Chương 21: LÃO QUÁI ÔKÔ NA
Nguyên lại chui vào trong bụi cây, ngồi bệt xuống cỏ, vừa moi lương khô ra nhai, đợi trời tối, vừa vẩn vơ nghĩ về những điều xảy ra trong nửa ngày qua, kể từ khi nó đặt chân đến núi Lưng Chừng. Mặt trời chiếu ngay đỉnh đầu nhưng gió thổi luồn vào từ các khe núi khiến không khí trong thung không quá oi bức.
Bây giờ, khi đã bình tĩnh, Nguyên mới nhận ra có cả đống chuyện nó quên hỏi thầy Akô Nô. Nó quên hỏi làm sao thầy tới được hòn núi này và tới làm gì. Nó nhớ lại, và ngay lập tức nó trả lời được một nửa: Hiển nhiên là thầy tới đây để giúp nó và Kăply, nếu không, việc gì thầy phải cạy cục nhờ cái người mà thầy ghét cay ghét đắng là lão Ôkô Na cứu mạng cho Kăply. Nó chỉ không biết thầy tới đây bằng cách nào thôi. Nguyên nghĩ quanh nghĩ quẩn một hồi, óc chợt lóe lên: Đúng rồi, ngay từ đầu thầy đã biết là mình đến núi Lưng Chừng, chính thầy và bọn Tam phù thủy đã bí mật bám theo sau hai con ngựa bay của Yan Dran để lần được đến đây.
Nguyên dần dần nhớ lại, mắt nó sáng lên từng giây một. Những sự kiện đã trải qua tự động xâu thành chuỗi trong tâm trí nó. Ờ, như vậy là rất nhiều người biết đầu mối dẫn đến núi Lưng Chừng nằm ở họa sĩ Yan Dran. Trùm Bastu và các bộ hạ của hắn không ngừng ép buộc Yan Dran tiết lộ bí quyết vẽ truyền thần dĩ nhiên là nhằm mục đích tạo ra những con phi mã dẫn đường đến hòn núi huyền bí này. Vợ chồng thầy Haifai cũng biết bí mật đó, khi còn là Krazanh và Kim họ đã từng dùng chuyện này để đánh lừa trùm Bastu. Thầy N’Trang Long cũng thế, nếu không thầy đã không nhờ Suku dẫn tụi nó đến chỗ họa sĩ Yan Dran. Cả vợ chồng K’Rahlan - Kaming nữa, khi họ làm một chuyện tréo ngoe là cho con trai mình đến thụ giáo một họa sĩ thuộc giáo phái Madagui hẳn là họ đã tính đến mối lợi này. Và cuối cùng là thầy trò Tam phù thủy - những người được lợi nhất trong chuyến đi của Nguyên.
Nguyên chỉ lấy làm lạ là tại sao không ai chịu hé môi cho nó biết về sự liên quan giữa Yan Dran và núi Lưng Chừng. Ngay cả Tam phù thủy Bạch kỳ lân cũng vậy, khi bị Păng Ting gặng hỏi, họ chỉ nói úp úp mở mở, cứ như thể đó là điều cấm kỵ và họ sẽ bị thụt lưỡi nếu nói thẳng ra. Hổng lẽ đó là quy định của Hội đồng Lang Biang: chiến binh giữ đền phải tự tìm đường đến núi Lưng Chừng?
Nguyên cũng phát giác ra mình quên hỏi thầy Akô Nô về những quả táo vàng và ngạc nhiên là ngay cả thầy cũng quên mất chuyện đó trong khi chính thầy thừa biết những quả táo đó đối với nó và Kăply có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Thế nào rồi mình cũng sẽ gặp lại thầy, tới lúc đó nhất định mình sẽ hỏi. Nguyên nhủ thầm, lúc lắc đầu như cố ghim chặt dự tính đó vào trí nhớ.
Những cây thông lùn vẫn thấp chủn, nhưng lúc này Nguyên thấy những bóng cây trên cỏ đã dài ra gấp đôi. Nó nhìn lại chỗ Kăply nằm, phập phồng không biết bạn mình có sẽ sống lại như thầy Akô Nô nói hay không. Tự nhiên thấy thương bạn, nó bẻ mấy nhánh lá, chạy lại đắp trên người Kăply rồi chạy về chỗ cũ, bó gối ngồi nhìn trời nhìn đất.
Suốt một hồi lâu, Nguyên chẳng biết làm gì cho bớt sốt ruột. Nó cứ ngồi như vậy, lặng lẽ nhìn nắng, nhìn cây lá, nhìn bóng chiều, lòng bất giác cảm thấy vô cùng tịch mịch.
Trời dần nhạt nắng, sương bắt đầu đùn lên từ mặt cỏ và gió thổi mạnh hơn. Ở bên trên những ngọn núi đá, những đám mây bị gió xô đẩy, tơi ra và gầy rạc hẳn đi so với buổi sáng.
Nguyên và con Chacha thu lu trong bụi cây, nôn nao chờ đêm xuống. Nguyên đã nói chuyện với Chacha rồi, và mặc dù ánh mắt con Chacha nhìn Nguyên với vẻ rất chi là hiểu biết, Nguyên vẫn không chắc con khỉ nghịch ngợm này có hiểu những gì nó nói hay không.
Có lúc Nguyên nhận ra mình vừa ngủ. Nó vội vàng đập hai tay vô má để cho tỉnh táo nhưng một lát sau những làn gió chiều cù mơn man lên lưng lên cổ nó, y như hồi ở làng Ke bà nó vẫn cù như thế để giúp nó dễ ngủ, làm nó thiếp đi lúc nào không hay.
Nguyên lại giật mình mở mắt ra, lại vỗ lên má, lát sau thì véo tai và ngắt lên đùi, để rồi lại chìm vào giấc ngủ dễ dàng hơn, nhiều lần như vậy.
Tới lần không biết thứ bao nhiêu, khi Nguyên mở mắt ra thì bóng đêm đã nhả xuống thung lũng những mảng tối cuối cùng. Nó giật mình đánh mắt về phía vách núi đối diện, thấy lão Ôkô Na đã ngồi trên phiến đá từ hồi nào.
Nguyên ngẩn ra khi thấy những phiến đá chung quanh chỗ lão ngồi đều phát sáng, thứ ánh sáng xanh lè, gây cảm giác lạnh lẽo và rờn rợn. Trong thứ ánh sáng ma quái lập lòe đó, lão Ôkô Na hiện lên như một phiên bản của thần chết. Lão gần như không có thịt, cái đầu lão giống như đầu lâu với hai hốc mắt đen ngòm, xương gò má nhô cao trong khi má lõm vào, hai cánh tay thò ra dưới tay áo thụng của lão rõ ràng là hai khúc xương; nói chung trông lão âm u và tăm tối đến mức nếu trong tay lão là chiếc lưỡi hái của thần chết thì Nguyên cũng không thắc mắc chút nào.
Lẽ ra Nguyên đã ngất đi nếu không biết trước lão là Ôkô Na, người sẽ cứu mạng cho Kăply trong lát nữa. Nhưng cái hình thù gớm ghiếc của lão vẫn khiến Nguyên không dám nhìn lâu, thậm chí có lúc nó phải nhắm mắt lại như thể cầu nguyện cho mình có đủ gan dạ để không hét lên một cách ngu ngốc hoặc bất thần lăn ra xỉu nửa chừng.
Như những bóng ma lướt qua mặt Nguyên, Tam phù thủy Hắc tinh tinh câm nín tiến về phía vách đá từ con đường ban sáng và khi cả ba đứng ngay ngắn trước mặt lão Ôkô Na, bốn thầy trò họ nom giống nhau đến mức trong phút chốc Nguyên như quên cả sợ hãi, chỉ thấy trong bụng đang trồi lên một cảm giác gì đó như là sự buồn cười khiến nó phải trấn áp một cách khổ sở.
- Các con đấy ư?
Tam phù thủy Hắc tinh tinh chưa kịp cất tiếng, lão Ôkô Na đã hỏi, giọng ngọt ngào như phát ra từ một hũ đường.
- Thưa thầy...
Phù thủy đứng giữa nói, giọng nghèn nghẹt như vẫn còn uất ức về chuyện thầy Akô Nô trừng phạt hắn.
- Ta biết. - Lão Ôkô Na hắng giọng - Nhìn thoáng qua ta đã biết. Chắc lão Akô Nô vừa làm khổ tụi con phải không?
Bọn Hắc tinh tinh không nói gì nhưng vẻ ủ rũ của bọn họ có giá trị còn hơn cả ngàn lần xác nhận.
- Lão đó thiệt chẳng ra gì, chỉ được mỗi cái thù vặt. Mà thiệt ra các con cũng có gây ra chuyện gì phiền phức đâu. - Ôkô Na cười khảy, càng nói càng cao giọng, đến câu cuối cùng thì gần như lão hét lên - Lẽ ra lão phải khen thưởng tụi con mới phải chớ!
- Thầy Akô Nô trách tụi con không làm gì được Tứ bất tử...
- Lão thiệt là bá láp. - Lão Ôkô Na hừ mũi, bất bình - Tứ bất tử đâu phải là thứ dễ xơi.
Tam phù thủy Bạch kỳ lân xuất hiện ngay vào lúc lão Ôkô Na đang nổi quạu. Và khi bọn họ bước đến trước phiến đá lão ngồi thì cả bọn tá hỏa hứng lấy một cơn bão những lời rủa xả đột ngột dội xuống đầu:
- Mấy thằng khốn kiếp này, tụi bay đi đâu mà bây giờ mới vác mặt tới hả? Hừm, áo đỏ khăn trắng, bảnh bao gớm! Lại còn đeo chuỗi ngọc nữa chớ! Nói thiệt, tụi bay chẳng làm chuyện gì ra trò ngoài chuyện làm ta xốn mắt kinh khủng.
- Thưa thầy... tụi con...
Thủ lĩnh Masari bối rối nói, trong khi Pila và Karăm rúm người lại.
- Ba đứa bay thiệt chẳng ra gì. - Như không nghe Masari, hoặc nghe mà không thèm hiểu, lão Ôkô Na tiếp tục phun ra những lời đao búa, trông lão hằn học đến mức Nguyên tự hỏi tại sao lão không phun lửa ra quách cho rồi - Nói thiệt, lão Akô Nô chỉ đào tạo ra toàn đồ cóc nhái. Hừ, Bạch kỳ lân, cái biệt hiệu hay ho gớm! Bạch kỳ lân mà để cho tên nhãi nhép Baltalon đánh văng tuốt lên mây như những cái lông vịt. Thiệt tình!
Masari cười khổ:
- Hắn đã luyện được thần chú Phân thân, thưa thầy.
- Phân thân là cái quái gì chớ! Học trò của Ôkô Na mà sợ loại thần chú lôm côm đó sao! - Đầu lão Ôkô Na lắc lư đầy giận dữ, người yếu bóng vía có thể phát hoảng nghĩ lão là một hài cốt từ dưới mộ đang cựa quậy chui lên và cái cách lão nhe gần đủ ba mươi hai chiếc răng trắng nhởn nom ấn tượng đến nỗi Nguyên phát run lên đằng sau bụi cây.
Lão Ôkô Na tiếp tục hành hạ Bạch kỳ lân, theo kiểu cách mà xét cho cùng thì giống một cách đáng kinh ngạc với thái độ ác cảm mà thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh lúc ban ngày:
- Cả lão Tứ bất tử nhăng nhít kia mà tụi bay cũng đánh không lại nghĩa là sao?
Masari khẽ liếc Tam phù thủy Hắc tinh tinh, liếm môi với vẻ chịu đựng:
- Thưa thầy, Tứ bất tử đã luyện bốn con vật đến độ xuất thần...
Một lần nữa lão Ôkô Na không để Masari nói hết câu. Lão nhanh nhẩu cướp lời, cái cách chặn họng đầy sốt sắng của lão cho thấy lão không hề chờ đợi các chàng trai Bạch kỳ lân trả lời, lão chỉ dựng lên câu hỏi như người ta dựng một chiếc bục sân khấu để từ trên đó lão trút xuống đầu các tên đệ tử bất cứ lời lẽ cay độc nào mà lão chợt nghĩ ra:
- Xuất thần cái đầu tụi bay. Mấy con vật nhí nhố đó mà tụi bay đánh không lại thì còn mong gì đối đầu với ai. - Lão nghếch mặt nhìn Tam phù thủy Bạch kỳ lân, từ trong bụi cây ngó ra Nguyên nghĩ là lão đang nheo mắt nhưng đôi mắt của lão chỉ là hai cái hốc nên nó chỉ có thể phỏng đoán qua cái nghiêng đầu khinh khỉnh của lão - Ta không đến nỗi quá khắt khe nhưng thiệt sự là ta thấy tụi bay giống y chang ba con gà trống.
Nếu cuộc đối thoại này diễn ra ban ngày và nếu không nấp xa quá, Nguyên tin rằng nó sẽ thấy gương mặt của các chàng trai Bạch kỳ lân đang chuyển màu gạch cua. Điều đó càng dễ tin hơn khi một trong ba phù thủy Hắc tinh tinh đột ngột “híc” lên một tiếng, một dấu hiệu cho biết nếu không vất vả kiềm chế hắn đã phá ra cười trước so sánh đầy nhạo báng của lão Ôkô Na.
Tam phù thủy Bạch kỳ lân đứng im như tượng, vẻ biết thân biết phận. Nhưng lão Ôkô Na vẫn không để yên. Những cái mũi lệch của đám đệ tử thân yêu phơi ra trước mặt, hễ lão không nhìn thì thôi, cứ mỗi lần chạm mắt vào bộ mặt dị dạng của bọn họ, lão như bị đánh thuốc độc.
- Tụi bay sử dụng mấy câu thần chú mèo quào của tụi bay cho ta coi thử nào! - Lão đột ngột rít lên, cánh tay khẳng khiu trỏ vào Bạch kỳ lân như sẵn sàng đâm thủng bụng lũ học trò.
Masari tính hỏi lại nhưng không dám. Anh vung cây gậy sừng hươu vào tảng đá bên cạnh, những luồng ánh sáng chói lọi từ đầu gậy phụt ra, chạm vào tảng đá kêu đánh “bùng” một tiếng; trong tích tắc khi luồng sáng lịm đi, Nguyên nhìn rõ tảng đá đã tan thành bụi.
- Cái đó kêu là thần chú gì? - Lão Ôkô Na nhếch mép, mặt không lộ cảm xúc, mà nếu có thì không ai có thể nhận ra trên khuôn mặt như ác quỷ của lão.
Masari lí nhí: - Vàng hoa cúc, thưa thầy.
- Pila. - Lão Ôkô Na hất hàm - Tới phiên ngươi múa may đi.
Một chùm tia sáng tím lóng lánh từ đầu gậy của Pila bắn ra, chói lòa, rực rỡ và cũng như luồng sáng của Masari trước đó, trong nháy mắt đã làm biến mất một tảng đá lớn trên vách núi.
Lão Ôkô Na cười khảy, nghe giọng cười đó Nguyên tin nếu lão có một khuôn mặt bình thường như mọi người chắc chắn nó đã thấy môi lão trề ra:
- Cái này là cái gì?
Pila rụt rè:
- Dạ, thần chú Tím hoa cà, thưa thầy.
Cây gậy trên tay Karăm khẽ rung động, rõ ràng anh đang hồi hộp chờ lão Ôkô Na kêu đến mình. Nhưng lão không thèm liếc mắt đến Karăm. Lão ngửa mặt lên trời, cười ha hả:
- Thiệt là chưa từng thấy. Phải nói là lão Akô Nô dạy học trò hay thiệt... Ha ha ha...
Lão chợt ngưng cười, ánh mắt rớt bộp xuống bọn Bạch kỳ lân, mắc lại ở những khuôn mặt đang giần giật vì lo lắng, nói giọng khinh miệt:
- Hừ, Vàng hoa cúc, Tím hoa cà! Đúng là thần chú của lũ gà trống! Còn gì nữa hả tụi bay? Chắc thế nào cũng có ba cái tên õng ẹo như Trắng cọng mây, Xanh cọng cỏ chớ hả?
Lão thình lình vỗ mạnh tay lên chỗ ngồi làm tảng đá xịt khói tùm lum và mẻ mất một miếng lớn, cất tiếng mắng:
- Tụi bay ăn mặc thì đỏm dáng, thần chú thì ủy mị, gậy phép cũng bày đặt màu mè, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ra đòn phải đẹp, tên gọi phải kêu, ba cái thứ nhố nhăng đó chỉ hữu dụng để đi tán gái chứ đánh đấm cái cóc khô gì. Hừ, tụi bay thiệt giống lão Akô Nô quá sức. Thầy thì lãng mạn, trò thì chải chuốt, đúng là một lũ vừa hâm vừa ngớ ngẩn.
Nghe lão Ôkô Na mắng sa sả như tát nước, Tam phù thủy Bạch kỳ lân ngậm tăm không dám nói, cũng không cả thở. Nhưng khi lão nói đến câu cuối cùng thì Masari ngẩng phắt lên:
- Thầy chửi tụi con te tua thế nào cũng được, xin thầy đừng nói động đến thầy Akô Nô.
- Ha ha ha... - Phản ứng bất ngờ của Masari khiến lão Ôkô Na giận đến mức chỉ biết bật ra một tràng cười dài, những khớp xương trong người lão kêu lên cót két như tấm ván bị uốn cong - Hay lắm! Hay lắm! Thầy trò bênh nhau, đúng là cùng một giuộc. Bộ ta không phải là thầy tụi bay chắc?
Lão Ôkô Na vung tay áo thụng lên, hoàn toàn không báo trước:
- Hỗn láo nè!
Một luồng khói đen từ tay áo lão phụt ra, đập thẳng vào mặt Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Nguyên giật mình nghe các chàng trai kêu lên một tiếng đau đớn và bắn tung ra xa, ngã chổng gọng trên cỏ như những con diều đứt dây, gậy trên tay văng mỗi nơi một chiếc.
Khi Tam phù thủy Bạch kỳ lân lóp ngóp bò dậy, Nguyên hoảng hồn thấy trên mặt họ máu trào ra như suối từ hai lỗ mũi.
- Hà hà, - lão Ôkô Na cười sằng sặc - Tím hoa cà thì được tích sự gì! Ta cho tụi bay thấy thế nào là Trào máu mũi nè.
Bây giờ Nguyên mới hiểu tại sao Tam phù thủy Bạch kỳ lân lộ vẻ lo lắng khi thấy thầy Akô Nô trừng phạt Hắc tinh tinh. Hẳn họ biết thế nào thầy Ôkô Na cũng sẽ điên lên mà trút giận lên đầu họ.
- Tụi bay còn đứng xớ rớ ở đó hả? - Lão Ôkô Na gầm lên - Lượm mấy cây gậy đánh chó của tụi bay lên rồi xéo đi cho rảnh!
Như chỉ chờ có thế, các chàng trai Bạch kỳ lân vội vàng nhặt nhạnh những chiếc gậy sừng hươu vương vãi trên cỏ, cúi đầu chào lão Ôkô Na rồi quay mình rảo bước, điệu bộ hấp tấp như cố chạy xa một bãi mìn sắp nổ.
Lão Ôkô Na nhìn theo những chàng trai Bạch kỳ lân, phun một bãi nước bọt rồi quay sang bọn Hắc tinh tinh nãy giờ vẫn im lìm theo dõi mọi diễn biến, giọng hài lòng:
- Ta ra tay như vậy là còn nể mặt lão Akô Nô lắm đó.
Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái đưa tay mân mó chiếc mũi lệch, bất bình nói:
- Con nghĩ hình phạt thầy dành cho Bạch kỳ lân chưa tương xứng với những gì tụi con nhận lãnh ở thầy Akô Nô.
- Tại tụi con chưa biết đó thôi. - Lão Ôkô Na an ủi học trò bằng thứ giọng người ta thường dùng để dỗ trẻ con - Tụi con bị vẹo mũi chỉ là chuyện vặt. Hơn nữa, dù mũi tụi con có thẳng thớm thì ta nghĩ cũng không nhờ thế mà tụi con trở nên đẹp trai hơn.
Lão bật cười hiểm độc:
- Còn bọn Bạch kỳ lân sau khi bị ta dùng thần chú đánh trào máu mũi, tụi nó sẽ mất đi khoảng một phần mười năng lượng pháp thuật. Cái đó mới đáng gọi là trừng phạt.
Lão lại bật cười khan một hồi; nhìn vẻ hoan hỉ của lão Nguyên nghĩ chắc là lão đang tự cho mình điểm mười về cái âm mưu thâm hiểm vừa rồi. -
Nói cho chính xác thì trình độ của tụi con so với Bạch kỳ lân thì ai hơn ai kém? - Lão chợt hỏi, giọng trở lại nghiêm trang.
- Con không biết, thưa thầy. - Phù thủy đứng giữa trầm ngâm đáp.
- Con nghĩ chắc là ngang nhau. - Phù thủy đứng bên phải dè dặt bổ sung.
- Hừm, sao lại có thể như thế được. - Lão Ôkô Na lại đập tay xuống tảng đá và làm mẻ thêm một miếng nữa - Tài nghệ của tụi con phải cao hơn Bạch kỳ lân chớ.
Thấy ba tên học trò không nói gì, lão Ôkô Na có vẻ bực mình:
- Dĩ nhiên là tụi con và Bạch kỳ lân không được phép so tài trực tiếp với nhau. Nhưng như vậy không có nghĩa là không so sánh được. - Cái khung xương của lão lại cựa quậy một cách nóng nảy trong chiếc áo thụng làm phát ra những tiếng răng rắc - Phe Hắc Ám lúc này như thế nào rồi? Gần đây tụi con có giúp trùm Bastu được chuyện gì đáng kể không? Cứ đem thành tích của tụi con và Bạch kỳ lân ra đọ với nhau là biết ngay tụi con cao hơn tụi nó bao nhiêu cái đầu chớ.
- Dạ.
Phù thủy đứng giữa mơ hồ đáp. Nguyên có cảm giác hắn cố tình né tránh những câu trả lời cụ thể, nhất là vụ ba con hắc xà bị tiêu tùng, sợ lão Ôkô Na thêm cáu.
Như nhìn xuyên qua đầu học trò, lão Ôkô Na bỗng nói:
- Ta sẽ dạy cho tụi con loại thần chú để đối phó với hai con linh xà ở hồ Ma. Chẳng có gì phức tạp hết. Thậm chí muốn thắng gã tổng quản lâu đài Sêrôpôk cũng không phải là chuyện khó. Nói chung, những gì Bạch kỳ lân không làm được thì tụi con phải làm bằng được.
Trước ánh mắt vui mừng của bọn Hắc tinh tinh, lão Ôkô Na đột ngột tặc lưỡi thay cho dấu chấm hết:
- Bây giờ thì tụi con đi đi. Ta có việc phải làm.
*
Ở trong bụi cây, Nguyên hồi hộp nhìn theo những bước chân của Tam phù thủy Hắc tinh tinh rồi lại quay về phía tảng đá lão Ôkô Na đang ngồi, cảm thấy trái tim như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Suốt cả buổi chiều, Nguyên chờ đợi giây phút này nhưng khi lão Ôkô Na chuẩn bị hóa thành con basilic thì dạ dày nó quặn lại.
Nguyên cuống quít lôi cặp-kiếng-chống-hóa-đá trong túi ra tròng lên mắt, cảm thấy run sợ hơn nó nghĩ. Thậm chí khi lão Ôkô Na bắt đầu lắc lư trên tảng đá, Nguyên xấu hổ bắt gặp mình đang cố thu nhỏ người lại mặc dù nó thừa hiểu lão biết tỏng nó đang nấp trong này.
Trong một thời gian ngắn, Nguyên thấy rõ lão Ôkô Na bắt đầu phình lên và dài ra, chẳng mấy chốc một con rắn lớn thế chỗ của lão che kín cả tảng đá.
Con rắn uốn éo trườn xuống, lừ lừ bò về phía bụi cây. Mặc dù biết con basilic đang đến chỗ cái xác của Kăply để hút nọc độc, Nguyên vẫn dựng tóc gáy khi thấy những khúc mình vàng khè của nó mỗi lúc một quăng đến gần, cứ mỗi lần như thế lại làm phát ra những tiếng lạch bạch như một người đang vỗ tay vào bụng.
Nguyên phải cố hết sức để khỏi ọc ra những gì nó nhét vô bao tử hồi trưa khi ánh mắt nó chạm phải hai cái cánh quái dị trên mình con basilic, cái mào đỏ như máu và dưới đó một chút là cặp mắt hình tam giác đang không ngừng quét tới phía trước những tia sáng trắng như hai chiếc đèn pha.
Con basilic vừa trườn tới chỗ Kăply vừa lúc lắc đầu, ánh mắt nó thỉnh thoảng lại chiếu ngay bụi cây khiến Nguyên khiếp hãi tưởng như cả người đang bị phơi ra trước luồng sáng chói lòa kia. Cuối cùng, Nguyên nhắm nghiền mắt lại, hoàn toàn không tự chủ, răng trên cắn chặt môi dưới để khỏi bất thần bật ra một tiếng rên, tay nắm chặt tay con khỉ Chacha đang co ro bên cạnh.
Nguyên ngồi rúm người trong bụi cây, không trông thấy con basilic đã hút nọc độc cho Kăply như thế nào, chỉ đến khi nghe tiếng quăng mình của con basilic mỗi lúc một xa, nó mới dám he hé mắt nhìn.
Không đợi Nguyên nhắc, con Chacha nhào ra khỏi chỗ nấp, ẵm lấy Kăply lúc này vẫn chưa động đậy, quay mình vọt đi như tên bắn trên con đường dẫn ra khỏi thung. Vắt giò lên cổ, Nguyên hối hả chạy theo, nhìn những cây thông lùn lùi vùn vụt lại sau lưng, nó nhớ ra từ bé tới giờ chưa bao giờ nó chạy nhanh đến thế.
Vừa đến chân ngọn đồi trọc, Nguyên tái mặt nghe những tiếng lộp bộp sau lưng, biết con basilic đã tiêu hóa xong chất độc và đang điên cuồng rượt theo.
Người run bắn, Nguyên lao thục mạng về phía trước, chân dẫm bừa lên cánh đồng hoa, cố bám sát con Chacha đang ôm Kăply phóng như gió trước mặt.
Nguyên chạy và chạy, băng suốt chiều dài cánh đồng, đầu óc gần như mụ đi. Tiếng thở phì phì của con basilic càng lúc càng lớn ở sau lưng khiến chân Nguyên đôi lúc như quíu lại, đã mấy lần nó vấp té nhưng gượng dậy được và cắm cổ chạy tiếp, lòng dậy lên ao ước cháy bỏng là được mọc thêm đôi cánh ở dưới chân như mấy con ngựa của Yan Dran.
Từ trong thâm tâm, Nguyên cũng trông chờ sự xuất hiện của thầy Akô Nô, mặc dù nó thừa biết đó là hy vọng hết sức mong manh.
Cho đến khi Nguyên trượt chân té thêm một lần nữa, không biết là lần thứ mấy, người lăn lông lốc, cặp kiếng của Suku văng đi đâu mất trong khi tiếng khè khè gấp gáp của con basilic đã gần như ở ngay sau gáy thì thiệt tình mà nói, Nguyên đã nghĩ rằng nó không còn sống nữa.
Đúng vào lúc Nguyên không còn nuôi nấng một tia hy vọng nào, thậm chí còn đang nghĩ nên tròng bộ mặt nào để đón nhận cái chết thì nó thấy tay nó bị ai đó nắm chặt và người nó thình lình bị nhấc bổng lên.
Thầy Akô Nô? Nguyên reo lên trong đầu và ngước mắt nhìn lên, cảm động muốn khóc khi thấy kẻ đang lôi nó bay trong không là con Chacha. Bây giờ Nguyên mới biết là nó đã té ngay ở nơi bắt đầu cánh đồng hoa và trước mặt nó lúc này là hai con phi mã đang bồn chồn dậm chân thình thịch trên mặt cỏ ra chiều thúc giục.
Trên lưng một con phi mã, Kăply đang nằm vắt ngang. Bằng một sức mạnh phi thường so với thân hình nhỏ thó của nó, Chacha liệng Nguyên lên lưng con ngựa thứ hai rồi nó tự mình nhảy lên ngồi đằng sau Kăply.
Hai con ngựa lập tức cất mình bay lên không, vừa kịp thoát cú mổ đầy giận dữ của con basilic trong tầm một phân không hơn không kém.
Đêm đó, Nguyên bám lấy cổ ngựa, đánh một giấc mê man, không mộng mị. Thoạt đầu, nó không muốn chợp mắt, với niềm tin nếu hai con phi mã cao hứng bay vòng quanh núi Lưng Chừng như kiểu phi thuyền bay quanh mặt trăng, nó sẽ được tận mắt nhìn thấy một hòn núi nằm lơ lửng giữa trời là như thế nào. Nhưng hoặc là nó quá mệt mỏi sau những gì vừa trải qua, hoặc là có một sức mạnh huyền bí nào đó kéo sụp mí mắt nó, Nguyên đi vào giấc ngủ một cách nhanh chóng, hoàn toàn ra ngoài sự nhận thức của nó nhưng phải nói là hết sức thỏa thuê.
Khi Nguyên bị những tia nắng sớm bò trên mặt đánh thức, nó mở mắt ra và sợ đến líu lưỡi khi thấy có người đang nhìn mình mỉm cười.
Thấy nó định nhảy bắn lên, người đó chận tay lên vai nó, cười hì hì:
- Mày làm gì vậy? Tao đây mà.
Phải một lúc Nguyên mới thôi sửng sốt và khi đã hoàn hồn thì đột ngột nó làm một cái chuyện mà không bao giờ nó nghĩ có ngày nó sẽ làm là òa ra khóc. Nó khóc nức nở, khóc ngon lành, vừa khóc vừa rưng rức nói:
- Tiên sư mày, Kăply!
Kăply ôm choàng lấy bạn và đến phiên nó rưng rưng:
Kể tao nghe đi. Tụi mình đang ở đâu? Và tại sao mà tụi mình ở đây?
- Mày... mày... - Nguyên hinh hích - lẽ ra thì mày đã chết rồi... thằng cà chớn...
Kăply đã định trêu bạn, vì thiệt sự thì nó thấy thằng Nguyên bữa nay lạ quá. Đối với Kăply, thằng bạn đại ca của nó mà chịu xì ra nước mắt trông còn hoang đường hơn là con nhỏ trùm sò Păng Ting chịu xì tiền. Nhưng nghe Nguyên nói vậy, mặt Kăply đuỗn ra:
- Mày nói sao? Tao đã chết rồi ư?
Nguyên lấy tay áo quẹt nước mắt lẫn nước mũi, trông nó dơ dáy y như thằng K’Tub nhưng vì đang nóng lòng nghe nó trả lời, Kăply cố dìm câu chế nhạo bằng một tiếng khịt mũi ầm ĩ.
- Mày còn nhớ lúc tụi mình ở thung lũng Plei Mo không? - Nguyên nhìn bạn bằng cặp mắt đỏ hoe, sụt sịt hỏi.
- À, à, nhớ. - Kăply gãi đầu - Nhớ chứ. Lúc đó tụi mình nhìn thấy mấy pho tượng bằng đá.
- Rồi con basilic xuất hiện... - Nguyên nhắc.
- Ờ, đúng rồi, con basilic thình lình hiện ra từ phía sau và rượt theo tụi mình. - Kăply vỗ đùi một cái “bốp”, la lên - A, tao nhớ rồi, nó đã mổ tao một phát đau điếng ngay đùi.
Kăply vén vạt áo lên, ngoái cổ quan sát xem vết cắn nằm ở đâu.
- Đây nè. - Nó xoa xoa tay lên vết thương vẫn còn bầm tím, nhe răng cười - May mà nọc con basilic không độc...
Nguyên nhìn bạn, thở một hơi dài:
- Nghe đây nè, đồ ngốc. Ở xứ Lang Biang có ba thứ tuyệt độc. Đó là nhựa độc của quả hiến sinh, chất độc trong móng rồng Ouroboros và nọc độc của con basilic. Đó là những loại độc không có thuốc giải. Những ai bị con basilic mổ trúng, chỉ có thể kéo dài mạng sống tối đa là một ngày...
- Cái gì? - Kăply lắp bắp, mặt xám ngoét - Hổng lẽ tao sắp chết rồi ư?
- Sắp chết cái con khỉ. - Nguyên mỉm cười - Từ lúc mày bị con basilic mổ trúng đến nay đã gần ba ngày rồi...
Trước vẻ ngỡ ngàng của Kăply, Nguyên từ từ thuật lại những gì đã xảy đến với tụi nó trong mấy ngày qua.
Xếp bằng trên cỏ, Kăply nghệt mặt hả họng nghe, vẻ đăm đăm như đang nghe một vở kịch truyền thanh với vô số những cung bậc và cao trào: hấp dẫn, căng thẳng và rất nhiều bi lụy, nhất là sau cái chết của chính nó. Kăply cố không ngắt lời bạn, che giấu sự ngứa ngáy bằng cách nóng nảy bứt những cọng cỏ trong tầm tay và đến khi Nguyên kết thúc câu chuyện thì quanh chỗ Kăply ngồi chỉ còn là mảnh đất trụi.
- Tao không thể hiểu được tại sao trùm Bastu lại tốt với tao như vậy? - Kăply nhăn nhó vò đầu.
- Nghe tao nói đây, Kăply. - Nguyên nghiêm mặt - Về nguyên tắc, trùm Hắc Ám không bao giờ đối xử tốt với các thành viên của lâu đài K’Rahlan, đặc biệt khi người đó được chọn làm chiến binh giữ đền. Bastu hành động tuy khó hiểu nhưng tất cả đều phục vụ cho những âm mưu thầm kín của hắn thôi.
- Thế mẹ của K’Brêt còn sống à? - Kăply chợt nhớ đến câu chuyện kỳ quái ở hồ Ma.
- Mày cũng biết rồi đó, chim đầu người là một dạng sống dở chết dở. Nếu tụi mình đem về được những quả táo vàng thì lúc đó mới có thể nói tới chuyện bà Ka Lên còn sống hay không.
Kăply quay đầu nhìn quanh:
- Thế đây là núi Lưng Chừng sao? Sao tao hổng thấy một cây táo nào hết vậy?
Nguyên đặt tay lên vai Kăply:
- Ngay bây giờ, tao và mày sẽ đi lòng vòng thăm dò. Dẫu sao, mày sống lại mới là điều quan trọng nhất đối với tao. Còn những quả táo vàng, tao nghĩ sớm muộn gì tụi mình cũng sẽ tìm thấy. Chỉ có điều đáng lo là làm sao vượt qua được sự canh giữ của con rồng Ouroboros, và nhất là đừng chạm trán với lão Ôkô Na thổ tả kia.
Kăply vụt hỏi:
- Mày có nghĩ lão Ôkô Na chính là chủ nhân núi Lưng Chừng không?
- Tao cũng từng nghĩ về điều này. - Nguyên nhún vai - Nhưng có lẽ là không phải. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, có bổn phận trấn áp các thế lực hắc ám. Trong khi đó, lão Ôkô Na không những cho bọn Hắc tinh tinh đi giúp trùm Bastu mà bản thân lão có thể hóa thành con basilic, một khả năng chỉ có ở các phù thủy hắc ám.
- Hay là thầy Akô Nô? - Kăply cắn môi và trừng trừng nhìn Nguyên, có vẻ sẵn sàng lăn ra xỉu nếu thằng bạn đại ca của nó gật đầu. - Cũng không phải nốt. - Nguyên thò tay dứt một sợi tóc, lắc đầu nói - Nếu thầy Akô Nô là chủ nhân núi Lưng Chừng thì với trách nhiệm và trình độ pháp thuật cao tột bậc của thầy không đời nào thầy lại để cho lão Ôkô Na tự tung tự tác như vậy. Có thể thấy thầy cực kỳ căm ghét và ghê tởm lão này nhưng rõ ràng thầy không làm gì được lão. Mày nhớ coi, trong lịch sử xứ Lang Biang, ngoài Tam tiên ra, làm gì có nhân vật nào được coi là ngang ngửa với chủ nhân núi Lưng Chừng. Hoàn toàn không có, đúng không?
- Ờ, đúng... đúng...
Kăply ấp úng đáp, thấy trong những trường hợp cần suy luận rắc rối như thế này, nghĩ ngợi bằng cái đầu của thằng bạn mình vẫn là tốt nhất. Nhưng rồi một thắc mắc chợt chớp lên trong đầu nó:
- Thế chủ nhân núi Lưng Chừng đâu?
- Tại sao bọn ngươi không nghĩ ngài đang đi chơi đâu đó và hiện nay không có mặt ở hòn núi này?
Tiếng thầy Akô Nô vang lên bên trái cánh đồng khiến Nguyên và Kăply quay phắt về phía phát ra tiếng nói, mừng rỡ:
- Chào thầy ạ.
Thầy Akô Nô nhìn Nguyên, cười khì khì:
- Tối hôm qua, ta rất tiếc không làm gì để giúp ngươi được mặc dù biết là ngươi bị con basilic làm cho sợ vãi mật.
Nguyên chớp mắt:
- May mà tụi con đã được hai con phi mã cứu đi, thưa thầy.
- Tốt! Tốt lắm! - Thầy Akô Nô đưa mắt nhìn Kăply, câu nói vừa rồi chính xác là dành cho nó, rồi như thấy chưa đã, thầy lại gục gặc đầu - Tốt! Tốt lắm! Rất tốt!
Kăply cúi đầu, giọng xúc động:
- Con không biết phải nói sao để cảm ơn thầy...
- Cảm ơn cái con khỉ! - Thầy Akô Nô sầm mặt - Nếu ngươi không phải là chiến binh giữ đền đời thứ ba, ta cứu ngươi làm cái cóc gì chớ. Hừm, giả dụ ngươi chỉ là một thằng nhóc bình thường thì ta để ngươi chết ngắc từ lâu rồi, hổng việc gì phải quỵ luỵ lão Ôkô Na cho nhục.
Rõ ràng cứ nhắc đến lão Ôkô Na là thầy nổi xung. Thầy giãy đùng đùng trên hai chân, nói như tát nước vào mặt khiến không chỉ Kăply mà cả Nguyên cũng phát hoảng đến đờ mặt ra.
- Thôi, bỏ qua đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay, làm như lão Ôkô Na là một con ruồi đang vo ve đâu đó và thầy đang ra sức đuổi lão đi - Bây giờ chuyện cần kíp là bọn ngươi phải đi hái mấy quả táo vàng rồi chuồn lẹ khỏi núi Lưng Chừng trước khi chủ nhân hòn núi này kịp tóm cổ bọn ngươi.
Nguyên như người ngủ mê choàng tỉnh:
- Những cây táo đó ở đâu hả thầy? Từ hôm qua đến giờ con hổng thấy chúng đâu hết.
- Bọn ngươi đi theo ta.
Thầy Akô Nô nói và băng băng xông vào giữa cánh đồng hoa.
Chương 22: RỒNG OUROBOROS
Cuối cánh đồng là những ngọn đồi trọc, nơi Nguyên đã đến rồi. Nhưng thầy Akô Nô không rẽ theo con đường có những cây thông lùn dẫn đến thung lũng hôm qua.
Thầy băng băng quẹo phải, nơi không hề có lối đi. Trong khi Nguyên tò mò chưa biết thầy làm cách nào để vượt qua những bụi rậm toàn loại cây cao ngang ngực với những chiếc lá cứng, dài và nhọn như mũi giáo thì nó bỗng trợn tròn mắt lên: Thầy Akô Nô đi tới đâu, những bụi rậm tự động tách ra tới đó, rất giống với cái cách nhường đường của dãy hàng rào ở công viên Các Thứ Kẹo mà nó và Kăply từng chứng kiến.
Nguyên, Kăply và con Chacha lẽo đẽo bám theo, đến khi những tia nắng mặt trời gần như xuyên thẳng xuống từ trên đỉnh đầu, mọi người đã vòng ra phía sau ngọn đồi. Nguyên ngạc nhiên thấy một vườn cây xanh um đập vào mắt, chưa kịp hỏi, thầy Akô Nô đã quay lại, nói nhỏ:
- Đây là vườn táo.
Vẻ bình tĩnh tuột khỏi gương mặt Nguyên và Kăply. Hai đứa kiễng chân, căng mắt cố nhìn xem những quả táo vàng nằm ở đâu trên cây nhưng khoảng cách quá xa, tụi nó chẳng nhìn thấy gì.
- Bọn ngươi có thấy bờ đê bao quanh khu vườn không? – Thầy Akô Nô bỗng hỏi.
- Dạ thấy.
- Bọn ngươi có biết đó là cái gì không?
- Dạ không. – Kăply nín thở – Đó là cái gì hả thầy?
- Rồng Ouroboros đó.
Như bị nhét một đống cá pha lê vô họng, Nguyên và Kăply đột nhiên ú ớ:
- Rồng… Ouro… ro… bo… ros…?
Hai đứa mặt mày xanh lè, kích thước và chiều dài khủng khiếp của con rồng khiến tụi nó thấy tay chân tự nhiên lạnh ngắt như rơi vào một hố băng.
- Một ngàn năm trăm năm trước, con quái này từng canh giữ bộ Lông Cừu Vàng ở xứ Mũi Lõ. – Thầy Akô Nô nghiêm trang giải thích – Nó có hai đầu, khi đầu này ngủ thì đầu kia thức, do đó không ai đột kích hoặc đánh lừa nó được. Chất độc trong móng chân nó lại cực kỳ lợi hại, ai để nó chộp trúng coi như chết chắc.
- Thế làm sao tụi con… tụi con…
Kăply lắp bắp hỏi, vừa nói nó vừa sè sẹ lùi ra phía sau.
- Ngươi yên tâm, nó chưa phát giác ra chúng ta đâu. – Thầy Akô Nô nhìn Kăply qua khóe mắt, vẻ chế nhạo – Rồng Ouroboros đến nay đã già khọm rồi. Trong vòng hai trăm năm trở lại đây, thị lực và thính lực của nó đã không còn bén nhạy nữa. Hiện nay nó chỉ phát hiện được vật lạ trong vòng bán kính năm mươi mét thôi.
Nguyên lo lắng:
- Thầy ơi, ngay cả như vậy tụi con cũng hầu như không có cơ hội nào.
- Ngươi câm mồm lại đi, đồ thỏ đế! Thế mà cũng gọi là chiến binh giữ đền! – Thầy Akô Nô thình lình nổi quạu – Ta đã nói hết đâu! Nghe cho kỹ nè! Rồng Ouroboros thực ra cũng có nhược điểm. Đây là một trong những bí mật lớn nhất của xứ Lang Biang.
Nguyên và Kăply hồi hộp dán mắt vào mặt thầy Akô Nô, dường như không cả thở. Thậm chí tụi nó tập trung đến mức không biết cả hai đều đưa tay vò đôi tai đến đỏ tấy như muốn sàng lọc lại bộ nghe nhằm chộp bắt vận may mà thầy Akô Nô sắp cung cấp cho tụi nó, dù có thể cái vận may đó nhỏ xíu, không đủ cho một muỗng cà phê.
- Ouroboros là một con rồng bị dị tật bẩm sinh. – Thầy Akô Nô chậm rãi – Nó chỉ thuận bên trái. Nửa mình bên phải của nó không linh hoạt bằng.
- Con hiểu rồi, thưa thầy. – Nguyên nói, mặt rạng dần ra – Có phải thầy muốn tụi con xông vào vườn táo lúc cái đầu bên trái của con rồng Ouroboros đã ngủ?
Thầy Akô Nô toét miệng cười:
- Hì hì, ta nghĩ là ta muốn nói vậy đó. Khi bị con quái rượt, bọn ngươi lập tức chạy về bên phải. Và nhớ chạy vòng tròn. Vòng tròn càng nhỏ càng tốt.
- Chi vậy thầy? – Kăply thắc mắc.
- Đừng hỏi nhiều. – Thầy Akô Nô khoát tay – Nếu bọn ngươi làm đúng theo lời ta, đến một lúc con quái sẽ bất động. Nhưng nó chỉ bất động trong một thời gian ngắn thôi, do đó vừa thấy con quái đứng im, bọn ngươi phải nhanh chóng thoát thân liền.
- Thế còn những quả táo vàng, thưa thầy? – Nguyên chưng hửng – Tụi con còn phải hái táo nữa chớ!
Thầy Akô Nô bĩu môi:
- Có khoảng hai chục đứa cỡ bọn ngươi cũng đừng hòng rớ vào những quả táo đó được.
Trước ánh mắt dò hỏi của Nguyên và Kăply, thầy chỉ tay vào những tán lá trước mặt, thủng thỉnh nói:
- Dĩ nhiên là những quả táo vàng đang ở trên cây. Nhưng chúng dính rất chặt vào cuống lá, chặt đến mức không một ai, cũng không một loại thần chú nào trên thế gian này có thể bứt chúng ra khỏi cây được.
- Sao kỳ vậy thầy? – Kăply lại láu táu hỏi.
Thầy Akô Nô đưa tay xoa xoa chỏm tóc loe hoe, tặc tặc lưỡi:
- Bọn ngươi không biết đó thôi. Cây táo vàng ở núi Lưng Chừng còn gọi là cây Đời. Số lá cây trong khu vườn này bằng với số người sống ở xứ Lang Biang. Trên mỗi chiếc lá đều có ghi tên một người. Ai chết đi thì dĩ nhiên chiếc lá có ghi tên người đó sẽ rụng xuống. Ai sắp chết thì chiếc lá của họ sẽ khô gần hết, chỉ còn một góc nhỏ còn xanh. Thời gian còn được sống càng ngắn thì phần xanh càng nhỏ.
Nguyên và Kăply há hốc miệng ra nghe, sững sờ và khiếp hãi.
- So với những vận mạng mà vườn táo này nắm giữ, khu rừng tiên tri trên mặt đất chỉ là trò trẻ con. – Thầy Akô Nô vung tay, hào hứng tiếp – Mỗi cây táo vàng chỉ sinh một quả, được gọi là quả của tri thức, ma thuật và sức mạnh, hạt táo có hình ngôi sao năm cánh, bỏ hạt táo trong túi áo có thể bảo vệ được mạng sống trước mọi hiểm họa.
Lòng Nguyên chùng xuống theo từng câu nói của thầy Akô Nô. Sự thật về vườn táo ở núi Lưng Chừng có lẽ là một bí mật rất ít người biết và dĩ nhiên không ghi trong sách, bằng chứng là nhà thông thái Suku cũng chẳng biết mô tê gì về những điều thầy Akô Nô vừa kể. Và những điều đó khiến Nguyên gần như bị sốc. Nó nhìn thầy Akô Nô, nặng nề hỏi:
- Thế tụi con không có cách gì hái được những quả táo kia hả thầy?
Thầy Akô Nô chưa kịp đáp, Kăply đã ré lên bằng thứ giọng phải nói là xẳng hết sức:
- Thầy nói sao ấy chứ. Nếu những quả táo vàng không thể rời khỏi cây thế sao trước đây Đại tiên ông Mackeno đem về được một quả?
- Hỏi hay lắm! – Thầy Akô Nô nheo mắt nhìn Kăply – Nhưng ta nhớ ta đâu có nói là không hái được những quả táo đó. Ta chỉ nói là không người nào có khả năng bứt chúng ra khỏi cây thôi. Không một người nào, ngươi hiểu chưa?
- Chưa hiểu! – Khuôn mặt Kăply vẫn khuất sau chiếc mặt nạ quạu quọ, nó nói như gây gổ – Thầy nói vậy hổng lẽ Đại tiên ông Mackeno không phải là người?
- Ngươi cóc biết gì mà cũng làm om sòm. – Kăply quạu khiến thầy Akô Nô đâm quạu theo – Lão Mackeno đâu có tự tay hái quả táo đó.
- Vậy là ai hả thầy? – Nguyên vội vã cất tiếng, vừa tò mò vừa muốn dập tắt bầu không khí căng thẳng Kăply vừa khuấy lên.
- Đó chính là bầy khỉ Manibum, còn được biết dưới biệt danh những kẻ cướp vui tính. Mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, bao giờ bọn khỉ này cũng kéo đến vườn táo đùa giỡn và hái quả trên cây chơi trò ném nhau. Theo truyền thuyết, bọn khỉ Manibum từng có ơn với phúc thần Kalăm và được ngài ban cho một quyền năng đặc biệt. Đó là trở thành sinh vật duy nhất có thể bứt rời những quả táo vàng ra khỏi cây Đời.
Kăply nhăn nhó:
- Ngày nào bọn chúng cũng kéo tới quậy tưng như vậy, chắc vườn táo trụi lủi từ đời tám hoánh rồi…
Thầy Akô Nô nhếch môi:
- Nếu nói như ngươi thì cây Đời là loại cây tầm thường sao? Ngươi phải biết, cứ mỗi quả táo rụng xuống đất thì ngay ở chỗ cuống cũ một quả táo khác lại mọc ra.
Thầy cười hì hì:
- Trước đây, lão Mackeno lợi dụng lúc nhá nhem hóa thành một con khỉ lẳng lặng chui vào vườn táo, rình bắt được một quả…
Nguyên reo lên:
- Ra là thầy muốn tụi con cầm chân con rồng Ouroboros để con Chacha có thì giờ trà trộn vào bọn khỉ Manibum?
- Chính xác là ta đang nghĩ như vậy đó. – Thầy Akô Nô gật gù, vẻ hài lòng. Chợt thầy trở nên nghiêm trọng, gương mặt trẻ con nhăn lại như làm nũng nhưng nội dung lời dặn dò của thầy khiến Nguyên và Kăply không cảm thấy buồn cười chút nào – Trước khi bọn ngươi bắt đầu, ta lưu ý một điều tối quan trọng. Đó là bọn ngươi phải kết thúc mọi chuyện trước khi trời sập tối rồi chạy lẹ tới chỗ hai con phi mã, quay về ngay. Nếu bọn ngươi để lão Ôkô Na bắt gặp, mọi chuyện coi như hỏng bét bè be.
Kăply ngó quanh:
- Lão ta hiện đang ở đâu hả thầy?
- Lão là loại người sống về đêm. – Thầy Akô Nô chép miệng – Cho đến chừng nào trời chưa tối hẳn, lão không đáng sợ với bọn ngươi đâu.
Thầy Akô Nô tự nhiên biến mất trong khi hai đứa trẻ còn bao nhiêu điều chưa kịp hỏi, y như thình lình độn thổ giữa chừng câu chuyện để làm người đối thoại cụt hứng là thói quen ưa thích của ông thầy trẻ con này.
* * *
Nguyên và Kăply cùng con Chacha giấu mình trong bụi rậm dưới chân đồi, thấp thỏm chong mắt nhìn về phía khu vườn táo. Ở trên cao, mặt trời uể oải nhích xuống từng nấc một như chẳng có việc gì đáng làm hơn là chọc cho bọn trẻ sốt ruột chơi.
- Tao chẳng hiểu tại sao chạy vòng tròn lại làm cho con rồng Ouroboros bất động? – Kăply hắng giọng, tin rằng tán gẫu là cách tốt nhất để đốt cháy thời gian.
- Tao cũng hổng biết. – Nguyên đăm chiêu, không quên dứt một lúc hai, ba sợi tóc – Nhưng tao nghĩ khi nói như vậy, thầy Akô Nô đã tính toán hết rồi.
Kăply lại băn khoăn:
- Nếu không thuận bên phải, con quái đó có thể không chộp được tụi mình, nhưng nếu nó nổi hứng phun lửa ra thì sao? Chắc tao và mày thành tro quá hà.
- Thầy Akô Nô không nói gì về chuyện này có nghĩa là con rồng Ouroboros sẽ không phun lửa.
- Hổng có con rồng nào là không phun lửa. – Kăply phản đối – Nhất là với một con rồng có nhiệm vụ canh giữ khu vườn đặc biệt này. Rồng mà không phun lửa chẳng khác nào chó mà không biết sủa.
Nguyên so vai, giọng không tự tin lắm, giống như nó đang thử cắt nghĩa xem tại sao con Ouroboros không xài tới lửa:
- Có thể chính vì vai trò quan trọng của những cây Đời mà rồng Ouroboros không dám phun lửa. Nó sợ sức nóng ảnh hưởng đến đời sống của vườn cây.
Nguyên nói thêm bằng giọng cao hơn:
- Hơn nữa, nó cần quái gì dùng tới lửa khi mà những móng chân cực độc của nó đã là thứ vũ khí hết sức ghê gớm rồi.
Kăply không hỏi nữa, nó thấy sự phân tích của Nguyên không thuyết phục lắm nhưng quả thực thì nó cũng không thấy cách giải thích nào khá hơn.
Kăply ngồi im, lắng nghe gió đi trong bụi cây, mắt nhìn đau đáu vào chỗ con rồng Ouroboros đang nằm bao quanh khu vườn táo, thử hình dung lát nữa con quái vùng dậy và rượt đuổi tụi nó như thế nào. Kăply càng tưởng tượng bụng càng thót lại, bất giác nó nhìn đăm đăm xuống hai cẳng chân mình, như thể nuôi dưỡng một hy vọng mơ hồ về một cặp cánh sẽ bất thần mọc ra ở chỗ nào đó cạnh đầu gối hay nhích xuống một chút về phía dưới, gần gót chân.
“Mọc ra!”, có lúc Kăply bắt gặp mình đang lẩm bẩm như thể đọc thần chú, và dĩ nhiên vì nó chưa học qua một câu thần chú nào như vậy nên chẳng có gì mọc ra ở dưới chân nó hết, và nó lại buồn phiền đưa mắt ngắm nghía bóng những chiếc lá nhọn in xuống đất thoạt dài thoạt ngắn do nhánh cây sau lưng nó đong đưa trong ánh nắng chiều.
- Gần đến giờ rồi!
Kăply giật bắn khi nghe tiếng Nguyên vang lên bên tai. Nó bừng tỉnh và lật đật quét mắt về phía khu vườn táo, phát hiện nhiều bóng đen đang nhảy nhót trên các cành cây và nếu nó không nhìn thấy thì những tiếng khọt khẹt văng vẳng trong gió cũng đủ cho nó biết bọn khỉ Manibum đã xuất hiện.
- Tụi mình phải làm gì đây? – Kăply hỏi, cố giữ giọng đừng run.
Nguyên đứng dậy, nói như ra lệnh:
- Phải đến gần con rồng Ouroboros hơn nữa. Con quái đó mà chưa ngóc đầu lên thì tụi mình hổng biết hiện nay cái đầu nào của nó đang thức.
Kăply gần như bị Nguyên lôi về phía trước, mặc dù nếu thằng bạn đại ca buông tay nó ra thì chắc chắn nó sẽ không bỏ chạy. Nó vẫn đi, chắc thế, nhưng có lẽ là đi từng bước rất ngắn, như kiểu di chuyển của người bị trói chặt hai chân.
Đầu rồng Ouroboros nằm ở mé phải khu vườn, Nguyên và Kăply chỉ nhận ra điều đó khi con quái bất thần ngóc đầu lên. Mặc dù nhận ra cái đầu bên trái đã ngủ, sự mừng rỡ đó vẫn không giúp hai đứa trẻ bớt run khi nhìn thấy vẻ dữ tợn của cái đầu còn lại.
Đó là một cái đầu lân với bờm sư tử. Cặp sừng ngắn, nhọn, cái trán dồ, đến đôi mắt tròn quay, to như lục lạc, cái mũi bự chảng, tiếp theo là cái miệng đang há rộng, đỏ lòm viền quanh bởi chòm râu vàng, dài thậm thượt, toàn bộ ngó giống như cái đầu của một quái nhân nghiện rượu, trông càng đáng sợ hơn với một cái đầu khác đang ngáy khò khò ở bên cạnh.
Con Ouroboros đứng vươn mình trên hai chân trước, kéo lên cả một khúc mình dài ở phía sau với những chiếc vảy trắng lóa như dát bạc và hai đứa trẻ điếng hồn thấy cả khu vực chung quanh kêu ầm ầm khi nó đứng dậy.
Con rồng quay đầu về phía Nguyên và Kăply, khịt khịt mũi, hơi thở của nó nóng đến mức hai đứa phải liếc mắt xem vạt áo trước ngực mình đã cháy thành tro hay chưa.
Kăply cảm thấy sự sợ hãi của mình phản chiếu trong ánh mắt của con rồng Ouroboros và điều đó càng làm nó hãi sợ hơn, đến mức gần như không đứng vững nổi. Nó thêm run vì nghĩ rằng con quái dường như cũng đọc được tâm trạng của nó.
- Nhớ chạy về bên trái…
Kăply nghe tiếng Nguyên thì thào bên tai. Nó chưa kịp hiểu ra tại sao thầy Akô Nô dặn tụi nó chạy về bên phải mà Nguyên lại kêu nó chạy qua bên trái thì con Ouroboros đã bắt đầu tấn công.
Khúc mình dài ngoằng và to lớn của con Ouroboros không hề là gánh nặng đối với nó. Nó chỉ quăng mình một cái là cái đầu dữ tợn đã ở cách bọn trẻ chừng hơn mười mét.
Hoàn toàn không nhận thức được mình đang làm gì, Kăply quýnh quáng lao người về phía tay phải và ngay lập tức nó bị Nguyên tóm tay kéo lại.
- Đồ ngu! Bên phải của nó tức là bên trái của mình!
Nguyên gầm gừ và lôi Kăply phóng ngược lại, vừa kịp thoát một cú chụp của con quái, mạnh đến mức đất cỏ bay tứ tung.
Kăply lúc này không biết hồn vía của mình ở đâu. Sự khiếp đảm khiến nó đáng lẽ phải nhanh nhẹn hơn bao giờ hết, lại đột nhiên trở nên mụ mị và chậm chạp như một con gấu vừa thức dậy sau kỳ ngủ đông. Nó máy móc chạy theo Nguyên, như bị cột chặt vào thằng này bằng dây cáp, chuyển động hoàn toàn theo quán tính.
Nguyên kéo Kăply chạy loanh quanh, khổ tâm vì không làm sao thu nhỏ vòng tròn lại trong một thời gian ngắn.
Ở phía sau, con rồng Ouroboros tiếp tục tung ra những cú chụp mãnh liệt bằng chân trước, suýt vồ trúng bọn trẻ mấy lần, trong chốc lát đã cày nát cả một vùng rộng, và khúc mình của nó theo đà rượt đuổi mỗi lúc một dài ra, đến khi Nguyên và Kăply bắt đầu chạy qua vòng thứ hai thì toàn bộ thân mình của con quái đã hiện ra hoàn toàn.
Nguyên và Kăply chạy bán sống bán chết, không dám nhìn thẳng vào con rồng khổng lồ, cũng không đủ thì giờ để quan sát xem con Chacha đã lẩn vào khu vườn táo hay chưa.
Nguyên vừa chạy, vừa né trái né phải, tay vẫn không dám buông Kăply ra. Mồ hôi dầm dề, chảy vô mắt cay xè nó cũng không dám lấy tay lau. Nếu con rồng Ouroboros thuận bên phải, có lẽ mình và Kăply đã bị chụp trúng cả chục lần rồi, Nguyên phập phồng nghĩ và cố thu vòng tròn nhỏ lại, mặc dù cho đến lúc này nó vẫn không hiểu tại sao thầy Akô Nô dặn dò như thế. Vòng tròn càng nhỏ có nghĩa tụi nó càng lúc càng bị con quái vây chặt, đến lúc đó chẳng cần vồ trúng, chỉ cần cuộn tụi nó vào giữa những khúc mình, ép mạnh một cái, con Ouroboros sẽ nghiến tụi nó thành bột một cách dễ dàng.
Đang hoang mang trước viễn ảnh u ám đó, Nguyên bỗng nghe vang lên một tiếng “sực”, cảm thấy bầu không khí chung quanh đột ngột lặng đi, những tiếng động điếc tai do những cú chụp và những cú quất đuôi của con rồng Ouroboros cũng tự nhiên im bặt, giống như một cuộn phim thình lình bị mất tiếng.
Nó đánh mắt ra bốn phía, mừng rỡ thấy con rồng Ouroboros đã đứng sững từ hồi nào, móng chân phải đang cắm phập vào khúc đuôi, từ chỗ đó máu đang tuôn ra từng giọt.
- Hay quá! Chạy mau!
Nguyên reo lên, và hấp tấp kéo Kăply len qua những khoảng trống chật hẹp giữa những khoanh mình đồ sộ của con Ouroboros, chạy ra ngoài.
Đến khi cả hai chạy được một đỗi xa, đôi môi Kăply mới bắt đầu tìm lại được cảm giác:
- Chuyện gì thế mày?
- Con quái đã chụp trúng chính nó. – Nguyên hổn hển giải thích – Theo như những gì thầy Akô Nô nói thì có lẽ nọc độc của nó đã làm cho nó bị tê liệt trong một lúc.
Kăply ngoái đầu ra sau, lo lắng:
- Thế con Chacha đâu?
- Yên tâm đi! Con khỉ đó còn thông minh, tinh quái gấp mấy lần mình.
Nguyên vừa đáp vừa đánh liều lao vào giữa những bụi cây lá nhọn dưới chân đồi, sung sướng khi thấy chúng tách ra hai bên chừa lối cho tụi nó.
Kăply khâm phục:
- Mày học thần chú này từ hồi nào thế?
- Tao có biết cóc gì đâu. Chắc là thầy Akô Nô đã phù phép sẵn rồi.
Đang nói, Nguyên chợt nghiêm giọng:
- Đừng hỏi nữa. Chạy lẹ đi. Trời bắt đầu tối rồi.
Kăply rùng mình một cái rồi nín thinh, lầm lũi chạy. Nó biết Nguyên đang nghĩ đến lão Ôkô Na. Kăply chưa nhìn thấy lão Ôkô Na bao giờ nhưng qua những gì Nguyên kể, nó vẫn có thể hình dung được lão phù thủy đó nham hiểm và độc ác như thế nào. Tối hôm qua, nếu Nguyên không kịp chạy đến chỗ hai con ngựa bay của họa sĩ Yan Dran, bây giờ chắc chiếc lá bổn mạng của thằng K’Brăk trong khu vườn táo đã rụng mất rồi. Chiếc lá ghi tên K’Brăk nhưng người chết lại là Nguyên!
Ý nghĩ đó như một cây gai nhọn ghim vào ngực Kăply, làm ruột gan nó muốn tan ra và nó mím chặt môi, cố rảo bước nhanh hơn.
* * *
Khi Nguyên và Kăply băng hết cánh đồng hoa, trời đã tối mịt, bóng đêm loang ra rất nhanh như có một con bạch tuộc khổng lồ đang nấp đằng sau những đám mây không ngừng phun mực xuống. Dưới ánh sao mờ, tụi nó thở phào thấy con khỉ Chacha đang ngồi thù lù một đống trên lưng con phi mã.
Không kịp hỏi đến những quả táo vàng, hai đứa vội vàng trèo lên con ngựa thứ hai, lần này thì Nguyên và Kăply ngồi chung với nhau.
Ngay lập tức, hai con phi mã hí lên một tràng dài và cất bổng bốn vó. Nguyên ngoái đầu nhìn xuống, không thấy con rồng Ouroboros đâu, ngay cả thầy Akô Nô và lão Ôkô Na cũng không thấy xuất hiện. Thế còn Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh, bọn họ đang ở đâu há?
Như hôm trước, Nguyên sợ hãi phát hiện con phi mã đang bắt đầu phóng giật cục. Giống như bị một con đê chắn ngang đầu, Nguyên không còn nghĩ ngợi gì được nữa, hai tay bám chặt lấy bờm ngựa trong khi ở phía sau Kăply đang xanh mặt ôm cứng lấy hông nó. Và đến lúc con phi mã chuyển qua kiểu xoay vòng tròn thì cả Nguyên lẫn Kăply đều nhắm tịt mắt.
- Đừng lo. Cứ ôm tao chặt vào!
Nguyên trấn an Kăply bằng giọng lập bập và bị gió đánh bạt đi nên rất khó nghe, nhưng chỉ cần cảm nhận được hơi ấm truyền sang từ tấm lưng rắn chắc của bạn, Kăply vẫn hiểu hết và vòng tay của nó càng siết chặt hơn.
Không biết trải qua bao lâu, tốc độ xoay của con phi mã dần dần chậm lại, như động cơ đến hồi cạn xăng. Kăply hoàn hồn nhận ra nó vẫn chưa rớt khỏi lưng ngựa và nhất là đầu nó vẫn chưa văng khỏi cổ. Nó sung sướng ngúc ngoắc đầu, và nói:
- Ghê quá!
- Lúc đến đây cũng vậy. – Nguyên thở hắt ra – Đến và đi khỏi núi Lưng Chừng đều phải trải qua những thử thách khủng khiếp này. Có lẽ đó là một kiểu mê lộ…
Kăply xuýt xoa:
- Tao không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu tụi mình không ngồi vững trên lưng ngựa…
Nói chưa dứt câu, Kăply bỗng rú lên thất thanh, và Nguyên điếng hồn, trái tim như ngừng đập khi thấy con Chacha không hiểu nhảy nhót như thế nào mà rớt khỏi lưng con ngựa bay phía trước, lao vùn vụt xuống đất như một mảnh thiên thạch.
Trong khi Nguyên và Kăply còn chưa thoát khỏi nỗi bàng hoàng kinh sợ, con phi mã đã phản ứng rất thần tốc: nó gần như để tự mình rơi xuống và vì con ngựa to gấp mấy chục lần con Chacha nên tốc độ rơi của nó ghê gớm hơn rất nhiều.
Nguyên và Kăply ngoái đầu nhìn xuống nhưng trong thoáng mắt đã không thấy Chacha lẫn con ngựa đâu nữa, cả hai đã hoàn toàn chìm lẫn vào mây mù. Lúc này Nguyên và Kăply không có ao ước nào cháy bỏng hơn là hạ thấp xuống để xem con ngựa kia có cứu được Chacha hay không nhưng con phi mã chở tụi nó dường như chẳng thèm quan tâm đến chuyện vừa xảy ra, vẫn thản nhiên bay tà tà về phía trước.
Đến khi nó luồn qua một, hai rồi năm, sáu đám mây và hạ dần độ cao thì Nguyên và Kăply mới thở ra nhẹ nhõm khi thấy con phi mã khi nãy đang bay lững lờ trước mặt và trên lưng nó con Chacha đang nằm bẹp, hai tay níu chặt túm lông bờm, và vì Chacha là một con khỉ tinh nghịch nên bộ dạng chết nhát của nó lúc này trông thiệt là kỳ cục.
Từ trên cao, từng phút một, Nguyên và Kăply trông thấy những ngọn đồi thấp hiện dần ra trong tầm mắt và khi màu tím của hoa sim và những mái nhà tròn như bát úp nổi rõ lên giữa đám lá xanh thì phải nói là hai đứa thấy hồi hộp hết sức.
Êmê, Mua, Păng Ting, Suku, K’Tub, Bolobala, Kan Tô, Tam, Yan Jik và cả lão quản gia Imđi túa hết ra ngoài sân khi hai con phi mã vừa chạm đất.
Trừ lão Imđi và Yan Jik, cả đám lao như bay về phía Nguyên và Kăply và cùng reo lên một tiếng gì đó nghe như tiếng “a” bị kéo dãn:
- Aaaaa… aaaa… aaa… aa… a… a… a… a…
Bây giờ thì bọn trẻ không buồn tò mò xem hai con phi mã chui vào lại trong bức tranh như thế nào nữa, đứa nào đứa nấy tíu tít thi nhau rờ chân nắm tay hai nhà thám hiểm, với lo lắng rằng những kẻ vừa trở về từ hòn núi huyền thoại kia nếu không mất miếng thịt nào thì chắc là phải tróc vài miếng da.
Mua lao vào vòng tay Kăply như một hòn đạn, không còn biết mắc cỡ là gì nữa, khóc lên rưng rức:
- Hu hu… K’Brêt, thế là bạn đã sống lại… hu hu…
Kăply đỏ bừng mặt, nhưng nó cũng biết đẩy Mua ra trong lúc này là một hành động cực kỳ ngu ngốc. Hơn nữa, lòng nó cũng đang mềm nhũn, thậm chí nó đang nghĩ giá như mỗi ngày nó có thể chết đi sống lại vài chục lần thì hay biết mấy.
Kăply trân mình chịu trận, bối rối và sung sướng, cùng một lúc.
K’Tub chắc cũng rất muốn ôm lấy Kăply nhưng đã bị Mua nhanh tay giành mất. Nó vòng ra phía sau, đấm thùm thụp vào lưng ông anh, miệng mếu xệch:
- Anh K’Brêt! Anh K’Brêt!
Kăply ngượng ngùng khi bao nhiêu cặp mắt đang dồn vào nó, cảm giác như nó nếu không dính lọ nồi trên mặt thì cũng mọc thừa ra một cái tai nhưng lạ lùng là nó bắt gặp mình đang muốn trải qua cảm giác đó càng lâu càng tốt.
Ở bên cạnh, như thi đua với Mua, Êmê cũng đang bám cứng lấy Nguyên, chôn sống thằng này trong vòng tay của nó và ngước chiếc mũi hếch lúc này đang xì nước ra tùm lum vào mặt Nguyên, vừa khóc vừa cười:
- Anh đã trở về rồi… hic hic… may quá… hic hic…
Một lát sau, vừa thở vừa giãy giụa và hổn hển đáp những câu hỏi không đầu không đuôi của lũ bạn, Nguyên và Kăply đã thấy tụi nó ở trong căn nhà của họa sĩ Yan Dran mà thiệt tình thì hai đứa cũng không nhớ tụi nó đã di chuyển bằng cách nào để vào tới đây.
- Chúc mừng tụi con thắng lợi trở về. – Họa sĩ Yan Dran ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cười nói khi nhìn thấy bộ mặt đỏ lơ đỏ lưỡng của Nguyên và Kăply. Ông vừa cất tiếng vừa vung cây gươm ngắn như thể giơ tay chào.
- Thắng lợi hả thầy? – Nguyên ngơ ngác, bây giờ nó mới nhớ ra nó chưa kịp kiểm tra xem con Chacha có bắt được quả táo nào không – Thiệt ra tụi con vẫn chưa nhìn thấy những quả táo vàng, thầy ơi.
Tất cả những người có mặt trong nhà lập tức đứng phắt dậy như chiếc ghế dưới mông thình lình phát hỏa.
- Trời đất ơi! Con vừa nói gì, K’Brăk? – Họa sĩ Yan Dran cào tay lên đầu như muốn làm cho mái tóc bù xù của ông giống tổ quạ hơn nữa – Tại sao lại như thế được?
Ông rũ người xuống như một miếng cao su, giọng ỉu xìu, hoàn toàn mất hết hơi sức:
- Những con ngựa bay của ta đưa tụi con tới núi Lưng Chừng là để hái táo chứ đâu phải để đi du lịch hả?
Nguyên bối rối đáp, không được tự tin lắm:
- Không phải thế, thưa thầy. Những quả táo vàng có lẽ… đang nằm trong tay con Chacha.
- Chacha, mày trốn đâu rồi, con ranh? – Suku đánh mắt ra cửa, hét ầm – Có đưa những quả táo ra đây không!
Từ trên mái nhà, một cái đầu thò xuống. Con Chacha kêu khèng khẹc, đưa tay gãi đầu sồn sột rồi vung mạnh một cái, hai quả táo vàng bay vù vào trong nhà, rớt ngay dưới chân Nguyên và Kăply.
- Đây rồi, hay quá!
Nguyên reo lên. Nhưng khi nó cúi xuống định nhặt lấy thì một cánh tay khẳng khiu và nhợt nhạt bất thình lình mọc lên từ dưới nền nhà, nhanh nhẹn quơ lấy hai quả táo rồi lặn nhanh như chớp.
- Baltalon!
Cả đống cái miệng ré lên. Nguyên bất ngờ đến líu cả lưỡi, muốn hét lên nhưng âm thanh không bật ra được, tiếng nói của nó hoàn toàn đã tuột khỏi miệng.
Họa sĩ Yan Dran cũng kinh ngạc đến nhảy dựng. Ông ném cho bọn trẻ một cái nhìn sửng sốt:
- Cái gì thế? Chẳng phải Baltalon đã chết rồi sao?
- Hắn chết rồi, thưa thầy. – Nguyên khó khăn nói, mắt nó tối đi từng giây – Nhưng một cánh tay của hắn vẫn còn sống.
- Là cánh tay vừa rồi hả con? – Lão Imđi há hốc miệng, khuôn mặt ngựa của lão như vừa bị ai kéo dãn.
- Ta hiểu rồi. – Yan Dran thở phì một tiếng – Ta quên là Baltalon đã luyện thành công thần chú Phân thân.
Nguyên sụm người xuống ghế, nhìn bộ dạng của nó tưởng như nó sắp lăn ra xỉu tới nơi:
- Thế này thì làm sao tụi con dám quay về trường Đămri…
Suku lướt mắt qua những khuôn mặt đưa đám của tụi bạn, tỉnh khô nói:
- Đừng lo, anh K’Brăk. Em sẽ lấy lại những quả táo vàng cho tụi anh.
- Em vừa nói gì? – Kăply quay phắt sang thằng oắt, kích động tuôn một tràng – Em sẽ lấy lại giùm tụi anh? Chừng nào hở Suku?
- Ngay bây giờ, anh K’Brêt.
Bất chấp ánh mắt nghi ngờ của mọi người đang xoáy vào mình, Suku đáp chắc nịch, y như đó là chuyện quá sức nhỏ nhặt và ngày nào nó cũng làm vài chục lần.
Nói xong, Suku chúm môi huýt sáo một tiếng, rất giống cái cách anh em thằng Pôcô Pôca gọi hai con linh xà.
Gần như ngay lập tức, cánh tay gớm ghiếc của Baltalon trồi lên ngay chỗ Suku đứng, những ngón quắt queo vẫn đang nắm chặt hai quả táo lúc nãy.
Trước vẻ mặt thuỗn ra của tụi bạn, Suku thản nhiên đón lấy hai quả táo vàng đưa qua cho Nguyên và Kăply, miệng cười hì hì:
- Nhớ cất kỹ à nha.
Nguồn: diendan.game.go.vn