23/1/13

Chuyện xứ Lang Biang (Q3-C19-20)

Chương 19: HỌA SĨ YAN DRAN 

Nguyên quay sang Suku, bắt gặp thằng này cũng đang đưa mắt nhìn mình. Bốn con mắt nhìn nhau trừng trừng, sửng sốt và ngờ vực, rồi như không nén được hai cái miệng cùng bật kêu lên:

- Thanh xà bạch xà!

Masari giật mình một cái rồi khẽ cúi đầu lẩm bẩm:

- Đúng rồi! Là thanh xà bạch xà!

- Ha ha ha! - Từ đâu đó, tiếng cười của tổng quản lâu đài Sêrôpôk chợt vang lên, đầy châm biếm - Hắc tinh tinh, thành thật chia buồn với bọn ngươi nha! Luyện lại ba con rắn khác chắc không dễ chút nào chứ hả?

Hắc tinh tinh ủ rũ nhìn ba xác rắn cứng quèo, vẻ mặt đau khổ và mất mát. Phải mất một lúc lâu, cả ba mới nhấc mắt lên khỏi những con rắn thân yêu, ngoảnh đầu nhìn ra xa, giận dữ gào lên:

- Pôcô, Pôca! Đồ mất dạy! Tụi bay ra đây!

Hắc tinh tinh gào to đến mức ba chiếc mũi lệch rung rinh như sắp rớt.

Nhưng mặc cho bọn chúng gào thét, Pôcô và Pôca vẫn im ru. Hắc tinh tinh vẫn nhìn chằm chằm về phía mà bọn chúng tin là cặp ma song sinh đang ở đó, răng nghiến ken két, cơn phẫn nộ làm những chiếc áo chùng đen phồng lên như sắp phát nổ.

- Thôi, chúng ta về đi. - Masari chống cây gậy sừng hươu xuống cỏ, thở dài nói.

- Về? - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái quay phắt sang Masari, mắt lóe lên rờn rợn - Ngươi điên rồi hả, Masari? Ta chưa từng biết có lần nào Tam phù thủy rút lui khi chưa hoàn thành nhiệm vụ.

- Thiệt vậy sao? - K’Tub nói, giọng châm chọc - Vậy mà tôi tưởng lúc ở lâu đài K’Rahlan mấy ông đã chạy vắt giò lên cổ khi nhìn thấy cấm lệnh của Balibia chớ?

Gương mặt trơ như gỗ của Hắc tinh tinh đột nhiên rung động. Cả sáu ánh mắt rọi thẳng vào mặt K’Tub như muốn dùng tia nhìn giết chết thằng oắt cho rồi.

- Ngươi tưởng bọn ta sợ Balibia ư? - Phù thủy đứng giữa cười khảy - Hừm, nếu ngươi là thằng nhóc có đầu óc thì ngươi phải biết là bọn ta không muốn đối địch với tả hộ pháp của phe Hắc Ám.

- Thằng cha Balibia đó cũng chẳng ra gì. - Phù thủy đứng bên phải nhún vai, cất giọng rin rít - Nếu bọn nhóc lâu đài K’Rahlan còn sống sờ sờ ra đây thì chắc là gã Mustafa cũng đang nhởn nhơ ở đâu đó. Hừm!

Pila mân mê chuỗi cườm trên cổ, chép miệng:

- Nếu bọn ngươi không về thì bọn ta đi trước à.

- Pila! - Phù thủy đứng giữa hét lên điên tiết - Bọn ngươi làm ăn cái kiểu gì lạ vậy hả? Nếu vậy thì đừng nhận tiền của người ta...

- Ngươi đúng là ngu như heo. - Pila cáu kỉnh quát lại - Chúng ta nhận tiền là để đối phó với người sống chứ đâu phải để đối phó với người chết. Làm sao chúng ta giết được hai thằng nhóc Pôcô, Pôca khi mà tụi nó đã chết ngắc từ đời kiếp nào rồi. Hừm, ngay cả chạm vào chúng cũng không được nữa là.

Lý lẽ của Pila làm Hắc tinh tinh cứng họng. Phù thủy đứng giữa sững sờ một thoáng rồi ngửa mặt lên trời, cười ghê rợn:

- Thiệt tức chết đi được! Ta sẽ kiện vụ này lên Hội đồng Lang Biang, yêu cầu họ cách chức ngay tên thối tha nào cai quản hồ Ma. Làm sao mà để cho hai con ma nhóc sẩy ra ngoài đi quậy lung tung như vậy được chớ!

Hắn giận quá, thân hình cao lêu nghêu run bần bật, ngực áo phồng lên xẹp xuống như đang lận trong người một cái ống bơm.

- Về thì về! Cuối cùng, hắn rên lên, bất lực và phẫn nộ. Và gần như ngay lập tức, cả ba biến mất.

Masari quay sang bọn trẻ, vẫy cây gậy sặc sỡ thay cho lời chào:

- Bọn anh đi trước nhé. Hẹn gặp lại.

- Im đi! - Lão quản gia vừa quát vừa vung khúc xương trắng về phía các chàng trai Bạch kỳ lân - Tốt nhất là bọn ngươi đừng bao giờ để cho ta thấy mặt nữa!

Lão Imđi chỉ nói để xả cơn giận, chứ lão cũng thừa biết lời nói của lão rơi tõm vào khoảng không: Ai cũng thấy Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã không còn ở đó nữa.

*

Căn nhà của họa sĩ Yan Dran tranh vẽ treo la liệt, ngợp cả mắt. Các vách kín tranh, bức này chồng lên bức kia, có nhiều bức thõng xuống từ trên nóc nhà. Có thể thấy Yan Dran không vẽ gì khác ngoài những con vật. Bọn Nguyên nhìn quanh, có cảm giác tụi nó đang lạc vào trong một vườn thú, rờn rợn vì đó là những con thú sổng khỏi thiên nhiên; trong tranh của Yan Dran không có một cái cây nào.

Trong khi Nguyên tò mò ngắm một con rùa đang bơi một cách sống động trong bức tranh ở sát cùi tay nó, Yan Dran đã cất giọng trầm trầm:

- Tụi con đã làm ta vô cùng cảm động. Chà, - ông đưa tay quẹt mũi để chặn lại một tiếng khịt - không phải ai ở xứ Lang Biang này cũng dám công khai đối địch với Tam phù thủy đâu.

Ông cúi xuống Nguyên, ân cần hỏi:

- Con ốm như thế nào hả K’Brăk?

- Thưa thầy... - Nguyên ngập ngừng - theo như người ta nói, con và K’Brêt bị trúng lời nguyền Tan xác của Buriăk. Bây giờ ký ức của tụi con đã mất sạch.

Yan Dran cúi xuống thấp hơn nữa, chóp mũi của ông suýt quét vào chỏm tóc của đứa học trò:

- Thế những gì ta đã dạy cho con?

- Con cũng đã... quên hết, thưa thầy. - Nguyên đáp bằng giọng biết lỗi.

Yan Dran xộc tay vào mái tóc rối bù và đứng thẳng người lên.

- Không sao. - Ông thở đánh thượt - Từ từ rồi ta sẽ dạy lại cho con.

Ông đưa mắt nhìn một lượt những đứa trẻ trước mặt:

- Hôm nay tụi con đi đến núi Lưng Chừng phải không?

- Dạ, - Nguyên ngạc nhiên - thầy biết rồi hả thầy?

- Ta đã được giáo chủ Ama Êban thông báo. - Giọng ông chuyển qua nghiêm trang - Ta biết con và K’Brêt đã được chọn là chiến binh giữ đền đời thứ ba. Chủ trương của giáo phái Madagui từ xưa đến nay là luôn luôn ủng hộ các chiến binh giữ đền. Hơn nữa, đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng là nhiệm vụ mà Hội đồng tối cao xứ Lang Biang đã giao cho ta.

- Ông biết núi Lưng Chừng ở đâu sao? - K’Tub vọt miệng hỏi.

- Ta ư? - Yan Dran đột nhiên trở nên mơ màng, ông nói mà không nhìn K’Tub - Thú thiệt là chính ta cũng không biết núi Lưng Chừng ở đâu.

Câu trả lời của nhà họa sĩ khiến bọn trẻ ngơ ngác nhìn nhau.

- Thế... thế... - Tam ấp úng - thế làm sao...

- Thế làm sao ông có thể đưa K’Brăk và K’Brêt đến đó được? - Bolobala sốt ruột nói tiếp câu nói dang dở của Tam.

Yan Dran như bừng tỉnh. Ông quét mắt qua những gương mặt đang nghệt ra nhìn ông rồi chỉ tay vô tấm tranh bên vách trái căn nhà:

- Tụi con nhìn bức tranh này nè.

Nguyên kinh ngạc khi nhận ra bức tranh này giống hệt bức tranh vẽ ngựa của thằng K’Brăk nó từng nhìn thấy ở đồi Phù Thủy. Chỉ khác là trong bức tranh này có tới hai con ngựa bạch. Hai con ngựa đang phi, bờm tung bay phất phới, vó cất cao, đặc biệt mỗi vó có một cặp cánh nhỏ ở hai bên.

Mua liếm môi, hồi hộp hỏi:

- Hổng lẽ đây là những con ngựa biết bay?

- Đúng thế. - Yan Dran gật đầu - Chính chúng sẽ đưa K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng. Ta không biết hòn núi này ở đâu nhưng chúng thì biết rõ.

Kan Tô gãi gáy:

- Nhưng đây chỉ là tranh vẽ...

Yan Dran lừ mắt nhìn Kan Tô, cắt ngang:

- Chà, thằng nhóc này. Hổng lẽ con không biết Yan Dran là ai? Hổng lẽ con thiệt tình không biết trùm Bastu tìm hết cách này đến cách khác đe dọa ta để mong ta tiết lộ bí quyết gì sao?

Yan Dran cầm bức tranh ngựa xoay ra ngoài cửa, khẽ phất tay áo một cái. Trước sự sửng sốt của bọn trẻ, từ trong bức tranh, hai con ngựa phi ra, phóng ào qua cửa, đánh một vòng quanh bãi cỏ rộng, ngửa mặt lên trời hí vang, rồi bất thần tung vó bay vọt lên không.

Chúng bay càng lúc càng cao, những chiếc cánh nhỏ ở bốn vó vẫy nhịp nhàng trong ánh hoàng hôn, trông giống như những cánh bồ câu đang bay theo vó ngựa.

Yan Dran thả tay ra, bức tranh lập bập quay về vị trí cũ và bọn trẻ tròn mắt thấy đó chỉ là một tấm vải trống trơn.

Nguyên chợt buột miệng “à” lên một tiếng, nhớ ngay đến những bức tranh quái dị của thằng K’Brăk. Hôm đó, K’Brăk vẽ tất cả là ba bức. Một bức vẽ ngựa, một bức vẽ rồng, bức cuối cùng vẽ thầy nó - họa sĩ Yan Dran. Nhưng do trình độ của K’Brăk có hạn, những sinh vật trong tranh không thoát hẳn ra ngoài được. Con ngựa bạch ló ra được cái đầu, con rồng chỉ quẫy được nửa khúc trên, còn họa sĩ Yan Dran thì thò ra được mỗi cánh tay cầm gươm. “Thầy tao khen tao vẽ đẹp, nhưng ổng bảo tao phải học thêm ít nhất là hai trăm năm nữa họa may mới được phân nửa trình độ của ổng”. K’Brăk nói câu này lúc ngồi vẽ trên sườn đồi Phù Thủy, Nguyên từ từ nhớ lại. Lúc Nguyên và Kăply sợ xanh mặt khi thấy con ngựa bạch thò đầu ra khỏi bức tranh, K’Brăk lại trấn an: “Tụi mày yên chí đi. Trình độ của tao chưa thể khiến các hình vẽ thoát hẳn ra ngoài”. Lúc đó, Nguyên chưa hiểu hết những gì thằng K’Brăk nói.

Bây giờ thì Nguyên đã hiểu. Và nó ngước nhìn họa sĩ Yan Dran, vờ cất giọng buồn bã:

- Thầy ơi, chắc con phải học thêm hai trăm năm nữa may ra mới được phân nửa trình độ của thầy.

- Cái đó là ta nói cho vui thôi. - Họa sĩ Yan Dran mỉm cười - Nếu con cố gắng, ta nghĩ chừng vài năm nữa con cũng có thể làm được như ta.

Ông đưa mắt nhìn Kăply đang nằm trên chiếc ghế dài kê sát vách, tặc lưỡi:

- Ta cũng biết K’Brêt bị trúng độc của sứ giả Basil. Nhưng nếu thằng bé chưa chết thì nó vẫn phải có bổn phận đến núi Lưng Chừng.

- Thế còn tụi con, thưa ông? - K’Tub thấp thỏm hỏi, cái cảm giác sắp sửa bị bỏ rơi khiến bụng nó lạnh ngắt - Tụi con cũng cùng đi với anh K’Brăk và anh K’Brêt chứ?

Một tràng tiếng hí vút lên ngay trước nhà cắt ngang câu chuyện. Mọi người quay ra đúng lúc hai con ngựa phi qua cửa. Bọn trẻ hoảng hốt thót bụng lại và vội vàng nhắm tịt mắt, sau này nghĩ lại tụi nó mới thấy đó là chuyện đại ngu vì khi nhắm mắt dĩ nhiên tụi nó hổng thấy được hai con ngựa đã chui vào lại trong bức tranh như thế nào.

K’Tub ngắm hai con ngựa lúc này đã yên vị trong tranh, vẫn với tư thế cũ không sai một mảy, rồi ngước nhìn Yan Dran, thắc mắc khi nãy vẫn đang lấp đầy miệng nó:

- Thế nào hở ông? Tụi con sẽ đi đến núi Lưng Chừng chứ?

- Không được đâu, con trai. - Họa sĩ Yan Dran gõ gõ thanh gươm vào lòng bàn tay, lắc đầu nói - Tất cả tụi con phải ở nhà. Chỉ có chiến binh giữ đền mới được phép đi đến đó thôi.

- Con cũng không được đi hả ba? - Thằng Yan Jik ré lên bất bình, nãy giờ nó vẫn ngồi thu lu đằng góc nhà với lão Imđi.

- Im đi, Yan Jik! - Lão quản gia bắn tia nhìn răn đe vào mặt thằng oắt, nạt - Trước tiên con phải tự hỏi xem con có phải là chiến binh giữ đền không đã!

- Lão im đi thì có! - Thằng Yan Jik đổ quạu - Tôi có hỏi lão đâu!

Lão Imđi bật lên khỏi ghế như cái cập kênh thình lình bị chổng một đầu.

- Mày nói gì, nhóc? - Lão sùi bọt mép, giận đến mức nửa mặt bên trái đỏ ửng còn nửa mặt bên kia vàng khè - Hổng lẽ mày không hỏi thì tao không được răn dạy mày sao?

Tính nết thằng Yan Jik hóa ra giống hệt K’Tub. Nó cũng đứng phắt dậy, gần như ngay lập tức, mắt lóe lên thứ ánh sáng điên tiết và chĩa thẳng cây cọ vẽ vào người lão quản gia, mặt khùng khùng:

- Lão muốn chơi tay đôi với tôi hả?

Trong khi lão Imđi tái mặt, mắt nhìn chòng chọc cây cọ trên tay thằng oắt, hai tay lật đật giữ chặt lưng quần thì họa sĩ Yan Dran đập thanh gươm đánh chát vào cây cột tròn giữa nhà, xẳng giọng:

- Yan Jik, con có thôi cái trò thô bỉ đó đi không!

Mặt ông phừng phừng:

- Con đi kiếm hai anh em Pôcô, Pôca về đây ta bảo. Ta giữ hai đứa nó ở lại đây cho con có bạn chớ đâu phải để chúng bày trò bá láp cho con hả.

Yan Jik không dám cãi lại ba nó, mặc dù có thể thấy nó là thằng nhóc cực kỳ bướng bỉnh. Nó đùng đùng đi ra cửa, mặt hầm hầm như sắp sửa giết người. Đi ngang qua chỗ Nguyên ngồi, nó tung chân đá đánh “binh” một cái vào bức tranh con rùa, sém tí nữa bức tranh đã rách toạc.

Nhưng Yan Jik vừa thò chân ra khỏi cửa, mọi người ngạc nhiên thấy nó hấp tấp rụt trở vô. Chưa ai kịp hỏi, những cái miệng đã há hốc khi thấy đằng sau Yan Jik là một chòm râu dê đang chĩa vô người nó, trông đe dọa như mũi súng sẵn sàng nhả đạn.

- Hé hé hé.

Thám tử Eakar chưa bước vô cửa đã cất tiếng cười quen thuộc.

- Ủa, bọn nhóc ngươi làm gì mà dồn cục ở nhà lão Yan Dran thế? - Nhà thám tử trố mắt nhìn bọn trẻ, cây gậy phép suýt tuột khỏi tay vì bất ngờ.

Như hình ảnh Nguyên vẫn thấy, sau lưng Eakar là ba phù thủy đeo huy hiệu Cục an ninh. Một phù thủy tiến lên nói:

- K’Brăk và K’Brêt nhà K’Rahlan chuẩn bị đến núi Lưng Chừng, thưa ngài.

- À, ta nhớ rồi. - Thám tử Eakar vung vẩy cây gậy phép - Nhưng dù như vậy, ta cũng không thể không hỏi tội lão Yan Dran.

Eakar quét mắt một vòng qua các bức tranh, không giấu vẻ soi mói, cuối cùng ánh mắt dò xét của ông dừng lại trên khuôn mặt của chủ nhà, nhếch mép hỏi:

- Ông biết tôi chớ, ông Yan Dran?

Họa sĩ Yan Dran vẫn nín thinh kể từ khi bọn người lạ bước vào nhà. Nghe nhà thám tử hỏi, ông khẽ động đậy thanh gươm trên tay:

- Ở xứ Lang Biang đại danh của ngài như sấm rền, thưa ngài Eakar.


Thám tử Eakar không biết Yan Dran đang nhạo báng mình. Ông toét miệng cười, mặt nở ra:

- Hân hạnh, thiệt là hân hạnh.

Đang vui vẻ, mặt ông chợt cau lại, nụ cười thoắt biến mất:

- Vậy thì chắc ông cũng biết tôi đến đây dĩ nhiên là chẳng đem lại điều gì tốt lành cho ông.

Yan Dran nhún vai:

- Tôi cũng nghĩ thế. Nhiều người nói, cũng như bệnh dịch, ông không có thói quen đem lại niềm vui cho người khác.

Lần này thì Eakar biết là nhà họa sĩ đang bỡn cợt mình. Chòm râu dưới cằm ông quặp lại như thủ thế.

- Ông cứ vung vít cho sướng miệng đi, ông Yan Dran. - Eakar gằn giọng, mặt đỏ lên - Ông cứ nói cho đã, rồi bình tĩnh trả lời những câu hỏi của tôi đây.

- Ông cứ hỏi. - Yan Dran nheo mắt, giọng khiêu khích - Tôi tưởng tôi có thể trả lời những câu hỏi của ông mà không cần phải bình tĩnh lắm.

- Được rồi. - Thám tử Eakar nhìn trừng trừng vào mặt nhà họa sĩ - Nếu thế thì tôi cũng không khách sáo. Ông bắt đầu trả lời đi. Ông có biết Hiệp ước Krông Pach cấm tu luyện và sử dụng các loại thần chú giết người hàng loạt không?

- Dĩ nhiên là tôi biết. - Yan Dran dè dặt đáp, cảm thấy thám tử Eakar đang cố tình giăng một cái bẫy để ông chui vào.

Thám tử Eakar hỏi tiếp, vẫn không rời mắt khỏi Yan Dran:

- Thế ông có biết Hiệp ước Krông Pach cũng cấm các phù thủy thực hiện việc biến đổi gien để tạo ra các quái vật không?

- Cái này tôi cũng biết.

- Tốt lắm. - Thám tử Eakar vung cây gậy phép chĩa ngay người Yan Dran - Vậy tôi được phép tuyên bố ông đã phạm vào điều cấm kỵ này.

Trước vẻ mặt hoang mang của mọi người, Eakar khoa cây gậy thành một vòng tròn rồi lại chĩa vào Yan Dran lần nữa, giọng chắc nụi:

- Lời tuyên bố thứ hai trong ngày hôm nay của tôi: Ông đã bị bắt.

Yan Dran vẫn tỉnh bơ trên chỗ ngồi, và nói:

- Ông không thể bảo những con ngựa có cánh của tôi là quái vật, ông Eakar. Thứ nhất, chúng không phải là những con vật được tạo ra để chiến đấu. Chúng không có chức năng đó, vì vậy chúng không làm hại ai. Thứ hai, chúng cũng không phục vụ cho những âm mưu đen tối. Chúng là linh vật, có khả năng siêu nhiên là xác định được núi Lưng Chừng đang tọa lạc ở đâu. Và điều quan trọng nhất, nhờ khả năng này những con ngựa bay của tôi đã có giấy phép sử dụng do Hội đồng Lang Biang cấp, hổng lẽ ông không biết điều này?

- Tôi biết.

Họa sĩ Yan Dran kiêu hãnh dội thêm một tràng:

- Vậy thì ông cũng nên chuẩn bị biết thêm một chuyện nữa: Nếu sáng mai những con ngựa bay của tôi đưa được K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng thì không chừng chúng sẽ được Hội đồng Lang Biang gắn huy chương đấy.

- Về điều này, tôi tin là ông không khoác lác. - Thám tử Eakar bình tĩnh nói. Đột nhiên, ông đập cây gậy vô cột nhà một cái “bộp”, cao giọng - Nhưng ông vờ vịt như thế là đủ rồi, ông Yan Dran. Ông thừa biết là tôi đâu có ngu đến mức chọc mũi vào mấy con ngựa bay của ông.

Mặt lộ sắc giận, Yan Dran đã bắt đầu không còn nể nang:

- Nhưng nếu ông đã biết vậy mà vẫn kết tội tôi vi phạm Hiệp ước Krông Pach thì cũng đâu có thể gọi là khôn.

Thám tử Eakar nghiến răng trèo trẹo:

- Tôi hỏi ông. Một con sóc có đôi chân vịt và cái đầu cá nhám có thể gọi là quái vật không?

Yan Dran hừ mũi:

- Dĩ nhiên là quái vật.

- Hay lắm. - Thám tử Earkar gật đầu - Thế một con chim có vây của con cá và đầu của con mèo thì gọi là gì?

- Quái vật.

Eakar nheo mắt:

- Còn một con bê có đầu lợn và đuôi rắn?

- Cũng quái vật tuốt. - Họa sĩ Yan Dran đáp nhanh và hậm hực xoáy mắt vào nhà thám tử - Ông còn định tưởng tượng ra những con quái đến bao lâu nữa hở ông Eakar? Ông tưởng tôi rảnh rỗi đến mức có thể ngồi ở đây suốt ngày để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của ông sao?

- Tôi chẳng tưởng tượng gì sất. - Thám tử Eakar lại quơ cây gậy phép một vòng - Tất cả những con quái đó đều quanh quẩn trong khu vực này. Và dù trời có sập xuống đầu, tôi cũng quả quyết đó là sản phẩm của ông.

- Láo toét! - Họa sĩ Yan Dran đứng bật dậy, thanh gươm trên tay run lên - Hổng lẽ ông nghĩ là tôi bị mất trí sao, ông Eakar?

Thám tử Eakar thản nhiên:

- Rất tiếc là tôi đang nghĩ như vậy đó.

- Im đi, Eakar. - Lão quản gia gầm lên, gương mặt ngựa của lão đột ngột dài ra - Ông tưởng ông đang nói chuyện với ai chớ?

Thám tử Eakar từ từ xoay người về phía lão Imđi, lặng lẽ ngắm lão một lúc rồi chậm rãi nói:

- Ngay cả lão nữa, lão cũng không nằm ngoài vòng điều tra đâu. Nếu ta mà phát hiện lão có nhúng tay vào vụ này, lão đừng hòng thoát. Thay vì quang quác lên, tốt nhất lão nên ngồi im mà nghĩ cách gỡ tội trước Cục an ninh đi!

- Gỡ cái con khỉ! - Lão Imđi tức đến sùi bọt mép, bất thần lão văng tục - Ông đúng là đồ chó chết, ông Eakar! Những trò vu khống này, ta còn lạ gì.

Họa sĩ Yan Dran môi giần giật:

- Thám tử Eakar! Tôi không thể nghĩ được tại sao ông lại bịa ra những chuyện đó...

Tới nước này, Nguyên tự thấy không thể làm thinh được nữa. Nó bứt rứt kêu lên:

- Ổng không bịa chuyện đâu, thưa thầy.

- Con nói gì, K’Brăk? - Họa sĩ Yan Dran thô lố mắt nhìn đứa học trò, có cảm tưởng ông mới nhìn thấy nó lần đầu.

Nguyên đưa tay dứt một sợi tóc, nhăn nhó nói:

- Trên đường đi tới đây, chính mắt con đã nhìn thấy những con quái đó.

- Không thể nào! - Yan Dran hét to - Không thể nào!

- Ông Yan Dran. - Păng Ting rụt rè nói - Tất cả tụi con đều nhìn thấy.

- Vô lý! - Yan Dran vung gươm, đầy kích động, mái tóc rối bù dựng lên, xù ra mọi hướng - Làm gì có chuyện đó! Ta đâu có điên!

Ông lướt mắt qua từng gương mặt như tìm kiếm sự chia sẻ, giọng khản đặc:

- Các con nghĩ coi. Ta không hề làm chuyện đó. Mà ta tạo ra một đống quái vật lôm côm như vậy làm gì mới được chứ...

Đang nói, Yan Dran bỗng ngưng bặt khi ánh mắt ông dừng lại trên gương mặt bối rối của Yan Jik.

Ông thở hổn hển, mắt chợt tối sầm:

- Mày? Như vậy là mày? Đúng là mày rồi!

Yan Jik lúng túng miết cây cọ vẽ lên bắp đùi trần, ấp úng:

- Con... con...

- Mày giết tao rồi, Yan Jik! - Yan Dran rên lên, phẫn uất và chán chường, lưng còng xuống như thân cây bị bão uốn cong.

- Không phải con! - Yan Jik hoảng sợ la lên - Chính Pôcô và Pôca xúi con...

Lão Imđi hình như không còn hơi để quát “Im đi”. Lão tước lấy cây cọ trên tay Yan Jik, cáu kỉnh liệng ra ngoài cửa.

- Ra vậy. - Thám tử Eakar gật gù - Thì ra thủ phạm vụ động trời này là đứa con trai bảo bối của ông.

Ông ném cho Yan Dran đang rũ người trên ghế một cái nhìn tinh quái:

- Nhưng Yan Jik còn vị thành niên, chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm trước pháp luật...

- Ông khỏi cần nói nữa, ông Eakar. - Họa sĩ Yan Dran mệt mỏi cất tiếng - Tôi sẽ theo ông về Cục an ninh.

- Không! - Yan Jik mếu máo ré lên - Con sẽ đi theo mấy ổng. Việc này chẳng liên quan gì tới ba.

- Im đi, nhóc con! - Lần này thám tử Eakar quát thay lão quản gia câu nói ưa thích của lão - Việc quyết định ai đi ai ở cũng chẳng liên quan gì tới ngươi hết.

Ông quay về phía các phù thủy Cục an ninh, hất hàm:

- Các ngươi tước năng lượng pháp thuật của họa sĩ Yan Dran rồi giải ông ta về Cục!

Nhưng ba phù thủy Cục an ninh vừa nhích chân, Suku đã thét:

- Không được! Họa sĩ Yan Dran còn phải thực hiện nhiệm vụ đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng.

Bị phá bĩnh, thám tử Eakar sôi gan, ông quay sang Suku, mắt lóe lên điên tiết:

- Câm mồm! Ai cho phép ngươi xen vô chuyện của người lớn!

Thứ ánh sáng đỏ quạch thoáng rực lên trong đáy mắt nhà thám tử rồi tắt phụt nhưng cũng đủ để Suku nhận ra. Nó gào tướng lên:

- Ngươi không phải là thám tử Eakar!

- Cái gì? - Cả đống cái miệng vụt hỏi.

Eakar nghiến răng ken két:

- Ngươi nói năng vớ vẩn gì thế hả?

Suku đứng phắt dậy:

- Ngươi lộ tẩy rồi, Balibia!

Như một tiếng sét, câu nói của Suku dựng bật mọi người lên khỏi ghế. Sau một thoáng sững sờ, hàng loạt cẳng chân hấp tấp lùi lại, quây thành một vòng tròn quanh Balibia, tay run run chĩa ra phía trước. Đằng sau Balibia, các tay chân của hắn trong lốt phù thủy Cục an ninh cũng lập tức cho tay vào túi áo chùng. Không khí trong căn nhà của Yan Dran đột nhiên căng như một sợi dây đàn.

- Ha ha ha! - Balibia ngửa mặt lên trần nhà, cười khành khạch - Balibia thì sao nào! Dù Tứ bất tử có ở đây, hắn cũng đâu có đụng đến được một sợi lông chân của ta.

Balibia ngừng bặt, để người nghe có thì giờ nghĩ ngợi và run sợ trước sự thật hắn vừa nói.

Đúng là không ai trong những người có mặt có thể chống lại tả hộ pháp Hắc Ám, Nguyên lo lắng nghĩ. Siêu phù thủy Yan Dran giỏi lắm là ngang tay với các sứ giả của Bastu, hoặc trội hơn một chút. Còn muốn thắng được Balibia là chuyện không tưởng. Tổng quản lâu đài Sêrôpôk mà còn bỏ chạy trước bàn tay máu của Balibia thì Yan Dran gần như hoàn toàn không có cơ hội.

- Thế còn Đại phù thủy Păng Sur thì sao? - Bolobala thình lình hỏi.

Balibia giật bắn:

- Păng Sur hả... ả...?

Bolobala trả lời bằng cách lập tức biến mất. Trong khi Balibia há hốc miệng chưa kịp ngậm lại, Bolobala đột ngột hiện ra trở lại nhưng thằng Tam bên cạnh nó lại tan vào không khí.

- Thiệt là xúi quẩy! Rút!

Balibia mặt xanh rờn, phất tay một cái và vọt ra cửa. Ba tên phù thủy nhép hối hả co giò chạy theo.

Yan Dran sau thoáng ngỡ ngàng, liền cúi đầu cung kính:

- Thiệt không ngờ Nhị tiên xuất hiện...

- Bà của con không có ở đây, ông Yan Dran. - Păng Ting cười nói.

Yan Dran nhìn sững Păng Ting:

- Con là cháu của Đại phù thủy Păng Sur à?

- Đúng rồi. - Păng Ting chỉ tay vào Suku - Còn nhóc này là cháu của Pi Năng Súp.

- Ồ! - Yan Dran gại gại mũi gươm lên cằm, mặt rạng ra. Nhưng cặp lông mày ông lập tức cau lại - Con vừa bảo sao? Đại phù thủy Păng Sur đã bỏ đi rồi ư?

- Bà của con không hề đến đây.

Yan Dran quay sang Tam và Bolobala, ánh mắt ông đi qua đi lại giữa hai đứa trẻ, dò xét và nghi hoặc:

- Thế sao...

- Vừa rồi Tam và Bolobala đã độn thổ, thưa thầy. - Nguyên mỉm cười, giải thích - Bạn con không độn thổ đi xa được nhưng chui xuống rồi chui lên thì dễ như trở bàn tay.

Trong khi Yan Dran ngẩn ra thì lão Imđi vỗ đùi đánh đét:

- Hà hà, không ngờ tả hộ pháp Balibia lại bị mắc lỡm bởi trò trẻ con này.

Bọn trẻ không muốn làm lão Imđi cụt hứng nên không nhắc tới chuyện cách đây mấy ngày Balibia đã tận mắt nhìn thấy Đại phù thủy Păng Sur làm Tam và Bolobala biến mất nên bây giờ thấy hai đứa này biến mất lần nữa, hắn hấp tấp chuồn ngay, không còn tâm trí đâu để suy xét thực hư.

- Làm sao con biết hắn là Balibia hở Suku? - Lão Imđi kéo dài sự hào hứng bằng cách quay nhìn Suku, khoái trá hỏi.

- Chính ánh mắt hắn đã tiết lộ điều đó. - Suku lắc khẽ mớ tóc trước trán - Lúc giận quá, ánh mắt hắn rợn lên màu đỏ. Đó là ánh mắt của Balibia.

Yan Dran không có được vẻ hơn hớn như lão Imđi. Mặt sụp xuống, ông buồn bã nhìn cậu quý tử, thở dài nói:

- Nhưng dù có thoát được Eakar giả, mai mốt Eakar thật mò đến đây, ta cũng đành bó tay.

- Ba đừng lo! - Thằng Yan Jik vung cây cọ vẽ không biết nó đã nhặt lại từ hồi nào, bô bô - Thám tử Eakar mà dẫn xác tới đây, con sẽ cho ổng đứt phựt luôn!

- Đứt phựt cái đầu mày! - Yan Dran nổi cộc - Ta bảo mày đi kiếm hai thằng Pôcô, Pôca về đây sao mày còn đứng đó hả? Lần này mà ta không tống cổ hai thằng ôn đó về hồ Ma thì ta không phải là người!

Chương 20: BẠN ĐỒNG MÔN

Nguyên ôm Kăply trên tay, loay hoay cả buổi không leo lên được lưng ngựa. Đơn giản vì từ bé đến giờ, nó chưa bao giờ cỡi ngựa. Ngay cả khi Kan Tô đỡ giùm Kăply, Nguyên vẫn hết sức lúng túng trước con ngựa bạch cao lớn. Nó cứ trườn người lên lại tuột xuống, như vậy cả chục lần.

- Sao thế con? - Họa sĩ Yan Dran tặc lưỡi - Con đã quên cách cỡi ngựa rồi sao? Trước đây, những ngày con học vẽ, chính nó đã đưa con đi đi về về mà.

Nguyên không biết đáp như thế nào. Điều duy nhất nó có thể làm trong lúc này là đỏ mặt lí nhí:

- Sau khi trúng lời nguyền Tan xác...

- Thôi, được rồi. Ta sẽ giúp con.

Không đợi Nguyên nói hết câu, họa sĩ Yan Dran ôm ngang người Nguyên, quăng nó lên lưng ngựa, nhẹ nhàng như liệng một chiếc gối.

- Đỡ này! - Kan Tô nói, và bế Kăply đưa lên.

Nguyên ẵm bạn vào lòng bằng một tay, tay kia nắm chặt bờm ngựa, khi bắt gặp ánh mắt của tụi bạn đang ngước nhìn mình, nó nhe răng lẩn thẩn cười, dĩ nhiên nụ cười gượng gạo của nó không thể che đậy một thực tế là nó đang bị sự hồi hộp nhấn chìm.

Đến khi con ngựa bạch rời vó khỏi mặt đất, Nguyên lập tức nằm phục xuống, điếng người vì sợ hãi, đến mức nó nghe họa sĩ Yan Dran và cả đống cái miệng gào lên “Ê, leo xuống đi!” nó cũng không có thì giờ ngoảnh đầu lại nhìn. Nó chỉ tự hỏi tại sao mọi người lại bảo nó leo xuống khi mà nếu làm theo lời họ, nó sẽ té gãy cổ là cái chắc. Chắc tại bọn họ thấy mình căng thẳng quá! Nguyên nghĩ thầm, càng cố sức níu chặt túm lông bờm mềm và dày trước mặt, cảm thấy bữa ăn sáng lúc nãy nằm yên trong bụng bây giờ cựa quậy dữ dội như đòi ọc ra.

Lúc này đang là buổi sáng, ánh nắng rực rỡ và ấm áp. Nguyên bình tĩnh dần khi nhận ra con ngựa bạch bay êm như ru, chiếc thảm bay của gã Mustafa chưa chắc đã êm bằng, đến nỗi có lúc nó nghĩ không nhất thiết phải nằm mọp xuống và mím môi mím lợi níu lấy bờm ngựa làm gì.

Nguyên từ từ thẳng lưng lên. Nó và Kăply, dĩ nhiên cả con ngựa bạch nữa, lúc này đang bay xuyên qua những đám mây nõn như bông, ở xa xa trước mặt những đám mây khác vừa tắm vừa đùa giỡn trong ánh nắng ban mai để tự biến mình thành những đám mây nhiều màu, hình ảnh kỳ diệu đó làm nó rơi vào cảm giác lâng lâng một lúc lâu cho đến khi nó giật mình nghe tiếng ngựa hí bên tai.

Thoạt đầu, Nguyên nghĩ đó là tiếng hí của con ngựa nó đang cỡi. Nhưng đến khi tiếng hí cất lên một lần nữa, nó bàng hoàng nhận ra âm thanh đó phát ra từ phía sau lưng. Nó ngoái nhìn qua vai, kinh ngạc thấy một con ngựa khác đang mải miết bay phía sau, lẽ ra Nguyên cũng không đến nỗi sửng sốt lắm vì nó đã biết trong bức tranh của họa sĩ Yan Dran có một cặp ngựa bay, nhưng điều làm nó trợn mắt lên lúc này chính là con Chacha đang ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa thứ hai và hí hửng cất tiếng khọt khẹt khi thấy Nguyên quay lại dòm.

Thì ra lúc mọi người hét ầm “Leo xuống” là để quát con khỉ nghịch ngợm này. Nguyên sực hiểu và bất giác phì cười. Từ lúc tả hộ pháp Balibia xuất hiện rồi bỏ đi, cho đến suốt đêm hôm qua, tụi nó không thấy Chacha đâu, mặc dù Suku sục sạo khắp nơi và gào khản cả giọng. Chắc con khỉ tinh quái này cố tình trốn trong các bụi cây và tờ mờ sáng, nó đã nấp sẵn trên mái nhà để bất ngờ phóng lên lưng ngựa khi hai con phi mã của Yan Dran bắt đầu cất vó.

Nhưng Nguyên không có cơ hội nghĩ ngợi lâu hơn. Con ngựa bạch thình lình chồm lên rồi bắt đầu phóng giật cục như gặp phải ổ gà khiến Nguyên một lần nữa lại mọp xuống, nơm nớp tóm lấy chòm lông bờm trước mặt, tay kia ôm chặt Kăply vào người, cứ thon thót sợ bạn mình bất thần văng ra.

Đã vậy, con ngựa bạch đột nhiên quay ngang và xoay tít, mỗi lúc một nhanh, như thể rơi vào giữa cơn lốc xoáy. Nguyên nhắm nghiền mắt, cảm thấy một nỗi khiếp hãi đang xuyên thẳng vào tim. Nó không biết phải làm gì trong hoàn cảnh này, hai tay bận bịu, muốn gào lên nhưng không thể thốt được lời nào.

Sau này nghĩ lại, Nguyên không hiểu tại sao lúc đó nó không rớt ra khỏi lưng ngựa, cả con khỉ Chacha nữa. Chỉ biết một lúc thì đầu nó thôi choáng váng, đà xoay của con ngựa có vẻ chậm lại, tiếng gió vù vù bên tai dịu dần rồi im hẳn. Đợi đến khi ruột gan thôi nhộn nhạo, Nguyên mới từ từ mở mắt ra, ngạc nhiên thấy nó đã ở giữa một thảo nguyên bát ngát. Hoa, rất nhiều hoa, có thứ nó biết tên có thứ nó mới nhìn thấy lần đầu nhưng tất cả đều một màu vàng với sắc đậm nhạt khác nhau, hoa mọc xen lẫn với cỏ đuôi chồn trải dài trước mắt như một tấm thảm xinh đẹp của nhiên nhiên. Ở làng Ke của nó cũng có những thung lũng đầy hoa nhưng không nhiều và đẹp như thế này.

Nguyên thầm so sánh và đưa mắt nhìn ra xa. Cuối cánh đồng hoa là dãy đồi trọc, cây xanh rải rác nằm xen kẽ với đất đỏ khiến những ngọn đồi trông như những cái đầu bị hói. Xa hơn nữa là núi đá, xanh màu da trời với những làn mây trắng uốn éo lững lờ trên đỉnh như những tấm voan trắng mềm mại.

Có lẽ đây là núi Lưng Chừng? Nguyên tự hỏi và cúi đầu nhìn con ngựa bạch đang ung dung gặm cỏ, bụng thầm nghĩ giá như mà con ngựa này biết nói.

Lóng ngóng một lát, Nguyên cũng tuột được khỏi lưng ngựa. Nó ngồi bệt xuống cỏ, với Kăply trên tay và con Chacha ngồi xổm bên cạnh, loay hoay không biết phải làm gì và nên bắt đầu mọi thứ từ đâu. Nó ngỡ ngàng nhận ra nó luôn nung nấu đến được núi Lưng Chừng nhưng khi đã đến được đây rồi thì nó bỗng thấy tất cả những gì hiện ra trong đầu giống như một cái nút vừa rối nùi vừa mơ hồ đến mức không thể gỡ nổi.

Kể từ ngày lạc đến xứ Lang Biang, chưa bao giờ Nguyên rơi vào cảnh một thân một mình như thế này. Trước đây, nó luôn luôn có K’Tub, Êmê bên cạnh, lại được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Suku và Păng Ting. Nếu không có ai thì ít ra nó cũng có Kăply, nghĩa là cũng có một đứa bên cạnh để bàn bạc, trao đổi, tệ lắm thì cũng có chỗ để bày tỏ và chia sẻ ý nghĩ của mình.

Nguyên cứ ngồi thần ra, mặc ánh nắng trượt dần xuống vai rồi xuống đùi nó. Lòng Nguyên ngập tràn lo lắng khi nó nghĩ đến chủ nhân núi Lưng Chừng.

Nếu còn sống đến ngày nay, hẳn chủ nhân núi Lưng Chừng đã hơn bảy trăm tuổi rồi. Không biết ngài là đàn ông hay đàn bà và tính nết có quái dị lắm không. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, Nguyên rất hy vọng ngài là người tốt, hiển nhiên rồi, chiến binh giữ đền không thể là người xấu được. Nó nhớ lại những gì sử gia Ama Pô ghi chép về cuộc đối đầu dai dẳng giữa chủ nhân núi Lưng Chừng và trùm Hắc Ám Bajaraka Đầu Bự hồi sáu trăm năm trước, mường tượng lại những trận ác chiến chắc là rung trời chuyển đất giữa hai phù thủy kiệt xuất. Nghĩ ngợi lan man một hồi, Nguyên lại ngạc nhiên không hiểu sao gần đây trùm Bastu lại học được thần chú kim cương vốn đã thất truyền và điều đó bỗng nhiên làm nó hoang mang ghê gớm. Nếu trùm Bastu có dính dáng đến chủ nhân núi Lưng Chừng thì hổng biết số phận xứ Lang Biang sẽ ra sao, có lẽ là banh ta lông hết cả đám, và số phận của nó nữa, chắc là nó bỏ xác tại đây mất.

Giả dụ điều đó xảy ra thì nó sẽ không còn cơ hội đem xác Kăply về làng Ke, nếu chẳng may thằng bạn thân yêu của nó qua đời sau thời hạn ba ngày kể từ lúc bị con basilic mổ trúng. Nguyên buồn rầu nghĩ, rồi tự nhiên nó chợt nhớ đến con chim vàng bay ra từ cái xác Kăply chiều hôm qua, đầu óc bỗng chốc rối bời, cảm thấy cuộc sống càng ngày càng kỳ quặc, không thể giải thích nổi, nói chung là tất cả giống như thi nhau tuột khỏi tầm hiểu biết của nó.

Lâu thật lâu, lâu lắm, Nguyên mới ôm cái xác Kăply lọ mọ đứng lên, rảo bước tiến về phía trước, giữa cánh đồng hoa, tin rằng bước đi như vậy sẽ giúp làm dịu đi cơn bão trong lòng hoặc ít ra là không nghĩ đến nó nữa. Trong khi hai con ngựa bạch vẫn thản nhiên gặm cỏ, hoàn toàn không quan tâm Nguyên làm gì hay đi đâu thì con Chacha theo sát sau lưng Nguyên, vẫn nhảy nhót nhưng không luôn mồm khọt khẹt như mọi khi, có vẻ như nó cũng linh cảm được nó và Nguyên đang lạc vào một chốn vô cùng thần bí.

Nguyên ngập ngừng đi tới, thận trọng dò dẫm từng bước, mắt dáo dác nhìn quanh, cố đoán xem những cây táo vàng người ta đồn đãi mọc ở hướng nào, mặc dù nó thừa biết nếu phát hiện ra, nó cũng không có cách nào hái được những quả táo kỳ diệu đó. Păng Ting đã nói rồi, đang canh giữ những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng là con rồng Ouroboros, mà nọc độc chứa trong móng của con rồng này được liệt vào ba loại kỳ độc của thế gian, ngang với nọc độc của con basilic và nhựa độc của quả hiến sinh.

Nhưng dù thế nào thì mình cũng phải tìm cho ra những cây táo vàng đã. Nguyên nghĩ, cố xốc lại can đảm và tiếp tục lần tới. Chẳng mấy chốc nó đã vượt qua cánh đồng hoa và bắt gặp mình đang đứng lớ ngớ dưới chân ngọn đồi trọc gần nhất. Vẫn không có một bóng người hay bóng thú vật nào. Bên tay trái nó, kẹp giữa hai ngọn đồi là con đường nhỏ, hai bên mọc một loại cây như cây thông nhưng thấp chùn chụt, lá dày và dài quét đất.

Nguyên lần theo con đường nhỏ đi xuôi xuống, chẳng bao lâu trông thấy trước mặt một thung lũng hẹp, không có các loại cây lớn, một bãi cỏ xanh mượt lốm đốm hoa dại li ti trải từ chân đồi bên này đến vách đá đối diện như một tấm thảm bằng nhung.

Gọi là vách đá nhưng thực ra sườn núi cuối thung trông như một bức tranh ghép từ những phiến đá lớn, giữa các khe đá và trên mặt đá, suối róc rách tuôn xuống từ trên cao tạo thành một thác nước mảnh mai và hiền hòa.

Đang ngồi trên phiến đá chính giữa, mặc nước bắn tung tóe trên đầu, mê mải khua chân vào làn nước trắng xóa để đùa nghịch, là một thằng nhóc khoảng mười tuổi. Nguyên chới với khi nhận ra thằng nhóc đó chính là thầy Akô Nô.

Nguyên hoàn toàn không ngờ có người trong thung, càng bất ngờ hơn khi người đó lại là vị giáo-sư-nhóc-tì này. Nó hoảng hốt thụt người vào sau cây thông lùn, trố mắt ngó ra, tim dộng binh binh.

Nguyên bắt gặp hàng đống câu hỏi nảy ra trong óc nhưng nó không trả lời được câu hỏi nào. Đầu nó tự nhiên trống rỗng như một chiếc hộp đã dốc hết đồ chứa bên trong. Tại sao thầy Akô Nô lại đến đây? Đến đây bằng cách nào và để làm gì? Và làm sao mà thầy biết được núi Lưng Chừng nằm ở đâu nếu không có con ngựa bay của Yan Dran dẫn đường? Thầy đã gặp chủ nhân núi Lưng Chừng chưa và có đúng là thầy vẫn sống sót sau khi gặp ngài? Nguyên nhớ là khi tụi nó chuẩn bị rời khỏi trường Đămri để bắt đầu cuộc hành trình gian khổ đến núi Lưng Chừng, thầy Akô Nô cũng có mặt ở đó, cùng với thầy N’Trang Long và thầy Haifai, thậm chí nó còn nhớ thầy hét om sòm, chúc Păng Ting lên đường bình an, ờ mà thầy cũng ngộ thiệt, cả đống đứa ra đi mà thầy chẳng chúc ai, chỉ chúc mỗi con nhỏ Păng Ting. Như vậy hổng biết thầy có biết là mình đã có mặt ở hòn núi huyền bí này chưa? Ờ, biết đâu thầy cố tình đi tìm mình? Nguyên lại chìm vào những suy nghĩ miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, suốt một lúc lâu nó bần thần vắt óc như người ta vắt một múi chanh nhưng hổng chảy ra được chút nước nào.

Ở trên tảng đá trước mặt, thầy Akô Nô vẫn hồn nhiên đùa giỡn, hoàn toàn là một đứa bé, quần áo và mái tóc trái đào ướt đẫm, những tràng cười thích thú chốc chốc lại vang lên, ngân nga không dứt do đập vào vách đá rồi dội ngược trở ra, lan dài trong gió.

Nguyên nghe tim mình nhảy tưng tưng. Nó biết thầy Akô Nô vẫn có tính cách của một đứa trẻ con, dù thầy là một siêu phù thủy và đang giảng dạy lớp Cao cấp 1 trường Đămri. Mà một đứa trẻ con khi đã vui chơi thì bất kể trời đất. Suốt một lúc lâu, thầy Akô Nô cứ cười như nắc nẻ trên phiến đá, trong khi Nguyên bụng giật thon thót, cứ phải đảo mắt nhìn quanh, sợ tiếng cười của thầy đánh động chủ nhân núi Lưng Chừng hoặc khiến con rồng Ouroboros mò tới.

Nguyên nhìn quanh quất như vậy cả chục lần. Đến lần thứ mười một thì nó không nhúc nhích cái cổ được nữa. Cổ nó cứng đơ và miệng há ra khi nhìn thấy ba cái chấm màu đỏ hiện ra ở bên tay trái, trên một con đường khác dẫn vào thung. Chết rồi, rồng Ouroboros?

Từ lúc đó, đôi mắt của Nguyên không nhắm lại được nữa. Sự sợ hãi như một cái que chống giữa hai mí mắt nó. Nó trừng trừng nhìn ba chấm đỏ đang di động về phía nó, ruột gan tan ra, cái xác Kăply trên tay bỗng nhiên nặng như chì.

Nguyên chỉ hơi dễ thở một chút khi ba cái chấm đỏ đến gần và nó thấy những cái chấm đó ngó không giống rồng cho lắm.

Bây giờ thì Nguyên đã biết đó là ba người mặc áo chùng đỏ. Và khi họ lướt ngang qua chỗ nấp của nó để tiến về phía tảng đá thầy Akô Nô ngồi thì nó sửng sốt nhận ra đó là Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Lẽ ra khi nhác thấy ba chấm đỏ di động đằng xa, Nguyên phải lập tức nghĩ ngay đến các chàng trai tuấn tú này, nhưng thiệt tình dù có nằm mơ nó cũng không thể hình dung Tam phù thủy Bạch kỳ lân lại xuất hiện ở chốn này. Theo truyền thuyết ở xứ Lang Biang, núi Lưng Chừng là một huyền thoại, đó là ngọn-núi-không-tùy-ý-muốn, là nơi không ai đến được, thậm chí không biết nó ở đâu và nếu đúng như những gì Nguyên nghe được thì tự cổ chí kim chỉ có Đại tiên ông Mackeno là người duy nhất đến được nơi đó mà thôi. Vậy mà bây giờ, ngoài nó và Kăply ra, còn cả đống người có mặt ở đây, biểu làm sao nó không ngỡ ngàng cho được.

Rúc chặt trong bụi, Nguyên thò lỏ mắt dòm ra, mồ hôi chảy ướt trán, cảm thấy sự việc sắp đến hồi quan trọng. Ai đã thuê Bạch kỳ lân đi tìm thầy Akô Nô? Hổng lẽ trùm Bastu cho rằng thầy đến đây để giúp đỡ mình hái những quả táo vàng và tìm cách ngăn chặn? Nhưng khi dùng chiếc mặt nạ thần hộ mệnh để kéo dài mạng sống cho Kăply, Bastu chẳng đã tuyên bố hắn tò mò muốn coi thử chiến binh giữ đền là thứ quái vật gì đó sao? Thiệt ra hắn có sợ cóc gì những chiến binh giữ đền cỡ như mình và Kăply! Những câu hỏi không ngừng gợn lên lăn tăn trong đầu Nguyên, câu này nối tiếp câu kia, tất cả xoắn vào nhau như mớ bòng bong, càng lúc càng rối tít mù.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã đến trước tảng đá thầy Akô Nô ngồi, đứng thành một hàng ngang, gậy sừng hươu nắm chặt trên tay. Nguyên hồi hộp muốn nín thở khi thấy thầy Akô Nô dường như không hay biết có người đến bên cạnh, vẫn cắm đầu đùa giỡn, hai chân vừa đập ầm ầm vừa đá vung làm nước văng tung tóe.

Nước bắn cả lên đầu cổ các chàng trai Bạch kỳ lân, những chiếc áo chùng đỏ bị dây nước, thẫm lại như tiết gà, cả mái tóc đẹp lẫn tấm khăn choàng trắng tinh bằng lông thú lúc này cũng ướt nhẹp, khiến họ trông giống như vừa từ dưới sông lên.

Nguyên như ngồi trên đống lửa. Nó đinh ninh những chàng trai đỏm dáng Bạch kỳ lân sẽ nổi giận đùng đùng trước những trò quá quắt của thầy Akô Nô, nhưng rồi nó thuỗn mặt ra khi trông bộ tịch của bọn họ nguội ngắt. Họ không phản ứng gì đã đành, hình như cũng không dám cả lấy tay chùi, cứ để mặc nước chảy ròng ròng trên mặt.

Gì thế nhỉ? Nguyên thầm hỏi. Hay là họ biết họ không phải là đối thủ của thầy Akô Nô? Nhưng nếu vậy thì họ nhận lời của trùm Bastu làm gì?

Tam phù thủy Bạch kỳ lân giải đáp các thắc mắc trong đầu Nguyên bằng cách đồng loạt cúi đầu thật thấp trước tảng đá, cất giọng lễ phép:

- Chào thầy...

Đôi môi Nguyên lập tức vẽ thành hình chữ O. “Thầy???”, Nguyên khẽ thốt lên, tay chân tê đi, đầu kêu vo vo như có ai vừa đánh rơi một cái chong chóng trong đó.

Thầy Akô Nô bây giờ mới từ từ quay mặt lại.

- Tụi con đấy à? - Thầy nhìn các chàng trai Bạch kỳ lân bằng vẻ mặt tươi cười.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân không trả lời, chỉ đưa cặp mắt lo lắng nhìn thầy Akô Nô.

- Tụi con vừa ăn trúng thứ gì mà á khẩu cả đám vậy hả? - Thầy Akô Nô cười hì hì - Lại đánh thua người ta chứ gì?

Câu hỏi của thầy làm các chàng trai cụp mắt xuống, trông họ tiu nghỉu như các học trò đang chờ trách phạt.

Ra họ là thầy trò thật! Nguyên nhấp nhổm trong bụi cây, lạ lùng nghĩ và cố mở to mắt hơn nữa.

- Đứng thẳng người lên xem nào! - Thầy Akô Nô cao giọng - Tụi con đánh thua Baltalon thì việc gì phải rầu rĩ chớ. Bộ tụi con tưởng tên đó là đồ rác rưởi sao?

Masari lí nhí:

- Ngay cả Tứ bất tử tụi con cũng không làm gì nổi hắn, thưa thầy. Tụi con phải liên thủ với Hắc tinh tinh mới đánh ngang tay với hắn.

- Chẳng sao hết. - Thầy Akô Nô khoát tay - Tứ bất tử là tổng quản lâu đài Sêrôpôk, tài nghệ không phải tầm thường.

Thầy nhỏm người dậy, đứng thẳng người trên phiến đá, thò tay cốc đầu Masari một cái:

- Con ngu quá! Nếu tụi con xuống núi đánh đâu thắng đó, chẳng hóa ra cái xứ Lang Biang là một đống giẻ rách à.

Một thằng nhóc mười tuổi gõ đầu và lên giọng dạy đời một thanh niên hăm bốn, hăm lăm tuổi trông hoạt kê đến mức Nguyên suýt phì cười, nhờ vậy mà nó cảm thấy bớt căng thẳng được một chút.

Thầy lại giơ tay đập bốp lên đầu Pila và Karăm:

- Hai đứa con cũng vậy. Vui vẻ lên. Ta sẽ dạy thêm cho tụi con vài câu thần chú đủ để tụi con đánh cho Baltalon lăn bò càng.

Pila nuốt nước bọt, vẫn cúi gằm đầu:

- Hắn chết rồi, thưa thầy.

- Hắn chết rồi thì kệ hắn. - Thầy Akô Nô gầm gừ - Còn cả đống tên khác nữa chi. Rồi Tứ bất tử nữa. Tụi con phải bẻ giò mấy con vật bẩn thỉu của hắn để trả thù chớ...

Như một đứa trẻ hiếu thắng, thầy Akô Nô càng nói càng hăng, tay huơ loạn xị, đến nỗi Nguyên có cảm tưởng nếu các chàng trai Bạch kỳ lân không kịp thời ngăn lại, thầy sẽ đứt hơi mất.

Thầy Akô Nô tiếp tục tuôn một tràng nữa, cho tới khi tít đằng xa, trên con đường Tam phù thủy Bạch kỳ lân vừa đi qua thình lình xuất hiện ba chấm đen.

Lần này thì Nguyên đoán ra ngay đó là Tam phù thủy Hắc tinh tinh và một lần nữa nó có cảm giác nó vừa trúng phải bùa Ngốc, đầu óc cứ ngu dần từng phút một.

Năm phút sau, Nguyên còn ù ù cạc cạc hơn nữa khi ba thân hình cao lêu nghêu của Hắc tinh tinh đứng nghiêm trước thầy Akô Nô, khom mình cung kính:

- Chào thầy...

Nguyên đứng lặng người trong bụi cây, mắt nhìn trân trối ra phía trước và hoàn toàn không tin những gì nó đang trông thấy. Nguyên biết mình không phải là đứa ngu ngốc, nó tin nó có thể nghĩ ra nhiều chuyện trên đời nhưng chắc chắn không bao giờ nó nghĩ ra được rằng Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh đều là học trò của thầy Akô Nô. Đó là sự thật không ai có thể tưởng tượng ra hoặc mơ thấy, ngay cả khi không còn gì để mà mơ nữa. Bây giờ nó mới nhớ đến những gì thằng Suku nói với nó trên đường đến trường trong ngày đi học đầu tiên. Thằng oắt khoe trường đào tạo tài năng Đămri là nơi sản sinh ra những pháp sư và phù thủy lừng danh nhất xứ Lang Biang trong vòng một ngàn năm nay. Giáo chủ Ama Êban, vợ chồng pháp sư K’Rahlan - Ka Ming, pháp sư K’Srêgơl, pháp sư K’Tul, bà Êmô, kể cả trùm Bastu và các sứ giả khét tiếng của hắn cũng xuất thân tại đây. Chỉ có Tam phù thủy Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân là không phải học sinh trường này. Bữa đó thằng Suku thú nhận là chính nó cũng không biết bọn Tam phù thủy học hành ở đâu. Hóa ra họ là học trò của thầy Akô Nô! Nguyên thở hắt ra, đầu tưng tưng, hơi lo lo khi thấy mình có vẻ bắt đầu giống thằng Mom hết sức.

Tam phù thủy Hắc tinh tinh sau khi cất tiếng chào, lập tức đứng im thin thít, tay chân thẳng đuột như càng cố giống thân cây khô hơn nữa.

Thầy Akô Nô lừ lừ nhìn ba tên học trò mới đến, không nói tiếng nào. Nguyên ngạc nhiên thấy thầy có vẻ ác cảm với bọn Hắc tinh tinh nếu so với thái độ tươi cười lúc thầy gặp các chàng trai Bạch kỳ lân.

- Hay lắm! Hay thiệt là hay!

Mãi một lúc thầy mới nhếch mép, giọng bèn bẹt không rõ khen ngợi hay chế giễu và Nguyên thấy rõ Tam phù thủy Hắc tinh tinh đang run lên trong những chiếc áo thụng đen.

Thầy chống hai tay vô hông, hừ giọng:

- Sao? Tụi bay trở về thân tàn ma dại như thế này à?

Tam phù thủy Hắc tinh tinh trả lời bằng cách cúi đầu thấp hơn nữa.

Thầy Akô Nô tung chân đá vào phù thủy đứng giữa, rít lên giận dữ:

- Ngước mặt lên, đồ khốn!

Thầy đá bồi thêm một cái nữa:

- Nói nghe coi! Mấy con giun thổ tả của tụi bay đâu rồi?

Lúc đầu Nguyên không hiểu thầy muốn ám chỉ điều gì, đến khi phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa lắp bắp đáp, nó mới biết thầy muốn nói đến ba con hắc xà:

- Thưa thầy... thưa thầy... bọn chúng chết rồi...

Thầy Akô Nô gật gù, lặp lại câu nói đầu tiên bằng giọng đe dọa:

- Hay lắm! Hay thiệt là hay!

- Thưa thầy...

- Thưa cái con khỉ! - Thầy Akô Nô quát ầm - May mà thiên hạ không biết tụi bay là học trò ta, nếu biết, chắc ta treo cổ tự tử vì nhục mất.

Phù thủy bên trái lấy hết can đảm ngước mặt lên:

- Thưa thầy... tụi con đụng phải thanh xà bạch xà... mà thầy cũng biết rồi, đó là linh xà...

- Linh cái đầu mày! - Thầy Akô Nô đá đứa học trò vừa lên tiếng một cái “bịch” vào giữa ngực, xẳng giọng - Biết hai con rắn đó là linh xà thì tránh xa ra, ai bảo tụi bay cậy giỏi sấn vào. Hổng lẽ học trò của Akô Nô ngu đến mức không biết hai con ma nhóc Pôcô Pôca đang ở nhà gã Yan Dran sao! Hừm, thiệt tức chết được!

Bị mắng xối xả, Tam phù thủy Hắc tinh tinh im như thóc, lại cúi mặt xuống.

Nhưng thầy Akô Nô không có vẻ gì là sắp buông tha cho ba tên học trò tội nghiệp.

- Thế còn Balibia thì sao? - Thầy gừ gừ - Hắn đâu có phải là linh xà linh xiếc gì, nhưng vừa thấy cấm lệnh của hắn, tụi bay đã chạy vắt giò lên cổ là sao? Lại là cấm lệnh giả nữa mới nhục chớ!

Phù thủy đứng giữa ấp úng phân trần:

- Balibia là tả hộ pháp của Bastu. Mà... thầy... thầy Ôkô Na không cho tụi con đối đầu với phe Hắc Ám...

Nghe nhắc đến Ôkô Na, thầy Akô Nô thở đánh thượt, giọng buồn bực:

- Ôi, cái lão chết tiệt đó! Vừa ngu ngốc, vừa độc ác, vừa xấu xí, lão chẳng dạy cho học trò được điều gì tử tế. Thiệt tình!

Đang than thở, mắt thầy bỗng quắc lên:

- Thế còn Tứ bất tử? Tụi bay gặp hắn, chưa đánh đã són ra quần rồi phải không?

Nguyên càng nghe, đầu óc càng quay cuồng: Thầy Ôkô Na nào nữa? Hổng lẽ bọn Tam phù thủy có tới hai vị sư phụ? Làm thầy của Tam phù thủy chắc chắn trình độ pháp thuật phải ngang cỡ thầy Akô Nô, thế sao mình chưa bao giờ nghe ai nhắc đến cái tên Ôkô Na lạ hoắc này? Ờ, nhưng tài nghệ siêu đẳng như thầy Akô Nô, trước khi thầy về trường Đămri, mình cũng có nghe tiếng tăm gì đâu!

Mải nghĩ ngợi, Nguyên không nghe những đối đáp sau đó giữa thầy trò Tam phù thủy. Khi nó dứt ra khỏi mớ bòng bong trong đầu, ngước lên, đã thấy bọn Hắc tinh tinh người nào người nấy đang ôm mặt nhăn nhó. Còn thầy Akô Nô thì cười nhạt:

- Lần này ta cho mũi tụi bay lệch qua bên phải. Phạt như vậy là nhẹ tay lắm rồi. Lần sau ta mà ngứa mắt, ta sẽ cho cái mũi tụi bay rụng luôn xuống đất. Liệu hồn đó.

Thầy đá chân vào không khí:

- Cút!

Tam phù thủy Hắc tinh tinh cúi gập mình chào rồi lủi thủi quay lại đường cũ, mũ trùm lệch hẳn một bên, tay người nào người nấy vẫn bụm chặt lấy mũi.

- Tụi con cũng về nghỉ đi! - Thầy quay sang các chàng trai Bạch kỳ lân, giọng dịu dàng như thể thầy có thể nói bằng hai thứ giọng khác nhau trong một phút.

Masari có vẻ như chẳng hào hứng gì trước sự trừng phạt thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh. Anh nhìn theo ba chấm đen đang thất thểu đằng xa, nhăn nhó:

- Thầy ơi, thầy nặng tay quá...

- Hề hề, ta tưởng ta ra tay như vậy là nhẹ hều đó chớ. - Thầy Akô Nô cười nói, tay xua xua trước mặt như muốn bảo Masari đừng ca cẩm nữa.

Masari không dám hé môi, khẽ liếc sang Pila và Karăm rồi quay lại phía thầy Akô Nô, ngoan ngoãn:

- Thưa thầy, tụi con đi.

Chân mỏi nhừ, Nguyên ngồi bệt xuống cỏ, đưa mắt nhìn theo các chàng trai Bạch kỳ lân đang nối gót Hắc tinh tinh ra khỏi thung trên con đường khi nãy, bụng phân vân không biết nên ngồi lì trong bụi hay chạy ra chào thầy.

Đang lưỡng lự, nó bỗng giật bắn khi nghe tiếng thầy Akô Nô vang lên rất rành rọt:

- Ta nghĩ là ngươi chui ra được rồi đó. Thoạt đầu Nguyên không nghĩ là thầy nói với nó. Nó hồi hộp quay đầu nhìn quanh nhưng chẳng thấy một bóng người nào quanh đó. Hay là mình? Hổng lẽ thầy biết mình nấp trong này?

- Ngươi nhớn nhác cái gì vậy! Ta nói ngươi đó, K’Brăk! - Tiếng thầy Akô Nô lại oang oang.

Lần này thì Nguyên vội vàng bước ra khỏi chỗ nấp.

Nó chưa kịp lên tiếng chào thì ánh mắt của thầy Akô Nô đã trượt từ mặt nó xuống cái xác của Kăply, mày cau lại:

- Làm gì mà ngươi ôm nó cứng ngắc vậy. Thả nó chỗ bụi cây kia đi!

Nguyên cúi xuống Kăply rồi ngước nhìn thầy Akô Nô, ngơ ngác:

- Thả xuống hả thầy?

- Thì thả xuống chớ ngươi ôm làm gì cho mỏi tay.

Nguyên liền ngồi xổm và sè sẹ đặt Kăply xuống cỏ, chưa kịp buông tay, thầy Akô Nô đã quát giật:

- Ta bảo ngươi đặt nó chỗ bụi cây kia kìa. Chỗ ngươi nấp từ sáng đến giờ đó.

Nguyên không hiểu tại sao thầy Akô Nô lại bắt mình đặt Kăply chỗ đó nhưng nó không hỏi lại, cắm cúi ôm Kăply đi tới chỗ bụi cây khi nãy, thận trọng đặt xuống. Lúc ngẩng lên, nó bắt gặp cặp mắt của con khỉ Chacha lấp ló sau cành lá nhìn ra.

- Cứ để con khỉ con ở trong đó. Ngươi lại đây ta bảo.

Tiếng thầy Akô Nô vang lên và cái cách thầy nhìn thấy hết mọi thứ làm Nguyên muốn nổi da gà.

Đợi thằng nhóc lại gần, thầy Akô Nô nghiêm trang nói:

- K’Brêt chỉ kéo dài tính mạng được đến trưa mai, và tối nay nếu ta không thuyết phục được lão Ôkô Na ra tay giúp đỡ, nó sẽ vĩnh viễn không còn nhìn thấy mặt trời nữa.

Nguyên cúi đầu:

- Dạ, con hiểu.

Và ở tư thế giống như cam chịu đó, một câu hỏi đột ngột xì ra từ cổ họng nó:

- Ủa, Ôkô Na là ai vậy thầy?

Câu hỏi của Nguyên làm thầy Akô Nô nhăn mặt như vừa nhai phải một hạt sạn

: - Lão đó ư? Hừm, đó là một lão già thổ tả nhất mà ta được biết. Có thể nói tóm tắt, lão là một cái túi chứa đủ mọi thứ xấu xa. Nói chung là con không nên biết nhiều về lão ta làm gì!

Nguyên tính hỏi có phải Ôkô Na cũng là thầy của Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân không, nhưng nghe thầy Akô Nô nói vậy, nó đành nuốt câu hỏi trở lại vào bụng.

- Ngươi đừng có nghĩ ngợi lung tung, hãy ráng nhớ những gì ta dặn đây nè. - Thầy Akô Nô hắng giọng, mắt nhìn Nguyên chằm chằm như để kiểm tra xem nó có tập trung hay không - Chiều nay, ngay khi trời vừa tắt nắng, lão Ôkô Na sẽ xuất hiện. Lão sẽ ngồi ngay trên phiến đá ta đang ngồi đây. Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh sẽ đến gặp lão, nghe lão răn dạy, mắng nhiếc và trừng phạt, đại khái là bằng khoảng thời gian mà ta trừng phạt, mắng nhiếc và răn dạy tụi nó. Trong thời gian đó, ngươi cứ nấp trong bụi cây khi nãy, không được lên tiếng, cũng không được cử động gì hết.

Nguyên nín thở:

- Thế lão có biết con đang nấp trong đó không hả thầy?

- Ngươi nấp ở đâu mà lão chả biết, cái lão tà đạo đó. Nhưng nếu ngươi cứ nín thinh, cũng không có bất cứ hành động gì thì lão sẽ không động đến ngươi. Đó là điều mà ta sẽ thỏa thuận với lão.

Nguyên lại thấp thỏm:

- Thế con phải nấp đến bao lâu hả thầy?

Thầy Akô Nô lừ mắt nhìn Nguyên một cái, thản nhiên tiếp:

- Sau khi lũ học trò giải tán, lão Ôkô Na sẽ tự biến thành con basilic. - Chỗ này, Nguyên hoàn toàn không nghe mình thở, nó vểnh tai lên, ước chi có thêm vài cái tai nữa để nghe cho rõ - Con basilic sẽ bò đến chỗ K’Brêt để hút nọc độc ra.

Giọng thầy Akô Nô chuyển qua dặn dò:

- Suốt trong thời gian đó, kể từ lúc lão Ôkô Na hóa ra con basilic, ngươi nhớ đeo cặp kiếng pháp thuật của thằng oắt Suku vào.

Nguyên liếm môi:

- Con sẽ nhắm tịt mắt lại cho chắc ăn.

- Điều này mới quan trọng nè. - Thầy Akô Nô đột ngột cao giọng - Khi con basilic hút xong nọc độc trong người K’Brêt và bỏ đi, con khỉ Chacha phải nhào ra ôm K’Brêt chạy đi liền...

- Sao vậy thầy? - Nếu không đem K’Brêt đi, khi con basilic tiêu hóa xong nọc độc mà nó vừa hút, chắc chắn nó sẽ quay lại tấn công. - Thầy Akô Nô nhìn cái miệng há hốc của Nguyên, thở dài giải thích - Lão Ôkô Na nếu đã hứa sẽ hút nọc độc cho K’Brêt thì dĩ nhiên lão sẽ làm, nhưng lão coi chuyện sau đó lão mổ chết K’Brêt hay biến nó thành đá là một chuyện hoàn toàn khác, không liên quan gì đến lời hứa kia. Lão ôn dịch này tính khí rất kỳ quặc, vì vậy ngươi phải nhớ kỹ lời ta dặn.

Nguyên dứt mạnh một sợi tóc:

- Thầy ơi, thế con không tự mình ôm K’Brêt chạy đi được sao? Con khỉ Chacha chắc gì đã cẩn thận...

Thầy Akô Nô sờ tay lên đầu Nguyên, nắn tới nắn lui một lúc rồi hừ mũi:

- Ta thấy đầu ngươi cũng mềm đó chớ, đâu có giống cục gạch.

Thầy bỏ tay xuống, “xì” một tiếng:

- Lúc nãy ta nói gì, hổng lẽ ngươi quên sạch rồi sao? Ta nói là ngươi không được làm bất cứ hành động gì, nghĩa là không động đậy gì hết, chỉ khi nào con Chacha cắp thằng nhãi K’Brêt chạy đi thì ngươi mới được co giò chạy theo, và cố mà chạy cho xa, hiểu chưa?

- Dạ hiểu.

Nguyên gượng gạo đáp, trong khi nó nghĩ là nó không hiểu cái quái gì hết. Đã vậy, nó còn khổ tâm hết sức khi bị đem ra so sánh với cục gạch, tự nhiên nó thấy nó giống thằng Kăply dễ sợ và ý nghĩ đó làm miệng nó như bị ai kéo lệch đi.

- Hiểu rồi thì đi đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay về phía bụi cây - Ta cũng đi đây.

Nguyên nói nhanh, như sợ thầy Akô Nô biến mất:

- Thế tối nay thầy có tới đây không hả thầy? Nó hối hả nói thêm, khi thấy thầy Akô Nô có vẻ như sắp sửa lắc đầu:

- Thầy tới nha thầy. Có thầy bên cạnh chắc con sẽ đỡ sợ hơn.

- Có lẽ là ta không tới được, K’Brăk à. - Trong khoảnh khắc, giọng thầy Akô Nô chợt chùng xuống, nghe trầm và buồn hiu hắt, thứ giọng không thể nhầm lẫn của người chất chứa nhiều tâm sự nặng nề, và khi thầy thốt ra những lời đó, Nguyên thấy rõ đôi mắt của thầy bỗng nhiên trở nên xa vắng và có vẻ thầy cố tình nhìn đi đâu đó phía trên đầu Nguyên như không muốn nó nhận ra nỗi buồn thăm thẳm của thầy - Hừm, ta không muốn giáp mặt với lão Ôkô Na. Ngươi biết không, lão và ta giống như là nước với lửa, thậm chí còn hơn thế nữa. Ở đâu có người này thì không có người kia.

Thầy đặt tay lên vai Nguyên, một động tác giống như để sưởi ấm đứa học trò và lấy giọng điềm tĩnh:

- Nhưng ngươi chẳng việc gì phải lo lắng. Nếu ngươi làm đúng theo những gì ta dặn, mọi chuyện ắt sẽ tốt đẹp. Lão Ôkô Na tuy độc ác nhưng dẫu sao lão cũng biết giữ lời. Hà, nếu một ngày nào đó lão thực sự trở thành con người táng tận lương tâm thì ta sẽ liều với lão. Bất quá cả hai đều chết là cùng!

Những câu cuối cùng, giọng của thầy Akô Nô lại trở lại âm sắc ban đầu, ấm ức và phiền muộn, có lẽ hoàn toàn không ý thức, cái kiểu của người tự nhiên rơi vào trạng thái độc thoại với chính mình.

Cái cách thầy cắt ngang câu chuyện cũng rất đáng chú ý. Đang cúi đầu suy tư, Nguyên bỗng nghe vai mình nhẹ hẫng. Nó ngẩng phắt lên, chớp mắt liền hai, ba cái, bàng hoàng thấy phiến đá trước mặt trống trơn.

Nguồn: diendan.game.go.vn