Chương 23
- Cháu mời cô chú ngồi chơi ạ.
Cô Hoa kéo ghế mời ông Hoàng và bà Kim Cúc trong khi ông Nghĩa đứng lên bắt tay chào ông Hoàng trong cử chỉ trịnh trọng.
Lụng thụng trong áo xám bạc màu bỏ trong quần tây đen sờn vải, ông Nghĩa ngượng nghịu:
- Không mấy khi “rồng đến nhà tôm”! Anh chị ngồi tạm trên mấy chiếc ghế xiêu vẹo này!
Ông Hoàng ngập ngừng bắt tay ông với ánh nhìn ngờ ngợ. Trước mặt ông là người đàn ông tiều tụy với khuôn mặt khắc khổ, đầu hói, tóc bạc lơ phơ, má hóp, mắt sâu, răng sún. Nếu như không biết là đến nhà ông Nghĩa thì chắc chắn ông không thể nào nhận ra người bạn cùng trường, cùng lớp và cùng láng giềng với nhau từ thời thơ ấu. Ông không thể tin được người bạn cùng thời năm xưa, một người đẹp trai với mái tóc bồng, đôi mắt tinh anh và nụ cười duyên dáng, trở thành một người đàn ông già nua như bậc cha chú của ông. Ngang trương, đồng lứa, và cùng thời học sinh với ông, nghĩa là ông Nghĩa chỉ mới bốn mươi tám tuổi như ông vậy mà ông ta trông già hơn cả ông anh hai Huy của ông, người lớn hơn cả hai ông này đến mười tuổi. Bắt tay bạn, ông Hoàng bùi ngùi nói:
- Gặp nhau đây mới biết tuổi thơ của tụi mình đã mất mấy chục năm trời.
- Anh đâu có khác gì xưa? Tóc có muối tiêu nhưng vẫn còn dày đặc chứ không hói như tôi. Nếu anh có già hơn chăng nữa thì thời gian qua đối với anh chỉ là cơn gió thoảng, còn với tôi là một tiếng thở dài.
Tự kéo ghế ngồi, ông Hoàng nói thân mật:
- Dù thể nào đi nữa thì chúng ta cũng cùng đánh mất thời gian đẹp trong cuộc đời. Ngày xưa tôi vẫn thường mơ đừng lớn để khỏi lao vào cái khổ ải của chiến tranh bởi vì lúc đó tôi cảm nhận rằng không có thời gian nào đẹp hơn thời thơ ấu trong đời của mình! Tôi không bao giờ quên được ngày bọn mình vô tư vô lự lê la đi chân đất từ xóm trên sang xóm dưới bên nhau. Anh có còn nhớ những lúc mình đi từ miệt này sang miệt khác, lết bờ đất này đến bờ dậu khác, và leo cây hết cây này đến chuyền sang cây khác không? Lúc đó mình câu cá, bắt cua, hái trái, rồi bắn chim vui ơi là vui! Tuy ở xa nhưng tôi nhớ hoài hình ảnh cũ, cho nên ngày xưa tôi ra sao, nay vẫn như vậy không thay đổi gì cả cho nên đừng dùng chữ “rồng”, “tôm” xa lạ lắm!
Ông Nghĩa lắc đầu:
- Bây giờ anh là Việt Kiều phải khác chứ anh! Ở ngoại quốc lâu ngày cũng ảnh hưởng phong cách mới nhiều lắm chứ làm sao giữ phong cách cũ của mình hoài được?
- Việt Kiều gì anh ơi! Tự dưng mà người Việt Nam bên này gắn cho chúng tôi cái tên Việt Kiều chứ chúng tôi vẫn là người Việt Nam chẳng khác gì ngày xưa đâu. Chỗ nào cũng làm để kiếm ăn, chỗ nào cũng có cái ưu cũng có cái khuyết chứ chẳng nơi nào toàn diện cả. Được này mất cái kia! Chẳng qua vì hoàn cảnh tôi phải xa đất nước mà thôi!
- Anh nói vậy chứ giờ thử hỏi anh ở đây luôn xem anh có chịu không? Ai cũng nói ở nước ngoài buồn chán nhớ quê hương nhưng thực tế thì chẳng mấy ai muốn trở về!
Bà Kim Cúc cắt ngang câu chuyện của họ bằng cách đặt một gói nhựa trước mặt bà mẹ ông Nghĩa, thưa:
- Tụi con gửi bác, anh Nghĩa và các cháu chút quà bên ấy.
Ông Nghĩa xuề xòa:
- Sang thăm chúng tôi là quý rồi cần gì quà cáp chị ơi! Thôi thì không có gì hơn, chúng tôi xin cảm ơn anh chị vậy!
Bà mẹ ông Nghĩa rút chai dầu nước xanh vui vẻ nói:
- Sao cháu biết người già bên này thích dầu xanh này mà gửi cho vậy?
- Dạ cũng do cháu nghe mấy cô thợ chỉ cho nên cháu biết cần mua những thứ quà nào để biếu bà con đó bác!
- Cháu làm gì bên ấy mà có thợ?
- Dạ cháu làm móng tay.
- Nghe nói nghề móng tay ở bển “có ăn” dữ lắm hả cháu! Nói vậy các cháu cũng khá há?
- Dạ cũng được thôi bác à.
Cô Hoa đặt các tách trà trên bàn thưa:
- Cháu mời bà nội, cô chú và ba dùng trà.
Sau khi sắp đặt từng chiếc tách trước mặt mỗi người xong, cô Hoa quay lưng đi xuống bếp với chiếc khay và bình trà. Bà Kim Cúc, nói dăm ba chuyện chào hỏi với bà mẹ ông Nghĩa xong, cũng đứng lên xin phép đi xuống bếp tìm cô Hoa.
Vừa đặt chân xuống căn bếp của ông Nghĩa, đôi mắt của bà Kim Cúc trở nên hoang mang và ngơ ngác trước cảnh nghèo nàn ngoài sức tưởng tượng của bà. Lá tranh lợp ngang dọc trên các thanh xà xiêu vẹo trên đầu, tường cây lồi lõm không đều, nền đất ẩm thấp, giường tre, chiếu nát, đèn dầu lù mù và bếp lò bằng những viên gạch cao thấp bấp bênh là những cái mà bà chưa bao giờ hình dung được ngay cả trước thời gian trốn ra khỏi nước. Khẽ khàng ngồi xổm trước bếp lò, nơi cô Hoa đang chùm hum cúi đầu thổi lửa bằng ống tre, bà hỏi:
- Mẹ của cháu mất từ bao giờ vậy cháu?
Giật mình, quẳng chiếc ống thổi xuống nền đất cạnh chân, cô Hoa phủi tay trả lời:
- Dạ lâu lắm rồi cô! Từ lúc cháu ra đời kia! Mẹ cháu bị băng huyết.
- Tội nghiệp vậy sao! Vậy mà ba cháu vẫn ở vậy nuôi anh em cháu đến giờ này hả?
- Không phải vậy đâu cô. Sau khi mẹ cháu qua đời, ba cháu ưng nhiều người lắm. Nhưng mà vì các dì ấy chỉ yêu ba cháu chứ không chịu nỗi cái nghèo của “ổng” nên lần lượt bỏ đi.
- Vậy ba cháu làm gì để nuôi bà nội và các cháu?
- Trong vườn có được gì bán nấy để kiếm tiền mua gạo còn không ăn sắn, ăn rau trồng ở vườn! “Trời sinh voi trời sinh cỏ”, lây lất sống qua ngày cô à! Nhưng mà sau khi anh cháu đi nghĩa vụ quân sự về thì gia đình cháu đỡ hơn vì anh đi làm kiếm tiền phụ cho ba cháu. Ảnh làm bảo vệ ở công ty thực phẩm lớn ở trên “thành phố” nên có lương hàng tháng đó cô.
Bà Kim Cúc cảm thấy thương hại khi nghe chữ “đỡ” của cô Hoa. Sự cam phận với cảnh nhà xiêu cửa nát của cô làm bà chạnh lòng.
Mở cái ví tiền bà lấy vài tờ giấy Mỹ Kim dúi vào tay cô Hoa:
- Cô gửi cháu chút này đưa cho ba cháu hộ cô. Cô không dám đưa thẳng cho ba cháu vì sợ ba cháu tự ái.
Cô Hoa nói cảm ơn trong khi nhét tiền vào túi rồi tâm sự tiếp:
- May là anh Minh lớn hơn cháu tám tuổi nên giúp được cho ba cháu, cho bà của cháu và cho cả cháu nữa. Ảnh có việc làm cũng nhờ cô Thu đó cô! Cô Thu quen biết rộng rãi lắm cô à! Bạn cổ toàn “cán bộ gộc” không hà! Muốn làm việc gì nói cổ tìm dùm cho chứ không phải ai ở Sài Gòn cũng có thể kiếm việc dễ dàng đâu cô! Nhiều anh chị học đại học ra mà không quen biết cán bộ cũng thất nghiệp đó cô!
- Bởi vì cô Thu “của cháu” là “Việt gian” mà! Nếu cả hai bên cùng đem cổ ra xử không biết phải trị cổ như thế nào?
Tiếng nói của ông Hoàng làm bà Kim Cúc và cô Hoa giật mình ngẩng đầu lên. Ông Hoàng đang đứng cạnh bà Thu, người đang nhún vai nói oang oang:
- Bất quá là đem em ra xử bắn. Đời người ai cũng chết, chết trước khỏi chết sau. Sau năm 1975, tinh thần của em có sung sướng gì đâu, chẳng qua mỗi người có một cách đối phó với nghịch cảnh sau chiến tranh mà thôi! Nếu xét công minh, em là người yêu nước mới phải. Bởi vì còn người ở lại như em đây mà Sài Gòn vẫn còn có người nói tiếng miền Nam.
Bà Kim Cúc ngạc nhiên:
- Ủa? Cô út Thu cũng sang đây chứ không ở bên nhà tiếp chuyện với anh hai Huy sao?
- Tiếp chuyện gì chị ơi! Em với ảnh có hợp nhau đâu mà tiếp với nói! Ngồi nói với nhau vài ba câu thế nào cũng cãi lộn cho nên em để cho mấy đứa nhỏ nói chuyện làm vui cho ảnh còn hơn. Anh Thắng cũng theo em sang đây và đang nói chuyện với anh Nghĩa ở trển. Em muốn rủ chị đến nhà bà bạn em gần đây xem bói. Em bảo đảm là ở bên Mỹ chị không tìm được ai coi bói giỏi như bà này đây.
- Coi bói? Chị không có tin vào mấy chuyện mê tín dị đoan này đâu!
- Thì em đi chơi với Thu cho biết! Tin thì nghe còn không thì thôi, chứ hề gì! Xem thử rồi cho họ tiền trà nước như hình thức giúp đỡ những người muốn kiếm tiền bằng cái nghề này vậy mà! Ông Hoàng xen vào.
Bà Kim Cúc gật đầu đồng ý và mỉm cười với ông Hoàng trong lúc đứng dậy rồi bước theo bà Thu lên gian nhà trên. Vẫn như những lần trước, bà luôn luôn làm theo lời đề nghị của ông Hoàng bởi vì sau lời khuyên của chồng bà là một ẩn ý tốt đẹp.
Ra khỏi nhà ông Nghĩa, bà Thu và bà Kim Cúc bàn tán chuyện về ngang nhà dắt Lisa đi theo chơi để nhân tiện cho nó thấy cảnh người làm kẹo dừa kẹo chuối và mua kẹo cho nó ngay tại xưởng làm. Tiếng nói của họ loãng dần trong khu vườn và mất hẳn từ cái cửa sau của gian nhà bếp ông Nghĩa. Trong cái im lặng gượng gạo, ông Hoàng và cô Hoa chỉ còn nghe tiếng nói cười râm rang của ông Nghĩa và ông Thắng vọng xuống từ cánh cửa lên gian nhà trên.
Đẩy cái đòn cho ông Hoàng với ánh mắt dịu dàng, cô Hoa nói:
- Ngồi xuống đây xem cháu nấu nước châm thêm trà đi chú! Chú thích loại trà này chứ?
- Chú không biết! Chú chưa uống vì chú vừa mới uống nước bên nhà bác Huy rồi - Ông Hoàng trả lời khi ngồi trên chiếc đòn mà cô Hoa dọn sẵn cho rồi hỏi sang chuyện khác - Không có mẹ, Hoa phải lo tất cả chuyện trong gia đình chắc vất vả lắm hả?
Cô Hoa nhỏ nhẹ tâm sự:
- Không phải vậy đâu chú! Khi tụi cháu còn nhỏ, ba cháu thường có nhiều dì đến ở chung nhà và thường được các dì ấy chăm sóc luôn. Chỉ có sau khi các dì ấy lần lượt bỏ đi, tụi cháu phải giúp bà nội và ba lo việc nhà thôi. Nhưng cháu chẳng lo gì nhiều vì nhà có gì đâu mà lo chăm sóc hơn nữa cháu ít ở nhà lắm. Cháu phải làm thuê làm mướn ở quanh đây giúp thêm cho bà nội và ba cháu chứ dừa, chuối và rau trồng trong nhà không đủ nuôi bốn miệng ăn. Bây giờ cháu được cô Thu đưa lên Sài Gòn sống cũng đỡ vì cháu sẽ có thêm tiền phụ với anh Minh giúp cho ba và cho bà nội của cháu.
Những lời tâm sự đầy chân tình của cô Hoa không mảy may làm ông Hoàng xúc động vì ông không tập trung nghe chúng lắm. Ông cảm thấy xốn xang khi nhìn đôi môi đỏ ướt mọng của cô cong lên rồi oằn xuống, và cái lưỡi liếm môi sau những câu nói như chúng đang cùng nhau múa vũ điệu gợi mời. Bối rối bởi sự khao khát mơ hồ trong ý tưởng, ông Hoàng nói bâng quơ:
- Trà thơm quá hả cháu!
Cô Hoa trả lời ông bằng giọng nói hết sức ngọt ngào:
- Trà này là trà ướp dứa chứ không phải ướp hoa lài hay hoa cúc đâu chú à! Để cháu châm cho chú một tách khác, chú thưởng thức xem sao nghe!
Không chờ ông Hoàng chấp thuận lời yêu cầu của mình, cô Hoa mau mắn châm nước vào chiếc bình cạnh các tách trống bằng gốm có hình vân viền màu bạc nhũ trên chiếc khay được đặt trên cái bàn nhỏ cạnh bếp lò rồi chế nước trà vào một cái tách trống. Cô vừa hít mũi vừa nói khi nâng chiếc tách bằng hai tay tận miệng ông:
- Cháu tin là chú thích loại trà này vì loại này đặc biệt không như các loại mà nước mình có trước đây đâu.
Ông Hoàng đón tách nước với cảm giác lâng lâng. Mùi thơm của lá dứa trong tách trà, mùi khói của củi cháy đốt và mùi thơm chanh của mái tóc gần kề làm cho ông cảm thấy xao xuyến. Song song với trạng thái xúc động của ông Hoàng, cô Hoa dao động không kém. Mùi thơm toát ra từ cổ và lồng ngực to lớn của ông, có lẽ được tổng hợp bởi loại xà phòng đặc biệt, nước hoa đàn ông hiếm quý và nước thơm sau khi cạo râu đắt tiền của những hãng nổi tiếng ở Tây Âu, kích thích nhịp hít của đôi cánh mũi cô nhiều hơn thở, quyến rũ đôi mắt tò mò của cô xuyên qua lớp áo sơ mi trắng mỏng của ông lâu hơn và khuấy động sự ham muốn của tuổi thanh xuân đang dâng tràn mãnh liệt trong lòng cô. Chớp nhẹ đôi mi cong vút, cô ngọt ngào nói:
- Coi chừng nóng nghe chú! Thổi cẩn thận trước khi nhấp chứ phỏng.
Dứt lời cô liếm đôi môi sẵn ướt của mình như sẵn sàng áp chúng vào môi ông Hoàng nếu chẳng may sự cố đáng tiếc xảy ra.
Xoáy vào mắt cô bằng cái nhìn chăm chú, ông Hoàng tinh nghịch nói:
- Phải chi ở Mỹ có được người chăm sóc kỹ lưỡng như thế này thì quý hóa biết bao! Ở Mỹ bận lắm Hoa à! Ai cũng bù đầu làm việc không có ai có thời giờ đâu mà rảnh rỗi ngồi nhâm nhi trà như thế này.
Cô Hoa đánh ực một cái nơi cổ trước khi nói:
- Phải chi cháu được ở bên đó thì cháu phục dịch cho gia đình cô chú. Ở đây nhàn hạ không làm gì cho hết giờ, buồn chán lắm chú ơi!
Ánh mắt ông Hoàng vẫn chăm chăm và xoáy thẳng vào đôi mắt long lanh của cô Hoa, nơi lấp lánh những ánh lửa đùa vui trong đôi tròng đen. Ông muốn nói cô Hoa biết là ông muốn ở trong khung cảnh lãng mạn của căn bếp nghèo nàn như thế. Ông còn muốn nói là ông muốn được ngồi bên cạnh bếp hồng với người con gái trẻ đẹp như cô để được nghe những lời nói êm dịu của cô suốt đời. Nhưng, ông sẽ không bao giờ nói cái lý do mà ông muốn điều ấy bởi vì những ao ước trong tâm tưởng của ông là những khao khát tiềm ẩn trong thời thanh niên vẫn còn sống lại trong ký ức của ông cho đến giây phút ấy.
Nhấp miếng trà tưởng đâu lắng cạn được nỗi khao khát, mùi thơm mát của da thịt con gái thoang thoảng kèm theo. Nó đã kích thích sự tò mò của đôi mắt ông và đưa chúng hướng trên làn da mịn màng của vùng ngực mà cô Hoa vô tình để lộ khi cô vói lấy những nhánh củi châm vào bếp. Vùng ngực ấy trở nên nóng rát bất ngờ vì cô Hoa bắt gặp ngay cái nhìn đầy khát vọng của ông. Thay vì che đậy cái vòng cổ rộng tròn của áo, cô đã cố tình phơi bày thêm ra bằng cách nghiêng vai xuống thấp hơn, ngay trước mặt ông với sự thích thú thầm kín. Đùa nghịch như thế vài giây, cô co hai đầu gối sát vào nhau, chống cằm chăm chú nhìn lửa. Thỉnh thoảng, cô liếm đôi môi ươn ướt đỏ tự nhiên của mình để xóa tan cái ngột ngạt của sự im lặng mà cô không biết bắt đầu đề tài gì để nói thêm với ông Hoàng. Toàn thân cô rung lên nhè nhẹ vì cô biết ánh mắt khao khát của ông Hoàng đang tỏa khắp người cô và vì cô đang chờ đợi sự vuốt ve, mơn trớn bất thình lình nào đó. Tuy nhiên, cô đã bàng hoàng khi ông Hoàng nói:
- Chú phải về! Trời khá tối rồi!
Ông đứng lên bước về phía gian nhà trước, không buồn để mắt xem phản ứng cô Hoa như thế nào.
Tối hôm ấy bên tiếng ngáy đều của vợ, ông chập chờn với những ý nghĩ mông lung. Những kỷ niệm ngày xưa trở lại và khung cảnh gian nhà bếp của ông Nghĩa ám ảnh trong tâm tưởng khiến ông không thể nào chợp mắt.
Bà Kim Cúc trở giấc:
- Anh vẫn chưa quen với giấc ngủ bên này hay vì nhà lạ?
- Chắc là cả hai. Tiếng nói của ông Hoàng khô khan và lạnh lẽo.
Dúi đầu vào vai chồng, bà Kim Cúc nói:
- Mấy ngày ở bên nhà chị Bạch Mai em không ngủ được vì thiếu hơi anh. Hôm nay thì được ngủ ngon lắm!
Tiếng cười gượng nhẹ của ông Hoàng như luồng khí loãng nhạt đến nỗi không thể nào xuyên qua cái màn đêm dày đặc trước mặt. Ông không nói gì.
Bà Kim Cúc tiếp tục nói với giọng ngái ngủ:
- Anh biết tối hôm nay bà thầy bói nói gì với em không? Bà nói là chúng ta sẽ có những thay đổi bất ngờ. Buồn cười cho người Việt mình ở đây là họ nghĩ đất Mỹ rộng, người ở xứ Mỹ lắm tiền, có thể đi đây đó đủ nơi, có thể thay đổi chỗ ở cũng như công việc làm như thay áo nên đoán mò thay đổi này thay đổi nọ chứ đâu biết mình làm việc bên ấy đều đặn mỗi ngày như người máy!
Ông Hoàng xoay lưng ra ngoài, nhưng vẫn đáp lại như phải trả lời bởi một sự bắt buộc:
- Biết đâu bà ấy không nói về chúng ta mà gia đình của chúng ta. Biết đâu con cái chúng ta sẽ có những thay đổi nào đó? Không chừng thằng Phụng hay con Loan sẽ ra riêng để tự lập. Lúc trước tụi nó không có ý định nhưng biết đâu sau này chúng thay đổi ý định không chừng. Mấy đứa mười tám tuổi ở Mỹ thường tự ý ra sống riêng. Còn hai đứa con mình xong trung học mà không thấy đả động gì nhưng đó không có nghĩa là chúng sẽ ở luôn với tụi mình đâu.
Bà Kim Cúc chép miệng, nói một cách chậm rãi:
- Em không biết, nhưng khi bà ta nói về tổ tiên, và ông bà thì em nhớ đến ba má. Em định là ngày mai sẽ nói cô Thu chỉ đường cho gia đình mình ra thăm mộ ba má. Em muốn các con mình thăm mộ ông bà nội và bác Hân của chúng trước khi trở về Sài Gòn.
Ông Hoàng không trả lời. Sự im lặng của ông càng lúc càng dày đặc và quyện chặt vào bóng đêm trước mặt. Ông cảm thấy thương người vợ đầu ấp tay gối với mình trong hai mươi năm qua. Cái ân tình và nghĩa cử của bà khiến ông phát giác ra tình cảm của ông bao năm đối với bà là tình nghĩa vợ chồng sâu đậm chứ không phải tình yêu trai gái nồng nàn theo đúng ý nghĩa của nó. Với điều phát hiện thực tế nhất và đau lòng nhất của mình, ông cảm tưởng toàn thân mình rơi tõm vào trong khối đen dày của màn đêm. Chưa bao giờ ông cảm thấy cô đơn hơn lúc ấy.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 24
Vẫy tay chào con bé Lisa trên chiếc xe gắn máy của cậu Bình, bà Kim Cúc dõi mắt trông theo hai chiếc xe của ông Thanh và cậu Bình khuất dần nơi đầu hẻm đưa ra đường lớn Lê Văn Sỹ. Bức tường của căn lầu hướng mặt về phía con đường lớn, những căn nhà nối liền nhau trước nhà và ngã tư của con hẻm ngay trước góc nhà bà Bạch Mai đã gợi lên cho bà biết bao kỷ niệm ngày xưa. Cũng trong những buổi chiều năm nào, tại cái góc quen thuộc của lan can này bà thường đứng ngắm những tia nắng nhạt dần từ ngã tư của con hẻm đến những cánh cổng sắt của các căn nhà kề cận nhau ở các con đường trong xóm, lên tới các giàn dây leo đầy các loại hoa đủ màu, tận đến các vòm cây rồi từ từ biến mất trên các nóc nhà lầu. Trong những buổi chiều nhạt nắng như thế bà thường mơ mộng nhiều điều xa xôi khó hiểu nhưng rõ ràng nhất là sự an ổn của đất nước để gia đình bà có được sự hiện diện của ông Đức, người cha đáng kính của bà.
“Giờ ta còn đứng đây, giữa trời hắt hiu. Trời không một chút mây đã khô cằn như trái tim. Sao ta còn đứng mãi như người tình mong đợi ai. Sao ta còn đứng mãi để nghe tâm hồn tê tái ...”
Tiếng nhạc êm dịu vang lên từ chiếc cát sét trong căn gác đàng sau lưng cho bà hiểu người chị ruột của mình đã cố tình gợi thêm cho bà những kỷ niệm cũ bằng những bài hát mà bà thường nghe trước năm 1975. Không những chỉ là thế, những lẵng hoa mười giờ đủ màu treo lủng lẳng quanh trước hiên gác, chậu hoa cúc vàng cạnh chậu rau quế là những vật kỷ niệm có lẽ được tạo dựng lại trước ngày bà về nước nhằm gợi cho bà những gì bà đã mất sau hai mươi lăm năm.
Bâng khuâng sờ các lẵng hoa bằng vỏ trái dừa treo ngang đầu, nhè nhẹ mơn man những búp cúc vàng dưới chân rồi nồng nàn ngửi mùi lá quế, bà Kim Cúc lâng lâng với tâm trạng trở về thời gian yêu dấu xưa. Bà nhớ ngày đi chơi Bình Dương năm nào đã nằng nặc xin người em trai họ những chiếc vỏ dừa do anh ta chạm khắc để trồng các loại hoa mười giờ trang điểm quanh trước hiên gác. Bà nhớ buổi tối dạo chợ tết Nguyên Đán đã vòi bà Bạch Mai mua cho bằng được hai chậu hoa cúc màu vàng tươi mát. Bà nhớ những buổi chiều đã chăm chút chậu rau quế đầy um những ngọn lá xanh tốt cho món bánh cuốn mà mẹ, chị và bà thường làm trong những ngày chủ nhật. Bà nhớ rõ những ngày chủ nhật trước năm 1975 ba mẹ con bà, bà cụ Đức, bà Bạch Mai và bà, thường xúm xít khuấy bột, xắt thịt, lột hành tím, cắt nấm mèo, làm nước mắm xôn xao chờ đón ông cụ Đức về dùng. Bà nhớ những lúc như thế, xuyên qua vách tường mỏng với các nhà bên, bà thường nghe những tiếng nước máy chảy, và tiếng chén bát rửa loảng xoảng. Cũng qua các bức tường sát chung với nhau ấy, bà, và có lẽ những người khác trong xóm, thường nghe những tiếng gọi, tiếng nói, tiếng cằn nhằn, và tiếng than thở của nhau. Ngoài ra những người trong xóm còn có thể nghe những tiếng hát cải lương, tiếng hát vọng cổ, tiếng ca của những bài tân cổ đã được phổ biến hoặc mới được lưu hành của thời ấy như “Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà”, “Chuyện Tình Lan và Điệp”, “Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi” hay “Cô Thắm Về Làng”. Các đoản khúc như “Trời ơi! Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn nên Võ Đông Sơ dành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu Hà ...”, hay “Điệp ơi mai này lên chốn phồn hoa nhà xe lộng lẫy xin anh đừng quên bến đò xưa con sông nhỏ chốn quê xưa em vò võ mong chờ” hay “Thi ơi, Thi ơi, Thi. Thi biết, biết không Thi? Khi con tim yêu đương là sống với đau thương, khi con tim yêu đương là chết với u sầu thì Thi đã biết cớ sao Thi buồn” hay “Ô kìa ai như cô Thắm trông dáng hoa gấm hoa trang đài. Thế mà hôm nay cô Thắm không khác chi các cô nàng ta. Nón bài thơ nghiêng trong nắng tà. Áo bà ba duyên quê ấy mà cùng chị em chân dép cô đi chợ xa. Thì ra cô thắm ăn ở theo thưở theo thời. Bao người thương, bao chàng mê. Làng trên xóm nô nức xa gần. Bà con cô bác ai nấy khen thầm: Ước chi ta có dâu là nàng....” lập đi lập lại ngày này qua ngày khác khiến cho bà thuộc lòng và biết thêm các nhân vật Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà, Lan, Điệp, Thi và Thắm. Cũng ngày xưa, ngoài những bài ca mộc mạc từ những chiếc máy thu thanh và cát sét của các nhà trong xóm, bà còn nghe những tiếng rao hàng khác nhau, liên tục và không thôi từ lúc sáng sớm đến tận chiều tối. Nào là “Bánh mì, bánh mì Sài Gòn nóng dòn đây!”, rồi “Ai ăn khoai mì, khoai lang, khoai tím, khoai mỡ, khoai sọ hôn?” rồi “Xôi mỡ, xôi dừa, xôi đậu đen, xôi đậu xanh, xôi đậu phụng với xôi thập cẩm đây!”, rồi “Ai ăn chè đậu đỏ, bánh lọt, chè bà ba, chè đậu xanh nước dừa hôn?”, rồi “ Bò bía, bò bía đây mại dô, mại dô!” và còn nhiều món rao mời hấp dẫn khác. Thêm vào đó, những tiếng xắp xắp của những chiếc xe gỏi đu đủ xanh có bò khô và tương ớt đỏ, tiếng lục lạc của xe mì hủ tiếu, tiếng chuông leng keng của xe kem dạo, và những tiếng gõ cửa lộc cộc cùng những tiếng gọi mua hàng của những bà bán dạo quen biết đã thường nhắc nhở bà vòi tiền mẹ để được ăn hàng như một cô gái nhỏ.
- Bạch Mai ơi, Bạch Mai!
Tiếng kêu khá lớn từ dưới hiên gác vọng lên cắt giòng tư tưởng của bà Kim Cúc và khiến bà nhìn xuống. Cốt gây sự chú ý của người đàn bà đang đứng trước hai cánh cửa khép kín trước nhà, bà nói lớn:
- Chị Mai của em đã đi rồi chị ạ.
Người đàn bà bước lùi ra sau, tựa lưng vào chiếc xe máy đang dựng sẵn rồi hỏi với giọng nghi ngại:
- Kim Cúc? Chèn đét ơi!Có phải em về đó không?
- Phải, em đây. Trời ơi, chị Quyên! Em nghe chị đã dọn đi chỗ khác không ngờ còn được gặp chị!
Bà Kim Cúc reo lên trong khi vội vàng bước nhanh xuống thang gác. Mở cửa cho khách, bà rối rít nói thêm:
- Chị trông khác xưa nhiều quá đi! Ngày trước chị luôn luôn để tóc dài đen mướt thả dài xuống áo dài xanh đậm, áo dài cam và áo dài trắng chứ em đâu ngờ chị cắt tóc ngắn và mặc đồ Âu như vầy?
- Lớn tuổi thì trang phục theo cách người lớn tuổi thôi! Bà Quyên mỉm cười trả lời rồi xuýt xoa thêm - Chị cứ tưởng em không bao giờ trở về Việt Nam nữa chớ! Dữ “hôn”, mãi đến hai mươi lăm năm mới được gặp lại nhau!
Vừa đặt chân vào căn phòng lớn trên gác, bà Quyên bước ngay đến chiếc giường nơi bà cụ Đức nằm im lìm với đôi mắt nhắm nghiền, hạ giọng nói nhỏ hơn:
- Bác gái sa sút đến vầy sao? Hôm trước đến thăm bác, chị thấy bác còn đỡ chứ đâu đến nỗi như vầy?
- Mẹ em mới xuất viện đó chị nhưng bác sĩ vẫn còn yêu cầu đưa mẹ em vào bệnh viện tái khám cho nên gia đình em phải thay phiên nhau chăm sóc mẹ em hàng ngày.
- Bác trai đâu?
- Bố của em đang nằm nghỉ trong phòng, chị khỏi cần chào.
- Em về một mình?
- Không, em về với cả gia đình nhưng vì thấy tình trạng sức khỏe của mẹ em cùng kiệt quá nên xin ông xã ở lại đây để chăm sóc mẹ em.
- Để ông xã và các cháu ở khách sạn không sợ sao?
- Sợ gì ạ?
Bà Quyên kéo chiếc ghế cạnh giường bà cụ Đức vừa ngồi vừa nói nhỏ:
- Mấy ông Việt Kiều về đây thường bị các cô “bắt cóc” lắm đó! Coi chừng!
- Ông xã và hai cháu lớn của em đang ở nhà em gái của ảnh chứ đâu có ở khách sạn. Hơn nữa, xưa nay ảnh rất đàng hoàng, nếu có gì thì đã có ở Mỹ rồi không cần phải chờ về đây cho nên em không cần phải sợ gì cả.
Bà Quyên cười:
- Chị chỉ nói đùa vậy thôi chứ người chồng nào có thể bỏ người đàn bà đẹp và giỏi như em. Em không thấy già chút nào, trẻ và đẹp như xưa, nhưng mà không giống Việt Kiều thôi!
- Thế nào mới làViệt Kiều hả chị?
- Mấy cô Việt kiều thường có tóc nhuộm, mặt tô điểm xanh đỏ, và nhai kẹo cao su luôn miệng chứ không như em đây.
Bà Kim Cúc đứng dậy, vẫy tay ra hiệu cho bà Quyên:
- Ra ngoài hiên gác với em để hiểu vì sao em khác với những người Việt Kiều mà chị vừa nói và vì sao em thích ở trong căn nhà cũ như vầy!
Bà Quyên đứng dậy đi theo bà Kim Cúc đến tựa lan can của hiên gác rồi cùng nhìn xuống đường. Bà nói nhỏ:
- Chị hiểu em muốn nói gì! Chúng ta đã mất đi một thời dễ thương bên nhau, một thời gian đẹp nhất trong cuộc đời.
Im lặng trong giây lát, bà Quyên nói tiếp với giọng xa vắng như đang bị xúc động trong khi tường thuật một cuốn phim đầy cảm động:
- Em có còn nhớ mỗi buổi chiều chủ nhật cũng ở chỗ này chị thường đứng đây với em để nghe tiếng đàn dương cầm của con bé Tường Anh từ trong căn nhà lầu kia không? Còn nhớ anh chàng Trực “hiền như bụt” ở cái nhà có cây ổi đàng kia không? Nhớ lần hai chị em mình chạy sang nhờ ảnh sửa dùm dây sên xe đạp chứ? Lúc đó, trước hiên nhà em, ba “bà con gái” tụi mình ngồi chăm bẳm nhìn anh ta sửa xe làm cho anh chàng lính quýnh sửa hơn cả tiếng đồng hồ mà không xong đó, nhớ không? Em có nhớ anh chàng để tóc dài mới đến xóm mình ở trong căn nhà “ngày xưa” có trồng lá trầu bà um tùm kia không? Anh chàng mà tụi mình cố tìm hiểu tên gì mà tìm không ra đó nhớ không? Có nhớ mình thường quở mấy lá trầu bà xanh tốt của nhà anh ta nhờ bóng rập của cây ổi nhà anh Trực không? Cây ổi bị chặt từ lúc nào cho nên cái bụi trầu bà cũng chết theo, nay chỉ còn trơ trọi bức tường ngăn. Những căn nhà trong xóm bây giờ cũng bị đổi chủ cả, chẳng biết những người xưa ở những nơi nào, mà ngay cả gia đình chị cũng không còn ở đây! Lâu lâu đến thăm Bạch Mai, chị cũng thường đứng ở cái góc này để ngậm ngùi với những đổi thay như lúc này.
Bà Kim Cúc lặng người nghe bà Quyên nói trong khi tiếp tục nghe lời ca vọng ra từ chiếc máy cát sét trong nhà. Bà chép miệng nói:
- Em không ngờ bây giờ “họ” cho nghe lại nhạc xưa! Càng nghe, càng nhớ những bài hát ngoại quốc mà ngày xưa kia chị thường hát!
- Nếu không còn được nghe nhạc xưa thì chị cũng không thể nào quên được dù cho đến phút cuối của cuộc đời. Nhưng mà mỗi lần nghe những bài nhạc xưa như thế này thì các bài như J entends Siffler Le Train, Et Pourtant , La Femme De Mon Amie, Adieu Joly Candy, Mal hay Love Me With All Your Heart, hay If You Go Away lần lượt vang vọng trong tiềm thức của chị và khiến cho chị buồn day dứt cả ngày.
Bà Kim Cúc trầm ngâm với vẻ bi sầu trên mi:
- Em hiểu mất mát trong lòng chị như thế nào! Những ngày ở đây, nhìn lại những cơn mưa bóng mây, em nhớ cái dù nhựa chấm bi đỏ mà em thường đi dưới những cơn mưa. Chị còn nhớ lần hai chị em mình nhìn những giọt mưa rơi trên nóc dù bi đỏ rồi sau đó lại nhìn những tia nắng gắt của mặt trời không? Em còn nhớ lúc đó mình thường nói với nhau là “Mưa nắng Sài Gòn bất chợt như tính tình con gái “.
Thay cho câu trả lời, bà Quyên hát nho nhỏ theo tiếng nhạc: “Như mưa ngày nào thấm ướt vai em, như mưa ngày nào khuất lấp sao đêm, thương em ngày nào khóc ướt vai mềm. Thương nhau thật nhiều biết mấy tin yêu, cho nhau trọn tình dẫu có điêu linh, xa nhau trọn đời vẫn nhớ thương nhau, thương nhau, thương nhau, thương nhau ...”
Thở dài trong tiếng hát còn rơi rớt trong không gian, bà Quyên nói:
- Bây giờ “chế độ” có cho chúng ta nghe lại nhạc xưa thì tóc của chúng ta cũng đã bạc màu! Mới đó mà chúng ta đã trải qua hơn nửa đời người! Mất mát một thời gian đẹp của nửa đời người, có đáng buồn không?
Bà Kim Cúc ngẩn ngơ:
- Không hiểu sao “ngày xưa” chị cứ thường hát cho em nghe ghê đi! “ Hồi đó” chị thân với em với hơn chị Bạch Mai nữa đó!
- Bởi vì tuy học chung với Bạch Mai trong trường trung học Gia Long, nhưng cùng đi học chung với em ở đại học M. Đ nhiều nên chị gần gũi em hơn Bạch Mai là vậy. Mà lúc đó chị với em thân nhau thật! Cái gì riêng tư thầm kín chị em mình kể cho nhau nghe chứ không hề với Bạch Mai. Đó là hai mươi lăm năm về trước, còn bây giờ em có còn muốn tâm sự với chị nữa không? Em sống ở Mỹ ra sao? Hạnh phúc tràn trề khi được sinh sống ở thiên đàng tự do chứ?
- Tất nhiên là sau cuộc mạo hiểm tìm tự do em đã được đền bù và được làm việc ổn định trong xứ sở vừa có tự do vừa có luật lệ hẳn hoi, tuy nhiên không phải như vậy là không còn lo lắng. Trước 1975, Việt Nam Cộng Hòa mình cũng tự do vậy! Cũng vì quá tự do nên mình mới bị mất nước. Bởi vậy mà dù được sống ở xứ tự do nhất toàn cầu, em vẫn thường có những cơn ác mộng về cảnh trốn chui trốn nhủi lén lút ven bìển. Trong những cơn ác mộng như thế, em không xác định mình đang trốn ra khỏi Việt Nam hay ra khỏi Mỹ.
Bà Quyên cười với ánh mắt nhạo báng:
- Nhưng em đang về thăm lại Việt Nam đây mà?
- Vì bố mẹ em thôi. Mẹ em khăng khăng đòi về Việt Nam chữa bệnh và không chịu trở lại Mỹ nên em phải liều về nhân tiện đưa mấy cháu về thăm quê luôn! Thực ra là vì thấy nhiều người Việt bên ấy đi đi về về không bị trắc trở gì nên vợ chồng cũng muốn thử một chuyến thử xem sao!
Bà Quyên thở dài:
- Bởi vậy mà những người còn lại như chị đây luôn luôn ở trong cảm giác bị bỏ rơi. Người người đua nhau làm giấy tờ đi ra khỏi nước, Việt Kiều chỉ về thăm chơi chứ chẳng có bao nhiêu người đoái hoài đây là quê hương nữa ... Nhưng mà cũng chẳng trách ai được, vì cho dù có bao nhiêu thay đổi, chúng ta vẫn không có thực chất tự do của “ngày xưa”.
- A phải rồi! Nhắc đến ngày xưa, em mới nhớ Tuấn hay nhờ em đưa thư cho chị. Lúc đó em bị chị la quá chừng. Em nhớ chị hay nói với em là Tuấn nhỏ hơn chị ba tuổi chỉ đáng em của chị mà bày đặt yêu đương. Chị vẫn còn nhớ Tuấn, con chú thím Phúc của em chứ?
- Làm sao quên được! Lúc đó, chị vẫn thường đi chơi vườn với Bạch Mai và em vào mỗi ngày chủ nhật mà! Chị nhớ “ngày xưa” đi chơi ở Bình Dương, chị và em thường len lỏi dưới mấy giàn mướp, giàn bầu, hái chôm chôm, hái ổi, hái xoài, hít mùi thơm của hoa chanh, thưởng thức không khí trong lành của đồng nội vui ghê! Không như bọn trẻ bây giờ làm chuyện “bá láp bà xàm” gì đâu. Ảnh hưởng nước ngoài từ khi mở cửa, tụi “choai choai” đua đòi theo lối sống nước ngoài, quan niệm sống “nửa nạc nửa mỡ”, ăn mặc “nửa Tây nửa Ta” thấy mà chán thì thôi!
Với ánh mắt xa xăm, bà Quyên nói tiếp:
- Ngày xưa, đất nước mình nghèo không nghèo, giàu không giàu, mọi người đồng cảnh mà thương yêu nhau, bình an sống vui vẻ. Chị còn nhớ lúc đó, mình có chiếc đồng hồ truyền từ đời cha đến đời con, có máy ra đi ô, cát sét, bút máy, xe máy, xe đạp hư thì cùng nhau mở tanh banh ra rồi chum đầu tìm tòi cách sửa để dùng lại. Trung Thu đến, tụi mình dạo bộ đường Trương Minh Giảng tha hồ nhìn lồng đèn treo, nhìn bánh dẻo bánh nướng. Trẻ con trong xóm thì họp nhau làm lồng đèn Trung Thu giấy, làm lồng đèn bằng lon Coca Cola. Còn bây giờ, nhiều người được giúp đỡ của Việt Kiều hay lợi dụng được cơ hội tham nhũng hối lộ làm giàu nhanh cực độ trong khi những người khác thì nghèo ngóc đầu không nổi. Thiên hạ bây giờ chỉ lo tranh nhau sắm xe, tậu đất, xây nhà dữ lắm. Cái “tinh thần đua chen hơn người” lớn đến nỗi mọi người thường gặp nhau hay thường xa lánh nhau cũng chỉ bởi khoe khoang hay ganh tị. Nếu có dịp đi chơi em sẽ thấy thành phố bây giờ ăn chơi quá hơn thời xưa nhiều lắm! Nhà hàng, cà phê, quán nhảy, quán nhậu, các loại quán “ôm” mở nhiều hơn trước đôi ba lần. Nông thôn thì không còn những mái nhà tranh đồng dạng và cân đối nữa đâu! Lâu lâu có vào cái nhà lầu cao lớn chênh vênh giữa mấy cái nhà lụp xụp làm mất hết vẻ đẹp chân chất của thiên nhiên. Và cũng vì mấy cái nhà lầu cao lớn chơi vơi giữa cái vùng đất nông thôn này mà mấy cô gái trẻ ngây thơ đánh mất hết cả những ý nghĩ chân chất hiền lương. Chúng đã gầy cho các cô ước vọng thoát khỏi cảnh nghèo khó, được ra nước ngoài và được đáp đền công ơn nuôi dưỡng của các bậc sinh thành của họ như người khác. Và cũng chính vì ước vọng muốn đưa gia đình lên cuộc sống cao hơn mà rất nhiều cô gái trẻ Việt không ngại khoe các bộ phận của thân thể như bày hàng để được chọn ra nước ngoài và “làm dâu” xứ người. Bởi vậy mới nói là đời bây giờ hết còn màu hồng!
- Nhưng mà dù sao Việt Nam bây giờ thay đổi hơn mức tưởng tượng của em rất nhiều. Trước khi về đây em nghe đã có nhiều đổi mới nhưng không hình dung ra cảnh nhà cửa mọc lên như nấm, phố xá đông đúc nhộn nhịp, và xe cộ đầy nghịt khắp đường.
Bà Kim Cúc nói một cách sôi nổi.
- Cũng nhờ Việt Kiều hết đó em! Hơn nữa, dân miền Nam lì thấy mồ, dễ gì bị tàn lụi được! Trước khi trốn ra khỏi nước em cũng biết rồi! Lo thì lo nhưng thiên hạ vẫn tích trữ “Chuyện vui bộ đội” với “Chuyện cười sau 1975” để vui sống cho qua ngày chứ ngán ai.
- Nhưng nếu không dính dáng với chính quyền cũ thì cuộc sống người dân ở đây không đáng lo ngại lắm! Ngày hôm qua về thăm Bình Dương, em biết được vợ chồng Tuấn đều là giáo viên trường tiểu học gần nhà. Họ sống rất bình lặng chứ không đua tranh gì với bên ngoài. Ở chung với chú thím Phúc và hai đứa con, một trai một gái đang bậc trung học, em cảm thấy họ rất bằng lòng với hiện tại chứ không thắc mắc gì.
- Thì em cứ nghĩ là nếu em không trốn được khỏi nước em cũng phải tìm cách sống như thế nào phù hợp với ý thích của mình cho dù có tán thành hay không tán thành đường lối của chế độ.
- Còn chị bây giờ ra sao?
- Chị đã lập gia đình và có hai con. Ngày xưa chị cứ tưởng mình sẽ ở giá vì cái tính “già kén kẹn hom” ai ngờ cuối cùng cũng lập gia đình.
- Anh ấy cũng là người miền Nam hả chị?
- Ừ nhưng nhỏ hơn chị đến mười hai tuổi
- Nhỏ hơn cả một con giáp? Chị không nói đùa với em đó chứ? Giọng nói của bà Kim Cúc trở nên phấn khích khi hỏi thêm - Vậy sao ngày xưa chị nói là không bao giờ lấy người nhỏ tuổi hơn?
- Ngày xưa đâu phải chỉ có một mình chị mơ ước có một người yêu lớn tuổi hơn và được lập gia đình với người hiểu biết hơn mình. Đàn bà con gái thời nào chẳng muốn được thấy nhỏ bé hơn người đàn ông mà mình yêu nhưng mà chiến tranh hủy diệt tất cả những mơ ước đó thôi.
Bà Kim Cúc cắt ngang:
- Em đang nói chuyện của chị mà! Chị chưa trả lời câu hỏi của em!
- Thì bởi “Ghét của nào trời trao của đó” cho nên chị “bị” người nhỏ tuổi lấy mất lý trí.
- Tính tình của chị rất cứng rắn. Em không hiểu làm sao có thể như vậy?
- Cũng tại tình yêu của anh ta quá chân thành cho nên anh ta đã lấy hết tính cứng cỏi của chị. Vào năm 1979, chị bị suyễn rất nặng phải nằm ở bệnh viện C.R mà gia đình đơn chiếc không có ai chăm sóc nên ảnh đã thường xuyên vào bệnh viện chăm sóc cho chị luôn. Trong lúc không còn đủ sức “đuổi” anh ta khỏi bệnh viện vì ống dưỡng khí, chị đã phải chứng kiến cảnh anh ta trải chiếu dưới đất cạnh giường bệnh nằm ngủ để chăm chị. Mà em biết bệnh viện ở Việt Nam vào thời gian ấy dơ như thế nào!
Bà Kim Cúc hỏi với giọng trầm trầm:
- Có phải đó là nguyên nhân làm trái tim của chị bị mềm đi không?
- Đúng vậy, nhưng chấp thuận tình yêu của anh ta không phải là vấn đề đơn giản. Trước đây, khi diện kiến với bà con bạn bè và người của gia đình anh ta hay của gia đình chị, chị mắc cở ghê lắm. Ai đời mẹ của anh ta cũng đáng bằng tuổi của chị hai chị chứ mấy! Cũng vì chấp nhận tình yêu của anh ta mà chị đã phải ráng vất đi cái mặc cảm khi nghĩ đến sự không cân xứng tuổi tác. Còn bây giờ, diện kiến với bản thân, chị cảm thấy sức lực của mình không thể nào đáp ứng được những tình cảm mà anh ta trao cho mình. Sức khỏe của một người đàn bà lớn hơn người đàn ông mười hai tuổi và sức lực của người đàn ông trẻ hơn người đàn bà một con giáp không thể nào hài hòa và thích hợp bất kể là tình yêu của họ nồng nàn và chân thật đến bao nhiêu. Đôi khi chị cảm thấy đau lòng vì thương cho cái tình yêu oái ăm, thương cho anh ta và cũng thương cho bản thân mình. Tuy nhiên, khi nghĩ đến chuyện để anh ta lấy vợ bé thì chị cảm thấy rất đau lòng vì dù sao ảnh và chị cũng đã có hai đứa con với nhau rồi.
Bà Kim Cúc định hỏi thêm về hai đứa con của bà Quyên theo phép xã giao nhưng tâm trí của bà không được tập trung lắm. Hình ảnh người thanh niên nắm cánh tay của bà và tha thiết nói những lời yêu thương hôm nào trong tiệm Bàn Tay Đẹp chợt hiện ra trong ý nghĩ của bà. Lắc đầu chối bỏ hình ảnh già nua tội nghiệp của mình và khuôn mặt thất vọng của người thanh niên trong tưởng tượng, bà nghiêng đầu đưa mắt xa tận cuối hẻm.
Bà Quyên hỏi:
- Có phải chuyện của chị làm em suy nghĩ không? Xin lỗi là chị đã quá nhiều chuyện!
Bà Kim Cúc vội lắc đầu:
- Không, không đâu! Em biết tính chị chẳng bao giờ muốn thố lộ những nỗi niềm riêng của mình cho ai. Lâu qua không được nghe chị nói, nay được chị tâm sự em rút kinh nghiệm nhiều lắm.
Bà Quyên đáp:
- Tuổi tụi mình không còn gì để mà cần đến sự rút kinh nghiệm về tình yêu hay hôn nhân! Lứa tuổi này chỉ dành cho con cái hay nghề nghiệp mà thôi!
Bà Kim Cúc hỏi lảng qua chuyện khác:
- Giờ chị làm gì?
Bà Quyên từ tốn trả lời:
- Bác sĩ nội khoa của bệnh viện T.N.
Bà Kim Cúc ngạc nhiên:
- Em nhớ ngày trước, lúc chị đến chơi với chị Bạch Mai, em có nghe chị kể là ba chị trong quân đội Cộng Hòa và gia đình chị ở cư xá SQCH một thời gian cho đến khi ba chị mất mới ra ở nhà ngoại chị ở xóm này mà sao “họ” cho chị việc làm vậy?
- Lúc trường đại học M.Đ bắt chị nộp lý lịch, chị đem bản lý lịch lên phường chờ ông chủ tịch ký nhưng không gặp đành đưa cho ông phó chủ tịch phường. Sau khi xem bản đơn của chị xong, ổng hỏi chị làm bản lý lịch để nộp ở đâu. Chị kể là chị nộp đơn cho đại học y M.Đ để ra trường. Nghe vậy, ổng nói chị khai cha chết năm nào là đủ không cần phải ghi chi tiết chết vì lý do gì, còn hai người anh trốn ra nước ngoài không biết ở đâu thì cũng không cần ghi vào đơn. Để giải thích thắc mắc của chị ông nói cái gì đã mất, đã chết và không biết thì không cần khai thêm. Lúc đó chị ngạc nhiên lắm nhưng cũng nghe theo lời ổng xé bản khai lý lịch cũ rồi điền vào bản khai mới mà ông cho để ổng ký ngay như ông yêu cầu. Cũng nhờ nghe theo lời ổng mà sau khi nộp bản lý lịch cho trường đại học M.Đ chị được nhận việc y sĩ ngay sau khi ra trường. Làm công việc y sĩ khoảng bảy năm, chị xin học thêm ra bác sĩ cũng với nội dung của bản lý lịch gốc này.
- Ông phó chủ tịch phường? Có phải chị muốn nói ông phó chủ tịch Phương không?
- Đúng rồi. Ông phó chủ tịch Phương, ba của anh Thanh chồng chị Bạch Mai của em chứ không phải ông phó chủ tịch mới hiện giờ đâu. Không hiểu sao lúc ấy ông ta bày chị như vậy nhưng chị đoán là có lẽ ông ta đã thấu hiểu một điều gì đó nên ngấm ngầm tìm cách giúp đỡ chị.
Bà Kim Cúc im lặng nhớ đến lời khẳng định của cậu Bình hôm nào về bản chất tốt của ông nội và ông ngoại của cậu ta. Tuy nhiên, khi nghĩ đến sự man khai lý lịch như cách ông phó chủ tịch Phương bày cho bà Quyên, bà Kim Cúc không bao giờ tin được là thân sinh của bà, ông cụ Đức, chấp thuận nếu được mách bảo như thế. Vốn là người bộc trực và thẳng thắn, ông cụ nhất quyết ghi đúng thời gian và công việc của mình trong công tác tuyên truyền trong ban Chiêu Hồi cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
Bà Quyên nói tiếp:
- Sau này vì một sự tình cờ chị biết rõ chuyện gia đình của ông phó chủ tịch Phương này. Em gái của ông ta là đại tư bản ở Sài Gòn, sợ tiếp xúc với anh mình sẽ bị sơ hở những việc làm cá nhân nên đã lẩn tránh ông cho đến khi vượt biển trốn ra nước ngoài. Đa số bà con của ông đều là dân giàu có ở Sài Gòn nhưng sản nghiệp đều bị tiêu tan sau vụ cải tạo công thương nghiệp cho nên càng ngày càng đâm ra oán trách và xa lánh ông. Có thể nói là sự trở về của ông rất chua chát vì ông không được gia đình bà con họ hàng đón tiếp nhiệt tình như ông mong muốn.
Trước khuôn mặt hoang mang của bà Kim Cúc, bà Quyên bình thản kết thúc ý nghĩ của bà:
- Nhưng mà bây giờ ông phó chủ tịch đã chết. Nghi kỵ, oán hờn, hay thù hận cũng chẳng để làm gì! Điều mà chúng ta luôn luôn hoài tưởng là chúng ta xuất phát từ đâu, đã làm gì và đã có những gì trong thời gian đẹp trước biến cố 1975 tại miền Nam Việt Nam, nhưng trong lúc ao ước những điều nhiệm mầu xuất hiện trong hoàn cảnh thay đổi của đất nước thì chúng ta cũng không nên quên rằng mỗi người trong cuộc đời đều có một phần số khác nhau. Nếu chúng ta ở một nơi nào vào một thời gian nào, và trong một hoàn cảnh nào mà không được may mắn như chúng ta ao ước thì số phần chúng ta không khác gì hơn. Thử tưởng tượng nếu em phải sinh ra đời ở miền Bắc trước năm 1975, hay không được đến Mỹ sau năm 1975 thì em sẽ làm gì và sẽ ra sao?
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 25
Buổi trưa hôm ấy, khu vườn Bình Dương um tùm cây trái của ông cụ Phúc thấp thoáng bóng dáng của các thanh niên nam nữ từ thành phố về. Họ tụ họp nhau lại do đề nghị của cậu Thanh và bởi ước muốn thay đổi vị trí tham quan du lịch của cậu Phụng và cô Loan.
Khu vườn rộng hơn bốn mẫu này nguyên thủy là nơi ông cố Quang, cậu ruột của ông cụ Đức và ông cụ Phúc, tạo dựng cơ nghiệp đầu tiên khi vào Nam. Ông cố Quang là người cậu duy nhất của ông cụ Đức và ông cụ Phúc và là người dày công dưỡng dục hai cụ sau khi bố mẹ của hai cụ này gặp tai họa tại Nam Định. Trong phong trào cải cách ruộng đất ở miền Bắc, thân sinh của hai cụ Đức và Phúc bị đấu tố và bị đày đi tù. Chưa đầy một tuần nơi rừng thiêng nước độc, ông cụ bị mắc phải chứng sốt rét ngã nước trầm trọng và được tha về nhà. Ngày cụ về được đến nhà là ngày cụ từ giã cõi đời và là ngày mà toàn bộ tài sản đất, vườn, ruộng của cụ bị tịch thu. Mất chồng, mất tài sản lại bị đuổi ra đồng, thân mẫu của hai cụ Đức và Phúc trở nên điên loạn, lang thang rày đây mai đó. Khi ông cố Quang, em ruột của thân mẫu hai cụ Đức và Phúc tìm lại bà chị, chỉ thấy tấm thân tàn tạ, rách rưới của một thân xác còm cõi nằm chết bên vệ đường. Ám ảnh với hai cái chết thảm của anh rể và chị ruột, ông cố Quang đã hết lòng thay thế họ chăm hai người cháu ruột, cháu dâu và cháu gái, đồng thời đưa toàn bộ cháu chắt của ông theo dòng người di cư vào Nam năm 1954. An cư lạc nghiệp ở vùng đất tự do tại Bình Dương, ông cố Quang đã cùng cháu chắt cần mẫn làm việc, chắt chiu từng đồng kiếm được để vừa nuôi sống vừa tậu được khu đất rộng làm nơi định cư. Xuất thân là nông dân và là người từng nếm qua cảnh đói nghèo khổ sở, ông cố Quang chăm lo làm lụng cho tương lai cho con cháu đến độ quên cả bản thân mình. Cho đến ngày lâm chung vì bạo bệnh, ông chưa một lần quan hệ hay lập gia đình với người đàn bà nào. May mắn cho ông là năm 1978, sau khi ông mất, căn nhà và cả khu vườn rộng mà ông tậu nên không bị chính quyền tịch thu. Toàn bộ căn nhà và vườn đất thuộc về vợ chồng ông cụ Phúc một cách chính thức và hiển nhiên bởi vì các thành viên trong gia đình của ông cụ Phúc đều có tên trong hộ khẩu gia đình đúng như trong giấy ủy quyền thừa kế mà ông cố Quang đã ghi rõ trước khi lìa đời. Chính quyền mới không có một lý cớ nào để tịch thu tài sản của ông cụ Phúc khi mà vợ chồng ông cụ này và người con trai độc nhất của họ không hề làm việc gì dính dự đến quân đội của chính quyền miền Nam trước năm 1975. Ông cụ Đức, dù là anh cả, dù không được chút tài sản gì do cậu ruột để lại cho, không hề phật lòng vì chuyện em mình có tất cả. Ông cụ đã từng lý luận với bà cụ Đức là nếu ông cố Quang giao đất và nhà cho ông cụ thì toàn bộ sở hữu và sản nghiệp sẽ bị tịch thâu ngay khi mà ông là người có liên quan sâu đậm đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi thôi dạy tại Sài Gòn vào năm 1972, ông cụ là thành viên tích cực cho ban chiêu hồi của Quốc Gia tại M.T. Trong thời gian đó vì sự học của hai người con gái mình, bà cụ Đức nhất định bám nghề dạy của mình, bám thành phố Sài Gòn và cư ngụ trong căn nhà do bà đứng tên làm chủ thay cho chồng chứ không chịu dời về sống ở M.T nơi công tác của chồng bà hay ở lại Bình Dương nơi gia đình bà đặt chân đến và nhập cư đầu tiên vào năm 1954. Khu vườn Bình Dương là nơi bà Bạch Mai đặt chân vào Nam khi bà còn là cô gái nhỏ vừa đúng một tuổi mà còn là nơi chứa chấp mối tình vụng trộm và ngang trái của bà với ông Thanh. Nó cũng là nơi bà Bạch Mai sinh cậu Bình và là nơi vợ chồng bà tìm kế sinh nhai qua công việc làm rẫy, trồng mì và làm bánh ướt bán. Sinh ra và lớn lên trong khu đất vườn Bình Dương yên bình và thanh tịnh từ bé là lý do cậu Bình quyến luyến với nó hơn là căn nhà ở Sài gòn nơi mà gia đình cậu hiện đang sinh sống và là căn nhà mà mẹ cậu thừa hưởng sau khi ông cụ Đức và bà cụ Đức đi Mỹ do được bà Kim Cúc bảo lãnh. Thường thường, mỗi ngày chủ nhật, cậu Bình thường lái xe máy trở về thăm ông bà cụ Phúc, vợ chồng ông Tuấn và con cháu của họ chứ không phải chỉ vì có sự hiện diện của những người Việt Kiều.
- Đây là nơi anh sinh ra không có mặt của ông bà ngoại và không được bàn tay ôm ấp của dì ba! Cậu Bình vừa đi vừa nói với cô Loan.
Sóng bước bên cạnh cậu, cô Loan hỏi với giọng đầy ngạc nhiên:
- Hôm nọ nghe anh nói nhưng em không biết vì sao. Có phải lúc đó ông bà ngoại và mẹ em đã đi ra khỏi nước rồi không?
- Chưa, nhưng tại lúc ấy ông bà ngoại và dì ba không chấp thuận mối tình của bố mẹ anh.
- Vì sao vậy? Cậu Phụng đi phía sau, hỏi với giọng bán tin bán nghi.
- Tại bố anh là con của cán bộ.
Cậu Bình trả lời khi cậu dừng bước tại một gốc cây chôm chôm đầy quả và cả đám thánh niên cũng dừng lại nhìn cậu trong im lặng.
Chợt, cô Loan lên tiếng hỏi:
- Cán bộ là gì?
- Là người làm việc cho chính quyền Việt Nam hiện nay. Cậu Bình trả lời.
- Chính quyền của Việt Nam bây giờ? Chính quyền cộng Sản? Nói vậy ông nội của anh là Việt Cộng hả? Cô Loan hỏi với giọng thất thanh.
- Đúng vậy, nếu em muốn gọi như thế. Cậu Bình gật đầu.
Cô Loan chau mày, ái ngại:
- Nếu vậy thì ông bà ngoại và mẹ em không chấp nhận ba anh là đúng rồi. Em nghe ông bà ngoại và ba mẹ em kể là vì Việt Cộng chiếm miền Nam nên rất nhiều người ở miền Nam mất nhà, mất của, đi tù cải tạo, đi kinh tế mới và chết biển trên đường tìm tự do.
Cậu Bình lên giọng nói lớn:
- Khi chiến đấu, ông nội anh không nghĩ sẽ gây ra những việc mà em kể đâu. Với nhiệt huyết yêu nước của thanh niên thời ấy, ông chỉ nghĩ đến chuyện hy sinh tính mạng trong chiến trường cho sự nghiệp hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước thôi! Nếu không có sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước chúng ta sẽ tiếp tục ở vào tình trạng khốc liệt, đổ máu và tương tàn.
Cậu Vũ, im lặng từ lúc đặt chân vào khu vườn, lên tiếng chen vào:
- Đáng buồn là những cái mà ông cụ nghĩ khác hẳn với thực tế. Tại sao phải là cuộc nội chiến bắn giết lẫn nhau mà không phải là sự tôn trọng tự do chế độ chính trị của mỗi bên như nước Đức hay Đại Hàn? ... nhưng chúng ta đang đi chơi vui vẻ đừng nhắc đến chuyện chiến tranh xưa cũ nữa.
Cậu Phụng nói:
- Nếu một đất nước có vận mệnh may mắn thì được thống nhất một cách êm đẹp sau thời gian các phe phái bất đồng quan điểm. Còn lâm vào tình trạng nội chiến thì phải ở tình trạng huynh đệ tương tàn, hết bắn giết lẫn nhau lại hủy hoại tinh thần nhau. Bất cứ phe nào, dù thắng hay thua, đều khăng khăng lý tưởng mà họ đã từng chiến đấu trong chiến tranh là đúng là tốt. Không ai chịu đầu hàng và khuất phục với phe đối lập một cách dễ dàng dù cho ngọn cờ họ phất lên trong chiến đấu bị tước đi. Người thắng luôn cho mình là những người làm cách mạng và gọi kẻ thua là phản động nhưng nếu họ bị thua thì họ cũng lâm vào tình trạng như thế, không khác gì.
Ngạc nhiên nhìn cậu Phụng, vì lần đầu tiên nghe cậu này nói khá nhiều và đồng thời vì tiếng Việt của cậu khá chuẩn đối với một người sinh ra và lớn lên tại Mỹ, cậu Minh thích thú nói vào:
- Đúng vậy! Bởi vì bất cứ phe nào sau khi thắng trận cũng đều cho rằng cuộc chiến tranh của họ theo đuổi là cuộc chiến tranh chính nghĩa với lý do “chính nghĩa thắng hung tàn”.
Cậu Nam bàn thêm:
- Theo tôi thì những người tự cho mình là quân giải phóng phải nhức đầu khi vào Sài Gòn. Họ cảm thấy hố vì không biết giải phóng cho ai. Dân Sài Gòn lúc đó giàu có, sống tự do và sung sướng quá cần ai giải phóng? Còn những người lính Cộng Hòa ngày xưa cũng phải ân hận vì thua trận bởi vì thật ra quân đội miền Bắc chẳng “ba đầu sáu tay” gì. Người dân miền Nam mình trước đây thất trận bởi vì chỉ ở thế thủ chứ không ở thế tiến và vì nhiều người ít học bị tuyên truyền, giật dây. Chỉ tội cho những người quá tin vào sự tốt đẹp của Xã Hội Chủ Nghĩa để cuối cùng lãnh hậu quả hoàn toàn trái ngược.
Cậu Bình hỏi vặn:
- Thế tại sao trước năm 1975 người miền Nam không tìm cách tuyên truyền cho nhân dân miền Bắc về chính sách ưu việt của chế độ Dân Chủ Cộng Hòa trong khi lại để cho nhân dân miền Nam bị tuyên truyền về chế độ quốc hữu hóa và xã hội vô giai cấp của miền Bắc để rồi cuối cùng hứng trọn một hậu quả trái ngược như vậy?
Cậu Nam nói sôi nổi:
- Sao lại không? Anh có biết ban Tuyên Truyền Chiêu Hồi của Quốc Gia không? Hồi đó ban Chiêu Hồi vận động biết bao nhiêu người Việt Cộng quay về với chính nghĩa Quốc Gia nhưng tại vì nhiều người ngoài Bắc không có điều kiện để nghe lén chương trình này đó thôi. Nói là nói vậy chứ nghe những chuyện kể lại là tôi hiểu chủ trương tự do trong miền Nam thời ấy không thực sự chiêu dụ người nào bởi vì quan niệm của xã hội tự do là luôn luôn tôn trọng quyền tự do chính kiến của mọi người. Nếu anh muốn, anh trốn khỏi chế độ không thích hợp với anh còn không thì thôi chứ chẳng ai thu phục anh. Tuy nhiên nếu anh làm phiền tôi thì tôi phải làm phiền đến anh. Nhưng mà nghe kể lại hay kiểm nhận qua thực tế thì tôi thấy chỉ có nhiều người bỏ trốn từ các nước Cộng Sản sang các nước tự do dân chủ chứ chưa có người nào ở chế độ tự do dân chủ chạy trốn sang tị nạn hay định cư ở các nước Cộng Sản cả.
Cậu Minh bàn ra:
- Tôi tin rằng nước ta bị cảnh tương tàn đổ máu trước đây vì sự “giật dây” của các tư tưởng chính trị ngoại lai và sự vô nhân đạo của kinh doanh chiến tranh Quốc Tế mà thôi. Có thể các bạn cho rằng chiến tranh gây dựng nhiều anh hùng và lòng quả cảm nhưng theo tôi thực thể của nó vẫn là tàn bạo và độc ác. Các phe phái lúc nào cũng nói mình chiến đấu cho lý tưởng để rồi tận diệt lẫn nhau, đụng trận là bắn giết, bắt được thì tra khảo, cùng gọi nhau là “địch”; và sau chiến tranh thì cả hai phe đều có đầy dẫy thương binh liệt sĩ chẳng khác gì nhau!
Cậu Bình cãi lại:
- Nhưng tôi không bao giờ tin những người lính mệnh danh là chiến sĩ tự do mà lại đem tự do cho đất nước khác bằng vũ khí và đạn bom như những người lính trong quân đội Mỹ. Chưa thấy tự do đâu đã thấy chết chóc trước rồi! Chính người Mỹ còn nói chiến tranh bỏ bom B52 tại miền Bắc Việt Nam là chiến tranh vô nhân đạo chứ đừng nói là ai!
Đỏ mặt vì giận, cô Loan trừng trừng ánh mắt trên khuôn mặt cậu Bình:
- Vậy anh nói chiến tranh nào là nhân đạo? Chiến tranh pháo kích vào thành phố và giật mìn trên đường Quốc Lộ gây bao nhiêu người dân miền Nam chết oan là chiến tranh nhân đạo sao? Và anh nghĩ là chiến binh Mỹ thích bỏ xương máu họ cho nước Việt Nam lắm hả? Nếu không vì lý tưởng tự do, không vì muốn ngăn chặn làn sóng tiến quân của phe Cộng Sản xuống miền Đông Nam châu Á, thì những người chiến binh Mỹ không xả thân như thế đâu! Nghe ông ngoại kể là có nhiều sĩ quan miền Nam ngày xưa muốn hy sinh thân mình chứ không muốn con họ chết trong chiến tranh nữa kìa! Vài người tìm cách khai trụt tuổi con họ xuống để con họ không phải đi chiến đấu trong khi đa số thanh niên trẻ Mỹ tham chiến trong chiến trường Việt Nam ở vào đúng lứa tuổi quân dịch!
Cậu Phụng lắc đầu:
- Đó là chuyện “trước năm 1975” ở miền Nam Việt Nam, còn bây giờ ở Mỹ có rất nhiều thanh niên Việt Nam và thanh niên Mỹ gốc Việt tình nguyện gia nhập vào quân đội lắm.
Cậu Bình kiên quyết:
- Thể nào thì thể, tôi chẳng bao giờ tin vào cái biện luận giúp nước bạn giữ vững tự do và dân chủ bằng phương cách chiến tranh. Tại sao một cường quốc lớn như Mỹ không để các nước nhược tiểu tự do lựa chọn cái chế độ mà các nước ấy muốn? Tại sao phải xen vào nội bộ của các quốc gia khác chứ? Đã mang danh là nước đại diện cho sự yêu mến tự do bậc nhất trên thế giới mà không tôn trọng quyền tự chủ và tự do chọn lựa thể chế chính trị của nước khác thì các bạn nghĩ như thế nào?
- Thế thì tại sao bạn không tự đặt câu hỏi ngược lại cho chế độ tự do của miền Nam Việt Nam trước đây? Tại sao quân đội miền Bắc không để miền Nam tự do theo chính thể dân chủ? Tại sao không để Sài Gòn là thủ đô của miền Nam Việt Nam? Tại sao đất miền Nam lúc ấy phải gài đầy mìn? Tại sao cây rừng miền Nam phải xơ xác lá? Cảnh di cư ào ạt của các đoàn người từ Bắc vào miền Nam nói lên điều gì? Tại sao lúc ấy dân tộc chúng ta không thể sống tự do với hai chính thể khác nhau trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau? Tại sao phải giết hại lẫn nhau và phải tranh giành cái từ “chính nghĩa” cho chế độ chính trị mà mình đang theo đuổi để gây ra cảnh huynh đệ tương tàn và làm cho bao nhiêu người dân vô tội chết oan mạng?
Bao nhiêu câu hỏi với giọng nói rắn rỏi phát ra từ một gốc cây mít khiến mọi người đồng quay mặt nhìn về. Ánh mắt nghiêm nghị của cậu Hải chăm chăm trên khuôn mặt cậu Bình chẳng khác nào ánh mắt của người chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân trong bức ảnh thờ trong nhà từ đường của ông Huy.
- Thế anh nghĩ trước đây những người thanh niên rời miền Nam tập kết ra Bắc để làm gì? Không phải là vì họ yêu nước và sẵn sàng hy sinh bản thân để chiến đấu cho đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc cường quốc đấy ư? Nếu như các anh nói là đất nước có quyền độc lập tự do theo chế độ chính trị của mình thì tại sao chính phủ miền Nam Việt Nam lúc ấy phải núp dưới sự bảo hộ của Mỹ trong cuộc chiến? Cậu Bình hỏi ngược cậu Hải với khuôn mặt của ông nội cậu. Một khuôn mặt uy nghiêm với cái nhìn thẳng trên tấm hình thờ tại nhà bà Bạch Mai.
Cậu Hải đáp lại bằng giọng nói cứng cỏi hơn:
- Nói vậy, theo anh, những thanh niên miền Nam tập kết ra Bắc vào năm 1954 chỉ cốt dành lại độc lập từ tay các cường quốc chứ không phải vì trung thành với một chủ thuyết chính trị nào ư? Anh thực sự cho rằng cuộc chiến mà quân đội miền Bắc tấn công miền Nam không bị giật dây bởi thế lực nào bên ngoài à? Anh nghĩ là nước ta đang ở trong tình trạng độc lập thật sự đấy sao? Và anh thực sự tin là bên trong cái cảnh chạy tị nạn, cảnh con mất cha, vợ mất chồng, gia đình ly tán của toàn dân miền Nam vào tháng tư năm 1975 trước đây là sự chào đón hoan nghênh và nồng nhiệt của họ đối với quân đội miền Bắc và cả những người tập kết trở về miền Nam ư?
Trong khi cậu Bình tái mặt sa sầm, cậu Vũ xua tay:
- Ái chà chà! Mấy anh có biết là các anh đang gây chiến tranh bằng “võ mồm” trong khi các anh đang phản đối chiến tranh không vậy? Tôi bảo đảm là các anh cãi đến chết cũng không lấy được lý đúng sai đâu bởi vì chiến tranh của nước ta trước đây là một cuộc chiến tranh hết sức phức tạp mà! Là một nước nhỏ cho nên nước Việt Nam của mình không tài nào thoát ra ngoài những cái vòng chiến tranh “nóng” “lạnh” của các nước lớn đâu! Bởi vậy, nếu cứ bàn về đề tài này thì không biết đến lúc nào mới chấm dứt.
Nhìn quanh không thấy ai nói gì, cậu Vũ nói tiếp:
- Nếu nhìn cho kỹ, suy cho rộng thì các bạn sẽ thấy đường hướng hiện nay khác với chủ trương ban đầu rất nhiều. Vì sao như vậy? Theo tôi, với sự can đảm của những người Việt yêu nước, đất nước ta đang có nhiều biến chuyển và còn sẽ có nhiều thay đổi ở các lĩnh vực khác chứ không phải chỉ có đường hướng kinh tế thôi đâu! Cái mà tôi băn khoăn nhất là tại sao mọi người cứ bàn chuyện quá khứ mà không đề cập đến hiện tại hay tương lai? Tại sao không đặt câu hỏi vì sao các quốc gia khác cùng ở trong một châu lục mà giàu mạnh hơn đất nước chúng ta khá nhiều để rồi bàn bạc cách làm cho dân ta thoát được cảnh đói nghèo và đất nước ngày càng văn minh thịnh đạt hơn? Nếu các anh muốn nói, thì hãy bàn luận về trách nhiệm của thanh niên chúng ta đối với đất nước ví dụ như “Làm thế nào để giúp đỡ tất cả trẻ em Việt Nam đến trường”, Làm thế nào để người nghèo được chữa bệnh miễn phí” và “Làm thế nào để giảm bớt tệ nạn xã hội của thành phố”. Nếu có thời giờ để nói nhiều hơn thì hãy bàn luận về đề tài: “ Làm thế nào để đấu tranh cho lẽ phải” hay “Đất nước ta sẽ đi về đâu khi mất lần hồi những người công dân ưu tú”. Thế vẫn còn hơn!
Vít chùm chôm chôm đỏ trên đầu trao cho cô Loan, cậu Vũ hỏi:
- Cô cũng sẽ về đây góp phần mình vào việc giúp đỡ cho đất nước này chứ?
- Không biết. Thực tế là Việt Nam không phải quê hương của tôi. Tôi sinh ra tại Mỹ và là công dân Mỹ.
Cô Loan đáp nhanh để đối phó hơn là trả lời thành thật với ý nghĩ đang có của mình trong lúc lắc đầu từ chối tặng vật của cậu Vũ. Khuôn mặt của cô chẳng có biểu hiện sự thân thiện nào khi trả lời với người thanh niên mà cô cam chắc anh ta đã biết rõ anh ta là người có dáng dấp phong nhã và đẹp trai.
- Cô chưa mất gốc mà! Vẫn còn có tóc đen, da vàng, tên Việt Nam, và nói tiếng Việt thành thạo đó kia! Một ngày nào đó, cô và những người Việt Kiều khác sẽ trở về vì sự cố gắng của chúng tôi. Bản chất người Việt Nam rất thông minh, chúng tôi hiểu phải làm gì để thu phục sự hồi hương của những người đã từng bỏ nước ra đi. Cậu Vũ đối lại.
- Đừng tuyên truyền nữa ông ơi! Mình ông lập dị vậy đủ rồi! Cậu Nam đập vai bạn.
Cậu Vũ nói điềm đạm:
- Khi nãy trên đường ghé uống nước, thấy cô ấy trao đổi với thằng bé bán vé số và tỏ cung cách đối xử với bà lão ăn xin rất tận tình và ân cần, tôi cứ tưởng cô ấy là người có tấm lòng.
Len lỏi bước ra khỏi các cành lá lòa xòa phủ chồng nhau trước mặt, cô Hoa chìa một chùm trái dâu da cho cô Loan, đon đả nói:
- Bên Mỹ chắc không có loại trái cây này cho nên Loan ăn thử cho biết. Đừng nghe chuyện của anh Vũ này làm gì cho mệt! Thiên hạ ở đây tìm đường ra nước ngoài “hà rầm” à! Con gái thì tìm mọi cách để được đi Mỹ, Pháp, Úc, Canada hay Đài Loan. Con trai thì thi nhau giành giật học bổng để du học hay đăng ký lao động nước ngoài. Một số người khác thì tìm cách nhập vào đoàn doanh nhân để được du lịch Mỹ dưới hình thức khảo sát thị trường. Chứ đâu có ai như ảnh, đang ở Mỹ lại quay về Việt Nam sống!
Cô Loan ngạc nhiên:
- Anh này từ Mỹ về?
- Phải! Toàn gia đình ảnh được bác bảo lãnh sang ấy, nhưng sau khi học xong Đại Học, và làm việc một thời gian bên ấy ảnh về đây sống một mình. Đúng là khùng!
Không đáp lời cô Hoa, cô Loan hướng mắt sang cậu Vũ, hỏi:
- Anh đã ở đâu tại Mỹ?
Câu hỏi vặn đường đột của cô Loan dành cho cậu Vũ khiến cho tất cả các cậu thanh niên và cô Hoa đang có mặt ở đó phải dồn mắt nhìn họ một cách chăm chú. Từ Sài Gòn đến Bình Dương, vẻ lạnh nhạt của cô trên xe cậu Vũ và thái độ ơ thờ của cô đối với anh ta khi cả đám ngồi nghỉ trong một quán nước mía bên đường đã khiến không ai nghĩ cô là muốn quan tâm tìm hiểu đến người thanh niên đẹp trai và có cử chỉ hào hoa này làm gì.
- Texas. Cậu Vũ trả lời gọn lỏn.
- Vì sao anh muốn trở về đây? Cô Loan hỏi tiếp.
- Để được may mắn là gặp cô! Cười hóm hỉnh một lúc cậu Vũ nói tiếp - Và một lý do nữa, nhưng nếu cô muốn nghe thì tôi chỉ có thể nói riêng với cô chứ không phải trước những “bá quan văn võ” này
- Nếu thế, trên đường về Sài Gòn, cậu muốn nói với cái Loan thể nào cũng được. Còn bây giờ mình tiếp tục làm người phi chính trị để không còn phải nghĩ ngợi gì cho mệt óc! Các anh chị cùng tôi vào nhà chào ông bà ngoại Phúc và gia đình chú Tuấn rồi mình làm gà, nấu cháo và đi thăm vườn. Tôi cam chắc là những người lớn đến đây hôm kia không biết hết những bí mật của vườn cây ăn trái này đâu.
Cậu Bình nói với nụ cười tươi khiến cho tất cả thanh niên nam nữ hân hoan với tính chóng quên của cậu