho mẹ của cô hiện tại, và về sự báo hiếu của các con của cô trong tương lai để rồi kết thúc tất cả câu chuyện bằng việc khuyên nhủ cô Minh hãy nghĩ đến chuyện tìm mẹ và gửi tiền giúp đỡ mẹ như cô đã từng làm cho mẹ của cô. Tuy nhiên bà Kim Cúc đã không còn nghe cô Liên khuyên nhủ cô Minh kể từ sau thời gian cô Minh tâm sự với cô Liên và mọi người trong tiệm rằng chẳng bao giờ cô ta có thể tìm được mẹ cô bởi vì cô không biết bà hiện ở nơi nào, sống chết ra sao, nhất là cô không có một tấm hình nào để đăng tin tìm mẹ trong khi có thể có hơn hàng ngàn người đàn bà Việt Nam có cùng tên với mẹ cô là Nguyễn Thị Lan. Cô Liên buồn bã kết thúc mối tận tâm của mình đối với cô Minh rằng: “Có khi mẹ của bà chết từ lâu rồi cũng nên! Biết đâu sau khi đem cho bà xong, mẹ bà buồn, bệnh, không có chỗ ở, không có cơm ăn rồi chết. Biết đâu trong lúc bà nguyền rủa mẹ của bà , gặp giờ linh , mẹ bà chết theo lời nguyền rủa đó rồi! Đâu ai biết được chuyện gì xảy ra sau lưng mình! Phim truyện cũng thường chiếu mấy cảnh đó mà bà !”
Vấn đề bàn bạc của hai cô Liên và cô Minh lan khắp tiệm đã khiến cô Oanh, có tên Mỹ là Christy, lên tiếng khuyên cả hai cô nên nghĩ đến việc làm hiện tại hơn là nhắc chuyện quá khứ. Cô cho rằng đã làm cha mẹ thì nên làm gương cho con và dành thời giờ lo cho con ăn học đầy đủ để đời chúng sung sướng hơn đời mình còn hơn là chỉ ngồi lảm nhảm nhắc chuyện đời xưa. Cô Oanh, người có nước da ngăm đen, tóc dợn và thân hình cao ráo, thường nói không biết cô là người Việt lai người Phi Châu, Tây Ban Nha hay Phi Luật Tân, bởi vì cô chỉ được nghe bà ngoại của cô kể lại một cách mơ hồ. Dù là thế, cô vẫn được may mắn là chính phủ Mỹ bảo lãnh sang nước của họ theo diện con lai như những người lai Mỹ khác. Mẹ của cô, bị hất hủi bởi gia đình khá gia giáo và dị nghị bởi xóm giềng, đã đi từ mặc cảm sinh “con hoang” cho đến tình trạng lâm vào cảnh bị ma túy hành hạ. Bà đã chết từ lúc cô vừa tròn một tuổi và sau đó bà ngoại cô đã phải thay bà chăm sóc cô. Cô Oanh là cô thợ cưng của cả bà Kim Cúc và ông bà cụ Đức. Cô thường tự nguyện lau chùi dọn dẹp những thứ bừa bãi, ngổn ngang của tiệm và chăm chút từng vật trong tiệm như chính của cô. Cô có tính tiết kiệm và làm việc rất chăm chỉ. Mỗi khi bà Kim Cúc bỏ những chai nước sơn khá cũ thì cô lượm lặt, pha chế thành bộ màu đặc biệt cho các mẫu vẽ của cô. Câu chuyện lượm lặt những thứ bỏ đi như giấy màu, màu vẽ do những người bạn nhà giàu tiêu xài phung phí khi cô học ở các lớp tiểu học tại Việt Nam đã làm mọi người trong tiệm hiểu vì sao cô vẫn còn có thói quen như xưa. Bà Kim Cúc quý cô Oanh không phải chỉ vì cô chăm lo giữ gìn tài sản cho bà mà vì bà nể tinh thần cầu tiến của cô. Cô là người khôn ngoan trong việc phân chia thời gian học và làm để quân bình thời gian cho công việc và con cái. Cô còn là người đậu đầu tiên trong đám thợ thi đậu vào Quốc Tịch Mỹ và là người tự đậu bằng móng tay bằng tiếng Anh chứ không phải nhờ người thông dịch khi đi thi lấy bằng như những cô thợ khác. Hai đứa con gái của cô, Annie và Lucia, là học sinh ưu tú trong trường tiểu học. Chúng không những giỏi môn tiếng Anh và các môn học khác mà còn biết nói, đọc và viết tiếng Việt thông thạo. Chính cô Oanh là người chỉ cho ông cụ Đức và bà chỗ dạy tiếng Việt và các lớp dạy các môn học khác như toán, lịch sử do hội người Việt tổ chức tại các trung tâm thiện nguyện ở Maryland.
Nhìn từng người thợ đang chăm chú làm việc của họ, bà Kim Cúc sung sướng mỉm cười vì tự nhận thấy mình là một người chủ may mắn. Đa số các cô thợ nữ của bà là những người có tay nghề cao, làm việc chăm chỉ và nhất là không có tính “nhảy tiệm” như những người thợ ở các tiệm móng khác mà bà biết. Trong ý nghĩ của bà, những người thợ “con lai” này là những người có tài, sáng tạo và chăm chỉ. Bà luôn luôn cho rằng họ là những người kế thừa giọt máu của sự thông minh nên mới có thể thu thập kiến thức cần thiết cho việc làm và nhu cầu đời sống tại Mỹ một cách mau chóng. So sánh trình độ học vấn thấp kém và không được may mắn của họ với trình độ Đại Học năm nhất của mình ở Việt Nam, bà thầm khâm phục những kết quả vượt bậc mà họ đạt được như có bằng lái xe, và bằng làm móng tay. Chỉ có chuyện mà bà cảm thấy trớ trêu là chuyện họ cố gắng đeo đuổi học thi vào Quốc Tịch Mỹ. Bà thường hỏi họ với một giọng nói bất bình “Cha ruột của các em nguyên thủy là người Mỹ, những người lính Mỹ ở tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975, thì tất nhiên các em là công dân Mỹ, cần gì mà phải thi vào Quốc Tịch Mỹ nữa chứ?”. “Sinh đâu có quốc tịch nơi đó mà chị! Tụi em sinh tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam thôi!” Cô Minh đáp lại với giọng nói hùng hồn.”Không phải! Tụi mình đâu phải là người Việt! Tụi mình là Con Lai ! Là người Việt lai Mỹ!” Cô Hằng tranh luận bằng giọng nói chua chát. “Thân phận người có hai giòng máu như tụi em phải chịu khổ như vậy đó chị Ann. Ai biểu sao tụi em phải làm như vậy chứ biết làm sao hơn!” Cô Liên bồi thêm với giọng đắng cay không kém gì cô Hằng. “Từ từ chính phủ Mỹ cũng lo cho mình thôi. Họ đã lo được việc bảo lãnh cho tụi mình sang đây thì chuyện lo cho mình trực tiếp vào công dân Mỹ mấy hồi? Tui nghe người ta đồn ì xèo là chính phủ Mỹ đang tiến hành lo cho con lai tụi mình vào Quốc Tịch Mỹ thẳng mà không cần phải thi nhưng tui chưa biết lúc nào và chỗ nào để nộp đơn thôi.” Cô Kim phản bác. Trái với các cô kia, cô Oanh không hề tham gia trong chuyện trách móc, mỉa mai, oán hờn bất kỳ chính phủ nào nhưng cũng không tin chính sách ban ơn bất ngờ của chính phủ Mỹ về chuyện cho con lai vào thẳng Quốc tịch. Cô đã học ngày học đêm các câu hỏi ngay sau khi nộp đơn thi và cuối cùng cô đạt kết quả mỹ mãn khi nhận giấy báo. Tấm bằng mà cô khoe trong tiệm đã khiến cho cả đám thợ rối rít hỏi xin các câu hỏi, tìm thêm tài liệu, mua băng, ghi danh thi với kỳ vọng được đậu vào Quốc tịch như cô ta. Và như thế, song song với những việc làm móng trong tiệm, đám thợ của bà Kim Cúc còn phải lo học thi. Những tờ giấy cóp pi vấn đáp song ngữ trong các ngăn kéo của bàn làm việc của họ luôn luôn được lấy ra và lẩm bẩm đọc như niệm kinh mỗi ngày.
Khách không hẹn và có hẹn vào tiệm tấp nập khiến bà Kim Cúc phải chấm dứt suy tư và đứng dậy đi vào trong tìm cô Vân. Ngang qua bàn làm việc của các cô thợ, bà mỉm cười với ý nghĩ rằng bất kể những người thợ của bà muốn tranh cãi, học hành hay giải trí như thế nào trong những phút rảnh rỗi miễn là họ làm việc siêng năng và đem lợi tức cao cho tiệm là đủ.
Anh Duy Anh tiến đến gần bà với tấm biên lai:
- Chị có thể giúp em tiếp người khách này không? Từ lúc cô Cindy về Việt Nam ăn Tết ông ta thường yêu cầu chị làm cho ông ta mà thôi.
- Được! Thấy khách đông quá nên tôi đang định nhờ Vân chùi nước sơn cũ cho một vài người trước khi họ gặp thợ.
- Mình không cần phải lo như vậy vì họ đến trước giờ hẹn. Chị chỉ cần giúp em phục vụ cho người khách yêu cầu này là được rồi.
- Không thành vấn đề, ông này là khách cũ của tôi trước khi tôi nghỉ bệnh - Bà Kim Cúc trả lời trong khi nhìn tấm biên lai rồi ngẩng đầu, hỏi anh Duy Anh - Tiện đây tôi muốn hỏi là em đã có tên Mỹ chưa?
- Dạ có, tên Mỹ của em là Jones. Em chỉ mới đặt hôm nay thôi bởi vì em không muốn khách nhầm lẫn giữa Ann và Anh.
Bà Kim Cúc gật đầu tỏ vẻ hài lòng rồi bước ra phía trước.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 11
Người đàn ông yêu cầu bà Kim Cúc phục vụ cắt sửa móng chân và móng tay là ông Williams. Ông có khuôn mặt hiền hậu với mái tóc bạc trắng, đôi mắt đục mờ và thân hình so rút bên phải bởi tai nạn xe hơi hơn mười năm về trước. Ông Williams thường được đưa đến tiệm bởi người con cũng có tên Williams. Người con trai của ông có thân hình cao lớn và khuôn mặt đẹp trai đến độ đã làm cho mọi người trong tiệm sững sờ trong lần đầu tiên gặp mặt vì tất cả đều ngỡ ông là một trong những nam tài tử ăn khách của điện ảnh Hollywood Mỹ. Cả hai cha con ông Williams là khách Mỹ trắng nam duy nhất đến tiệm Bàn Tay Đẹp trong thương xá B. này nhưng chỉ có ông Williams cha đến để được phục vụ trong khi ông Williams con chỉ là người đi theo để phụ giúp và đỡ đần cha trong việc đứng ngồi và di chuyển từ nơi này đến nơi kia. Ông Williams cha trước đây là khách thường trực của bà Kim Cúc. Cứ mỗi hai tuần, ông thường được con đưa đến tiệm làm móng tay và móng chân vào buổi chiều thứ bảy. Sở dĩ ông thường đến tiệm này vì bà Kim Cúc đã dành cho ông một giá đặc biệt và vì ông cảm thấy thích hợp với cách phục vụ nhẹ nhàng và tế nhị của bà.
- Chào ông! Ông có khỏe không ạ? Bà Kim Cúc hỏi với giọng Mỹ rất chuẩn.
- Khỏe lắm. Còn bà thì sao? Tôi nghe bà bị bệnh nặng lắm thì phải? Ông Williams cha nhướng đôi mắt mờ đục như muốn nhìn rõ khuôn mặt của bà Kim Cúc hơn khi trả lời.
Bà Kim Cúc nói một cách tươi vui:
- Dạ phải. Nhưng bây giờ tôi đã khỏe hẳn và sẵn sàng phục vụ cho ông đây,
- Cảm ơn bà! Cầu thượng đế ban phúc cho bà!
Ông Williams con đỡ cha dậy, nói với bà Kim Cúc một cách nhã nhặn:
- Cô hãy đi trước chỉ cho tôi bồn nước nào cô dùng. Tôi sẽ đưa ba tôi đến chỗ ấy.
Anh Duy Anh đứng sau lưng bà Kim Cúc trả lời thay:
- Tôi biết nơi nào. Để tôi giúp ông một tay.
Ông Williams cha nói như đọc kinh:
- Cảm ơn anh. Cầu thượng đế ban phúc lành cho anh. Anh Anh!
Anh Duy Anh vừa cặp cánh tay trái của ông Williams cha vào cạnh bên hông mình vừa nói:
- Tên của tôi không phải là Anh nữa thưa ông, mà là Jones.
- Đúng vậy anh Jones. Chỉ có tên bà chủ là Anh. Xin lỗi! Không phải Anh mà là Ann. A, N, N. Ann! Tên đẹp như vậy chỉ dành cho người có tấm lòng cao cả như bà chủ tiệm này thôi.
Ông Williams cha lẩm bẩm khi ông Williams con và anh Duy Anh dìu ông ngang chỗ bà Kim Cúc đang đứng chờ với và đôi mắt kinh ngạc. Bà thực sự bàng hoàng khi nghe các câu trao đổi bằng tiếng Anh lưu loát của anh Duy Anh, người chỉ vừa đến Mỹ chưa đến một năm.
“Chào ông Williams buổi trưa!”, “Chào ông Williams!”, “Ông có khoẻ không hả ông Williams?” “Hôm nay ông được trở lại với người thợ ưa thích của ông rồi phải không ông Williams!” Đám thợ nữ thi nhau chào ông Williams cha khi nhóm người đi theo ông đi ngang bàn làm việc của họ. Và ông Williams cha lại lẩm bẩm trên lối đến bồn Spa làm chân: “Chào buổi trưa” “Chào!” “Tôi khỏe lắm! Cảm ơn trời!” “Cảm ơn! Cảm ơn nhiều! Cầu thượng đế ban phúc lành cho cô! “
Sau khi kiểm tra ông cha ngồi ngay ngắn và thoải mái trên ghế Spa chân, ông Williams con nói với bà Kim Cúc:
- Đây là cái túi đựng vớ mới của ba tôi. Tôi sẽ trở lai sau một giờ đồng hồ. Nếu cần gì thì bà hay anh Jones gọi cho tôi theo số điện thoại cầm tay mà tôi đã cho.
- Vâng, xin ông hãy yên tâm. Bà Kim Cúc trả lời trong khi tháo hai chiếc vớ của ông Williams cha ra khỏi hai ống chân không cân bằng của ông.
Anh Duy Anh quay gót rảo bước theo sau ông Williams con về phía trước tiệm thật nhanh như thể không muốn chứng kiến một phút giây nào cảnh bà Kim Cúc ngồi trên cái ghế con đối diện bồn nước dưới đôi chân của ông Williams cha. Trái lại, cô Vân kéo ghế từ chiếc bàn khách ngồi chờ khô móng tay chân, nơi cô đang cắt những tấm vải nho nhỏ dành cho việc tỉa lông mày bằng sáp nóng, gần phía bồn spa làm móng chân hơn để quan sát những việc làm mà bà Kim Cúc sắp sửa thực hiện.
Bà Kim Cúc không muốn cô Vân quan sát trường hợp như thế bởi lý do tế nhị nhưng bà cũng không muốn lời yêu cầu phủ định của bà mâu thuẫn với lời khuyên ban đầu mà bà đã nói với cô: “Quan sát là một cách làm rất có hữu hiệu vì vậy mỗi khi em thấy tôi hay các bạn trong tiệm làm cho khách thì em nên để ý để học thêm và rút thêm kinh nghiệm cho mình.” Hơn nữa các bước thực hiện làm móng tay chân cho một người đàn ông, đặc biệt là một người đàn ông tật nguyền, là tiến trình mà cô Vân chưa có dịp quan sát kể từ lúc cô vào học trong tiệm của bà. Cho nên mặc cho cô Vân chăm chú nhìn phía sau mình, từ một khoảng cách giữa lối đi, bà Kim Cúc tiếp tục công việc đang có.
Chiếc vớ cuối cùng vừa tuột khỏi hẳn ống chân khăng khiu, ông Williams cha lẩm bẩm ngay những chữ đã thuộc lòng “Cảm ơn bà! Cảm ơn bà!” Qua lớp mờ đục, ánh mắt của ông lộ hẳn sự thành khẩn và e dè mà ai nhìn vào cũng nhận ra sự biết ơn và áy náy của ông về sự việc mà vạn bất đắc dĩ ông mới làm phiền.
Đặt đôi bàn chân của ông vào bồn nước ấm, và bấm nút máy, bà Kim Cúc đáp lại với giọng nói hết sức thông cảm và nhẹ nhàng:
- Không có chi, thưa ông. Đó là bổn phận của tôi.
Lời đáp lại của bà Kim Cúc như bao lời lịch sự quen thuộc thường nhật. Nó đáp lại mau đến độ không bày tỏ hết tấm lòng của bà đối với ông ta. Bởi vì công việc chăm sóc đôi chân của ông không phải chỉ là bổn phận bình thường của một người phục vụ được trả bằng tiền mà còn biểu hiện tình nhân đạo của bà đối với ông, tấm lòng của một người bình thường đối với một người có số phận kém may mắn. Đối với những người tàn tật như thế, bà Kim Cúc luôn luôn phục vụ tận tâm và hết mình. Bà thường xem xét kỹ lưỡng những gì đáng được làm và cần phải làm rồi thực hiện các bước chu đáo và cẩn thận như làm chính cho bản thân mình mà không cần sự căn dặn của những người thân của họ. Những lời căn dặn tỉ mỉ của những người ấy thường xuất phát từ lòng nghi ngờ sự lợi dụng cái bất khả năng kiểm tra của những người thân tàn tật của họ và việc làm kém chất lượng có thể xảy ra bởi những người phục vụ thất trách và vô lương tâm. Các cô thợ của bà Kim Cúc thì ít khi tranh giành những người khách kém may mắn như thế bởi vì chủ trương của họ là “đánh nhanh, rút lẹ” hầu thu nhập tài chính nhiều hơn. Cho nên những lúc bà chủ của họ phục vụ cho những người cần phục vụ đặc biệt với giá cả đặc biệt như thế thì họ không bao giờ dèm pha hay xì xầm đến vấn đề “chủ giành khách của thợ” và cứ thế, khách của bà Kim Cúc thường là những người tàn tật bởi bẩm sinh hay do tai nạn mà khi phục vụ cho họ bà luôn luôn tưởng tượng mình là cô y tá thực thụ trong chiếc áo đồng phục màu trắng dài đến gần đầu gối.
Bà Kim Cúc lặng lẽ nâng nhẹ bàn chân trái của ông Williams khỏi mặt nước xanh đang sủi bọt b?i thuốc khử trùng và đặt nó trên chiếc khăn lông ở bục đỡ rồi t?y trùng cái c?t móng tay. Tiếng “xà rừ xà rừ xà rừ” đều đặn của bồn nước hòa với tiếng đối thoại trong tivi đưa ông Williams cha vào trạng thái mơ màng ngủ. Đôi mắt lờ đờ của ông từ từ ríu lại và những tiếng cảm ơn của ông dành cho bà Kim Cúc mỗi khi bà thay đổi động tác từ từ nhỏ dần đi.
- Đó là một tai nạn rất ghê gớm.
Tiếng nói của ông Williams đột nhiên lớn hơn những lời thì thầm mà ông lẩm bẩm trong khi bà Kim Cúc tìm cách cắt lớp móng cứng chẹt trong thịt của ngón chân cái nơi mà lần đầu tiên bà vô tình làm chảy máu. Không đáp lại lời ông, bà cẩn thận lèn mũi kềm cắt móng xuyên qua lớp thịt phát triển vô trật tự, để tìm cắt từng mảnh một lớp móng cứng ẩn khuất bên dưới hay lồi lõm lên trên. Khi việc làm khó nhất của bàn chân này hoàn tất, bà tiếp tục cắt những móng còn lại, và giũa chúng bằng phẳng. Giũa bằng các đầu móng và chùi sạch dưới từng móng chân một xong, bà đặt nó trở lại trong bồn nước màu xanh rồi nâng bàn chân phải lên tiếp tục chăm sóc cho bàn chân trái, cái mà ngón chân cái của nó phát triển bình thường hơn của bàn chân phải. Luân phiên thay đổi hai bàn chân, lúc thì nâng lên lúc thì đặt vào trong nước, bà Kim Cúc hết đẩy gọn da xung quanh các khóe móng lại cắt tỉa những chỗ da chết lồi lõm không đều, hết mài những đầu móng lại cọ những góc khóe, hết cạy những cáu ghét dưới móng chân lại chùi sạch chúng với gòn và cồn, hết xịt xà phòng trên các ngón lại chà xát từng ngón chân một, hết chà lăn sau các gót chân lại kỳ cọ giữa các ngón chân, hết lăn dầu trên các móng lại chùi rửa xung quanh từng móng một cách tỉ mỉ và cẩn thận cho đến lúc các vật dụng như cây đẩy da chết, cây giũa bằng thép, kéo cắt tỉa, chai xà phòng nước, bàn chải mềm, miếng tàn ong chà gót chân, chai dầu nước, hộp đựng bông gòn được đặt lại vị trí cũ và đôi bàn chân của ông Williams được lau sạch nước bằng chiếc khăn lông đặt trên bục đỡ thì bà mới quẳng đôi găng vào sọt rác và bắt tay vào công việc xoa bóp. Đầu tiên, bà xoa kem làm mướt da đều khắp đôi chân ông Williams từ nửa ống cho đến bàn chân. Kế đến, bà thực hiện các động tác xoay tròn, ấn, vuốt, bấm, và nhấn một cách nhịp nhàng và đều đặn. Những động tác thay đổi được bắt đầu từ mu bàn chân lên quá mắt cá đến nữa bắp chân rồi trở lại chỗ cũ, sau đó tỉ mỉ hơn ở từng ngón chân. Đây là mục thích thú nhất khi khách được làm móng chân nước. Các động tác xoa bóp chậm rãi và kỹ lưỡng không những làm cho làn da của đôi chân họ ướt mướt bóng sáng bởi chất kem bôi mà còn làm cho họ cảm giác dễ chịu trong khi được phục vụ. Đối với người phục vụ thì tâm trạng khác hẳn. Mỗi khi thoa bóp chân cho khách, nhất là khách nam, là mỗi lần bà Kim Cúc cảm thấy buồn bã với việc làm của mình. Để khuây khỏa những ý nghĩ mông lung và giảm bớt được phần nào cảm giác tổn thương, bà tự an ủi rằng dầu công việc có cay đắng thể nào, giúp được cha, mẹ, chồng, con sống đầy đủ mới là chuyện quan trọng đối với bà. Tuy là an ủi như thế, mỗi khi xoa bóp lên xuống đôi chân của khách đặc biệt là những người khách nam mạnh khỏe mà da chân họ bao bọc bằng những thứ rậm rạp khác chứ không phải là những vết sẹo ngoằn nghèo, nhăn nheo như của ông Williams cha mà bà đang phục vụ, thì cảm giác bị tổn thương lâng lâng mãi trong tâm hồn của bà.
Lặng lẽ với những ý tưởng trong đầu và các động tác di chuyển lên xuống đều đặn của hai bàn tay, bà Kim Cúc thông cảm hơn với lời tuyên bố của cô Vân là không bao giờ làm móng chân cho bất kỳ một người khách đàn ông nào. Bà hiểu rõ vì sao cô Vân đã một mực khẳng định rằng”Nếu em làm sạch đẹp chân cho một người đàn ông nào thì người đó phải là người yêu hay là chồng của em chứ không phải là người đàn ông xa lạ nào khác. Theo em, làm nghề nào cũng có nhiều cách khác nhau và mình phải tự chọn cho mình một cách riêng biệt. Khi quyết định lấy bằng làm móng tay, móng chân này, em nghĩ thà mình làm móng bột, móng tay nước, hay vẽ trên móng để ngồi ngang hàng cùng khách hơn là hạ mình ngồi dưới chân họ phục vụ như kẻ tôi đòi. Em rất muốn có việc làm để kiếm tiền nhưng em chỉ chọn công việc nâng giá trị mình lên chứ không vì đồng tiền mà tự hạ thấp giá trị của mình xuống. Chẳng thà em kiếm tiền ít hơn người khác mà không phải lo nghĩ trong tâm.” Chính bà Kim Cúc cũng từng có ý nghĩ như thế khi mới bắt đầu vào nghề nhưng vì yêu cầu của công việc và yêu cầu của chủ mà bà phải nhận làm tất cả các công việc mà tất cả những người thợ trong tiệm đều phải làm như nhau một cách bình đẳng và bắt buộc. Bà nhớ ngày quyết định làm móng chân cho khách nam, bà đã vời ông Hoàng ngồi trên ghế mà dưới chân ông là chậu nước ấm để ngâm chân vào một buổi tối sau khi hai người đi làm về. Tuy nhiên, ý định xóa tan những mặc cảm trong lòng bằng cách làm móng chân cho chồng trước khi nhận làm cho khách nam vẫn không thể nào tác động hữu hiệu trong tâm lý của bà trong lần đầu tiên khi bà làm chân cho một ông khách mà bên cạnh bồn nước ông ngồi là nhân tình của ông ta cũng được phục vụ đôi chân tại bồn nước bên cạnh. Trong lúc họ nói cười vui vẻ, cô bạn đồng nghiệp và bà đã cắm cúi làm mà không dám trao đổi với nhau câu nào bằng tiếng Việt, dù là một câu than vãn, vì sợ bị hiểu lầm nói xấu khách bằng ngôn ngữ riêng của mình. Lúc đó bà thấm thía cho thân phận tôi đòi của mình khi phục vụ cho người khác những việc mà chẳng bao giờ bà có đủ thời gian để làm cho chính bà. Tuy nhiên, sau thời gian quen lần với mùi hôi nồng nặc, với những nốt sùi, vảy sần, nấm xanh, mốc meo, chốc ghẻ, lở láy bà tự an ủi là có đôi găng tay nhựa khi phục vụ cho đôi chân khách là may mắn lắm rồi.Từ đó bà đã nâng biết bao nhiêu đôi chân của bao người đàn ông cho dù bà đã trở thành chủ tiệm. Không muốn tách biệt việc làm của người chủ khác biệt với đám thợ và không muốn cảm giác vui buồn chia thành thứ bậc khi bà và họ làm những công việc khác nhau, bà đã không từ nan bất cứ việc làm nào. Với quan niệm này, bà đã giải quyết nhiều khó khăn của tiệm nhất là trong những lúc tiệm đông khách.
Xoa bóp xong, bà Kim Cúc mang đôi vớ mới vào chân cho ông Williams rồi đứng dậy yêu cầu cô Vân giúp bà đưa ông ra khỏi ghế spa. Cô Vân bước đến bên bà với khuôn mặt căng thẳng và trầm lắng. Ánh mắt của cô trao cho bà ngỡ ngàng và xa lạ đến độ bà không hiểu cô ta nghĩ sao về việc vừa làm của bà và không hiểu cô ta muốn thay đổi ý định kiên quyết ban đầu hay không.