21/1/13

Nghìn lẻ một ngày (C2E-I+C3)

Chương 2 (E): 8, 9

NGÀY THỨ TÁM.
Chẳng hiểu sao em nảy ra ý định dại dột tự mình tìm đến gặp Namahran. Em muốn đến bất chợt, cho anh chàng thảng thốt vì bất ngờ, nghĩ rằng làm như vậy anh ta sẽ thấy tình yêu của em đối với anh lên đến tuyệt đỉnh. Một đêm, em ra khỏi hoàng cung theo những con đường tắt mà em chẳng lạ gì, đến thẳng nhà anh chàng. Tìm ra ngôi nhà ấy chẳng khó khăn lắm, vì em đã để ý mỗi lần đi ngang qua, trên con đường tới nhà tắm và từ nhà tắm trở về. Em đập cửa, một con nữ tì ra hỏi bà là ai và bà cần gì. Em đáp:
- Ta là một thiếu phụ trong thành phố. Ta có việc muốn gặp ông chủ mày.
- Ông ấy đang bận, - nữ tì nói- lúc này ông đang dở tiếp một bà khác, mời bà tối mai trở lại.
Nghe ba tiếng „một bà khác“, em nổi cơn ghen không sao kiềm chế được. Em như điên lên; đáng lẽ quay trở về, em xộc luôn vào nhà. Thấy một gian phòng có ánh sáng và có vẻ đang có tiệc tùng trong ấy, em bước vào, trông thấy anh chàng thương nhân ngồi dùng bữa với một cô gái trẻ khá xinh. Hai người đang chén anh chén em, và cùng song ca những khúc hát trữ tình say đắm. Cảnh tượng ấy làm em không sao nén được cơn giận, em bổ nhào vào cô gái trẻ rồi cứ thế mà đấm liên hồi kỳ trận; có lẽ em đánh con bé đến chết nếu nó không nhanh chân tìm đường thoát thân. Em không chỉ đánh con tình địch, trong lúc đang hăng tiết, em chẳng chừa mà thẳng tay nện luôn anh chàng Namahran.
Thoạt tiên anh chàng quỳ xuống dưới chân em, xin em vui lòng tha thứ, và hết lời thề thốt từ nay sẽ chẳng bao giờ dám lừa dối em. Cơn giận em dịu dần. Em tin vào những lời thề thốt mặn mà cũng như vẻ an năn khuất phục của anh chàng. Anh chàng còn mời em uống rượu với hắn, và hắn khéo chuốc đến nỗi em say mèm. Khi thấy em đã say khướt, tên phản trắc đâm em nhiều nhát dao. Em ngả xuống bất tỉnh nhân sự. Tưởng em đã chết, hắn cho em vào một cái túi vải lớn, rồi tự mình vác lên vai ra khỏi thành phố, đến cái nơi mà anh bắt gặp em lần trước. Trong khi hắn đào huyệt, em hồi tỉnh và rên lên mấy tiếng; hắn đã không đem lòng thương hại thì chớ, còn nhẫn tâm tới mức không kết liễu cho em chết hẳn mà cứ vậy chôn sống, thậm chí anh chàng như có vẻ thích thú khi hành động dã man đến thế.
Còn về Maya,- nàng kể tiếp- người thương nhân anh từng mang thư tới cho, chính là nhà buôn vẫn đưa vải vóc vào cung cấp cho mọi người trong hoàng cung. Em nói với ông em đang cần tiền, em có kể sơ cho ông biết câu chuyện và yêu cầu ông giữ kín cho tới khi em trả được hoàn toàn mối hận.
Đấy là tất cả câu chuyện của em, hỡi chàng trai trẻ. Trước đây em đã không nói cho anh rõ chuyện ấy, sợ anh ngại ngùng không muốn dẫn tên khốn kiếp ấy về nhà cho em trừng trị chăng. Em tin đến lúc này, anh không còn chê trách hành động của em nữa. Nếu anh là người sẵn có tấm lòng căm ghét những tâm địa phản trắc, hẳn anh phải ngợi khen lòng dũng cảm của em đã dám thọc lưỡi dao vào đúng trái tim phản trắc của tên khốn kiếp Namahran.
Chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng- nàng nói tiếp- anh và em chúng ta cùng nhau đi đến hoàng cung. Phụ vương em lúc nào cũng yêu thương em với tấm lòng trời bể. Em sẽ thú nhận với người tội lỗi của em. Em hy vọng được người tha thứ, và em dám hứa chắc với anh là người sẽ không quên trọng thưởng anh.
Nghe đến đây tôi nói với nàng công chúa:
- Không đâu, thưa bà. Tôi không đòi đền đáp chút gì cái công cứu sống bà. Nói có trời đất chứng dám, tôi chẳng hề hối tiếc chuyện ấy; nhưng xin thú thật với bà tôi thật vô cùng thất vọng sao mình lại phục vụ sự trả thù của bà một cách mẫn cán đến thế. Bà đã lợi dụng lòng nhân ái của tôi để lôi kéo tôi tham gia một vụ lừa dối. Đáng ra bà nên ngỏ lời sớm với tôi và cậy nhờ tôi tìm cách báo thù cho bà. Hẳn tôi đã chẳng ngại ngần đưa mạng sống của mình ra giúp bà trả hận một cách cao thượng hơn.
Tóm lại, thưa ngài, mặc dù nghĩ tên Namahran bị trừng trị là đáng kiếp, tôi vẫn ân hận xiết bao, chính mình đã đưa anh chàng đến cái chết, tôi liền bỏ nàng công chúa mà đi ngay tức khắc, chẳng chút màng những lời hứa hẹn của nàng. Tôi rời ngôi nhà ấy trước khi trời sáng. Mặt trời vừa mọc, tôi nhìn thấy một đoàn lữ hành hạ trại nghỉ đêm trên một cánh đồng cỏ, tôi liền nhập bọn. May mắn sao đoàn đang trên đường về thành phố Batđa, nơi chính tôi cũng đang muốn đến, thành ra tôi khởi hành luôn cùng đoàn.
Tôi tới được Batđa bình yên, tuy nhiên chẳng bao lâu thấy mình lâm vào một tình cảnh đáng buồn. Tôi hết sạch tiền. Tất cả gia sản đồ sộ của tôi ngày trước nay chỉ còn sót lại đúng một đồng xơ canh vàng trong túi. Tôi tính chuyện mang đổi lấy tiền lẻ. Tôi dùng số tiền lẻ ấy mua táo hương, kẹo hạnh nhân, nước thơm và hoa hồng. Ngày ngày tôi mang cái giỏ đựng những thứ vừa mua được ấy đến một quán bán nước fiquaa (Một loại nước giải khát, gần giống bia làm bằng đại mạch, nho và nước), ở đấy nhiều vị quan chức trong thành phố cùng khách khứa đủ hạng hay tới dùng nước giải khát và trò chuyện. Tôi nâng cái giỏ đưa đến từng người. Ai thích thức gì dùng thức ấy, và dĩ nhiên nhiều ít người nào cũng có trả cho tôi một vài đồng lẻ. Thành ra cái việc buôn bán lặt vặt ấy cũng giúp cho tôi sống tạm chẳng đến nỗi nào.
Một hôm, tôi đang mang giỏ hoa quả đến quán giải khát bán thường lệ, mời mọi người mua, chợt có một cụ già đang ngồi trong một góc khuất tôi không nhìn thấy cho nên không mời, gọi tôi lại và hỏi:
- Anh bạn ơi, tại sao bạn không mang giỏ hàng của bạn đến mời lão này mua như mời những người khác? Anh bạn cho già này không thuộc loại người đứng đắn sao? Hay là anh nghĩ trong hầu bao của ông lão chả có đồng xu nào?
- Thưa ngài, tôi đáp- mong ngài bỏ quá cho sự sơ xuất. Tôi xin quả quyết hồi nãy không nhìn thấy ngài. Cả giỏ hàng của tôi đây, xin ngài dùng thoải mái, tôi chẳng dám đòi hỏi gì hơn ở ngài.
Vừa nói, tôi vừa nâng cái giỏ lên trước mắt cụ. Cụ già cầm một quả táo hương, rồi bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi ngồi, cụ già hỏi tôi đủ thứ, nào là tôi là ai, nào họ tên tôi là gì. Tôi thở dài thưa:
- Xin cụ miễn cho cháu phải đáp những điều cụ hỏi. Cháu không thể trả lời những điều cụ muốn biết là không lại làm rớm máu những vết thương đang bắt đầu lành miệng trong tim cháu.
Những lời nói ấy, hay đúng hơn là cái giọng tôi thốt ra, khiến cụ già thôi không thúc ép nữa. Cụ chuyển sang chuyện khác, rồi sau một hồi trò chuyện, lúc đứng dậy ra về cụ lấy ở túi tiền ra mười đồng xơcanh vàng đặt vào tay tôi.
Tôi khá ngạc nhiên về sự hào phóng ấy. Các vị khách sang nhất tôi mời mua hoa quả chưa từng có ai trả cho tôi đến một xơcanh bao giờ, vì vậy không hiểu nỗi cụ già này là người như thế nào. Sáng hôm sau quay trở lại cái quán bán nước đã thấy ông cụ ngồi ở góc ấy. Dĩ nhiên tôi mang giỏ hàng tới mời cụ mua trước tiên. Cụ lấy một ít nước hoa, bảo tôi ngồi xuống cạnh, rồi thúc ép tôi kể chuyện mình, khẩn khoản tới mức tôi không thể không vâng lời.
Tôi thuật lại cho cụ nghe tất cả những gì đã xảy ra trong đời mình. Sau khi nghe tôi giãi bày tâm sự, cụ già nói:
- Ta có quen biết thân sinh anh ngày trước. Ta vốn cũng là một thương nhân ở thành Basra. Ta không có con, mà cũng chẳng còn hy vọng có. Ta có cảm tình với anh, ta nhận anh làm con nuôi. Vậy thì, con trai ta ơi, con hãy quên đi mọi đau buồn trong quá khứ, con sẽ thấy ở già đây một người cha còn giàu có hơn cả phụ thân con, ngài Apđêlazit, khi người còn sống. Cha hứa sẽ hết sức thương yêu con.
Tôi cảm tạ cụ già về vinh hạnh dành cho tôi, và khi cụ đứng dậy ra về, tôi đi theo luôn. Cụ bảo tôi vứt cái giỏ cùng với hoa quả trong ấy đi, rồi dẫn tôi đến một dinh cơ lớn mà cụ đã thuê từ trước. Cụ cho tôi một căn hộ cùng mấy tên nô lệ để hầu hạ. Cụ lại sai người mang đến cho nhiều quần áo sang trọng. Tưởng như phụ thân tôi, Apđêlazit vẫn đang còn sống, và tôi chưa phải lâm vào một cảnh khốn cùng bao giờ.
Khi cụ thương nhân ấy giải quyết xong công việc ở Batđa, nghĩa là bán hết mọi thứ hàng hoá mang từ Basra đến, chúng tôi cùng lên đường trở lại thành phố Basra. Lũ bạn chơi bời ngày trước, những tưởng chẳng bao giờ gặp lại tôi, rất đỗi ngạc nhiên tôi trở thành con nuôi một vị thương nhân được mọi người coi là giàu nhất thành phố. Tôi cố sức làm vui lòng cụ già. Cụ cũng lấy làm cảm kích về chuyện ấy. Thỉnh thoảng cụ lại nói:
- Abuncaxem à, cha rất hài lòng đã gặp con ở thành phố Batđa. Con có vẻ xứng đáng với những gì cha làm cho con.
Tôi rất xúc động về tình cảm cụ dành cho mình, nhưng chẳng bao giờ lạm dụng lòng tốt của cụ, mà tự mình nghĩ ra và làm mọi thứ cho cụ vui lòng. Giờ tôi không chơi bời phóng đãng với bạn bè cùng trang lứa nữa, tôi luôn luôn ở bên cạnh cụ. Hầu như tôi không rời xa cụ một bước.
NGÀY THỨ CHÍN.
Một hôm cụ già phúc hậu ấy đổ bệnh, các thầy thuốc chạy chữa thế nào bệnh cũng không thuyên giảm. Thấy mình e tới lúc khó qua khỏi, ông cho tất cả mọi người lui ra và nói riêng với mình tôi:
Con ơi, đã đến lúc cha nói cho con rõ một điều bí mật quan trọng. Nếu cha chỉ để lại cho con cái dinh cơ này cùng với của cải trong đó như con hằng nghĩ, thì cái gia tài cha để lại cho con chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng tất cả gia sản mà cha dành dụm được suốt đời, tuy to lớn thật đấy so với kho tàng bí mật, mà cha sẽ cho con biết đây. Cha sẽ không nói rõ với con, kho tàng có ở đây từ thời nào, do ai tạo lập và bằng cách nào, bởi bản thân cha cũng không hay. Tất cả những gì cha biết được, là ông nội cha khi sắp qua đời đã để lại cho phụ thân cha, và phụ thân cha cho đến khi chuẩn bị về thế giới bên kia, mới nói cho cha rõ.
Nhưng,- cụ già nói tiếp,- cha có một lời khuyên cho con, mong con chớ coi thường. Bản tính con vốn hào phóng. Một khi con thấy có điều kiện sống theo sở thích của mình, chắc thế nào con cũng phung phí tài sản của con. Con sẽ biếu tặng mọi người, con sẽ giúp đỡ cho những ai đến tìm con xin cứu giúp. Tính tình ấy, mà cha đánh giá cao nếu biết giữ mức độ, sẽ là nguyên nhân làm cho con bị hãm hại. Con sẽ sống xa hoa đến nỗi gợi nên lòng ganh tị của quốc vương Basra hoặc là sự ghen ghét của các quan đại thần trong triều. Họ sẽ nghi con có cả một kho tàng cất giấu đâu đấy. Rồi họ sẽ chẳng từ nan phương kế nào để chiếm đoạt cho bằng được. Để ngăn ngừa nỗi bất hạnh ấy, con chỉ có việc noi gương cha đây. Cha, cũng như thân sinh và tổ phụ cha ngày trước, luôn lo làm nghề nghiệp của mình và hưởng thụ kho tàng một cách khiêm nhường. Các cụ cũng như chính cha đây, chưa bao giờ tiêu pha món nào to lớn quá để mọi người phải lấy làm kinh ngạc.
Dĩ nhiên tôi hứa hẹn với cụ rằng tôi sẽ noi tấm gương thận trọng của cụ. Cha nuôi tôi liền chỉ cho tôi biết chỗ cất giấu kho tàng, và còn quả quyết là cho dù tôi hình dung kho tàng ấy đồ sộ đến đâu, trí tưởng tượng của tôi chẳng thấm tháp gì so với thực tế đâu.
Quả vậy, sau khi cụ già hào hiệp ấy qua đời, bởi tôi là người thừa kế duy nhất, cử hành xong tang lễ trọng thể cho cụ, tôi trở thành người sở hữu toàn bộ gia sản của cụ, mà toà dinh cơ này chỉ là một phần. Tôi vội đi tìm xem kho báu. Xin thú thật, thưa ngài, là tôi cực kỳ kinh ngạc khi nhìn thấy. Tuy không thể nói rằng kho tàng chẳng bao giờ cạn, ít nhất cũng có thể khẳng định với ngài là cho dù tôi có sống dai hơn tất cả mọi người trên đời, cũng chẳng làm sao tiêu pha hết. Bởi vậy, đáng ra phải giứ lời hứa với cụ già, tôi lại ban phát khắp nơi của cải giàu có của mình. Không một người nào trong thành phố Basra này không được hưởng ân huệ của tôi. Nhà tôi rộng mở đón tiếp tất cả những ai cần đến mình, và ai đã đến thì ra về cũng mãn nguyện. Sao gọi là nắm trong tay cả một kho tàng mà không dám tiêu pha đến nó, tôi nghĩ. Và có cách nào sử dụng kho báu của mình tốt hơn, nếu không đem dùng vào việc giúp những người bất hạnh đỡ khổ, đón tiếp cho trọng thị người nước ngoài, và để hưởng một cuộc đời đầy lạc thú?
Mọi người đều nghĩ rằng tôi sẽ đi đến khuynh gia bại sản một lần nữa cho mà xem. „Ôi dào, cái anh chàng Abucaxem ấy, ngữ ấy mà có trong tay tất cả các kho báu của Đấng thống lĩnh các tín đồ, thì nó cũng làm tiêu tan thôi!“ Ấy nhưng mọi người rất đỗi ngạc nhiên, thấy công việc làm ăn của tôi đã chẳng lụn bại chút nào, mà hình như có vẻ như ngày càng phát đạt hơn. Chẳng ai hiểu được bằng cách nào tôi có thể làm tăng thêm tài sản của mình trong khi cứ phung phí nó.
Tuy nhiên tôi tiêu xài quá rộng, cuối cùng gợi nên lòng ganh tị đối với sự giàu có của tôi, đúng như lời cụ già tiên đoán. Cả thành phố đồn đại rằng tôi bắt được một kho vàng. Chẳng cần có gì hơn nữa để cuốn hút đến cổng nhà tôi những người hám hôi của. Viên quan lo việc cảnh sát thành phố Basra một hôm tìm đến gặp tôi và nói:
- Ta chính là quan Đaroga (Viên quan lo về trật tự trị an) của thành phố này đây. Ta đến đây hỏi cho biết cái kho báu đã giúp anh sống xa hoa như thế, nằm ở đâu?
Nghe hỏi, tôi bối rối chẳng biết nên trả lời thế nào.
Nhìn thấy thái độ lo lắng của tôi, viên Đaroga cho rằng những lời đồn đại loan truyền trong thành phố không phải vô căn cứ. Nhưng y không thúc ép tôi nói rõ kho báu ở đâu, mà chỉ nói tiếp:
- Ngài Abuncaxem thân mến, xưa nay tôi vẫn xử sự với mọi người như một con người có văn hoá. Ngài hãy biếu cho tôi một món quà xứng đáng để tôi giữ kín giùm điều bí mật, và tôi sẽ để ngài yên ổn.
- Ông cần bao nhiêu?- tôi hỏi lại.
Viên cảnh sát đáp:
- Tôi chỉ cần mười đồng xơcanh vàng mỗi ngày.
Tôi nói:
- Như vậy quá ít. Tôi sẽ cho ông một trăm đồng xơcanh mỗi ngày.
Nghe nói, viên Đaroga mừng rơn:
- Thưa ngài, tôi cầu trời cho ngài bắt được một nghìn kho tàng. Ngài hãy yên tâm tận hưởng tài sản của ngài. Chẳng bao giờ tôi quấy rầy ngài về chuyện sở hữu nữa đâu.
Tôi đưa cho y nhận trước một món tiền lớn, thế là y ra về.
Ít lâu sau, quan tể tướng Apbunfata cho người tìm tôi. Ông mời tôi vào phòng làm việc và bảo:
- Hỡi chàng trai trẻ tuổi kia, ta vừa biết anh phát hiện một kho báu. Anh rõ rồi đó, một phần năm của cải bắt được thuộc về Thượng đế, anh phải chia phần ấy cho nhà vua. Vậy thì anh hãy chia ra một phần năm đi, bốn phần còn lại anh yên tâm làm chủ.
Tôi đáp:
- Trình tể tướng, tôi xin thú thật với ngài là tôi quả có bắt được một kho tàng, đồng thời tôi cũng xin thề độc trước Thượng đế là Đấng đã sáng tạo ra ngài cũng như sáng tạo ra tôi, là cho dù tôi có bị phân thây làm bốn mảnh, tôi cũng chẳng hé răng chỉ chỗ có kho tàng. Tuy nhiên tôi sẵn sàng biếu quan lớn mỗi ngày một nghìn đồng xơcanh vàng, với điều kiện sau đấy ngài để yên cho tôi nhờ.
Hoá ra cụ tể tướng Abunfata cũng dễ biết điều như viên cảnh sát quèn mà thôi. Ông sai một người tín cẩn đến gặp người giữ kho báu của tôi, anh này giao luôn ba mươi ngàn xơcanh cho tháng đầu.
Quan tể tướng sợ rồi đây nhà vua sẽ biết chuyện, nghĩ thà tự mình nói ra trước thì hơn. Quốc vương chăm chú nghe tể tướng trình, nhà vua nghĩ vấn đề này đáng được đi sâu hơn nữa, liền ngỏ ý muốn gặp trực tiếp tôi. Nhìn thấy tôi, nhà vua vừa cười vừa phán:
- Này, anh chàng trẻ tuổi kia, tại sao anh không chỉ cho ta biết kho tàng anh ở đâu? Anh nghĩ ta kém công minh đến mức chiếm đoạt tài sản của anh sao?
Tôi thưa:
- Muôn tâu hoàng thượng, cầu Thượng đế ban phúc cho ngài vạn thọ vô cương. Nhưng xin tâu, cho dù kẻ này có bị người lấy kìm nung đỏ mà rứt thịt da ra, cũng chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho tàng ở đâu. Tôi đồng ý mỗi ngày nộp cho hoàng thượng hai nghìn đồng xơcanh vàng. Nếu ngài từ chối không nhận mà cho rằng tôi đáng tội chết, xin ngài cứ truyền lệnh, tôi thà chịu muôn ngàn cực hình chứ chẳng bao giờ thoả mãn sự hiếu kỳ của hoàng thượng.
Nghe vậy, nhà vua quay nhìn tể tướng, tham khảo ý kiến của ông. Tể tướng nói:
- Tâu bệ hạ, số tiền anh chàng này nộp hoàng thượng hàng ngày cũng cầm bằng như ta bắt được một kho tàng. Xin hoàng thượng cho phép y ra về, sống cuộc đời xa hoa thường nhật của y, miễn là y phải răm rắp giữ đúng lời đã hứa với hoàng thượng.
Nhà vua nghe theo lời khuyên của tể tướng. Vua cho tôi lui ra, còn phủ dụ thân thiết nữa là khác. Từ hôm ấy trở đi, theo đúng thoả thuận của chúng tôi với nhau, mỗi năm tôi cống nạp một lần và cùng một lúc cho nhà vua, cho tể tướng và cho quan cảnh sát, tổng cộng hơn một triệu sáu trăm nghìn đồng xơcanh vàng.
- Thưa ngài, - chàng trẻ tuổi nói tiếp với hoàng đế Harun An Rasit- đấy là tất cả điều ngài muốn rõ. Giờ chắc ngài không ngạc nhiên nữa về những tặng vật tôi biếu ngài, cũng như về tất cả những gì ngài nhìn thấy trong nhà tôi.
Khi nghe Abuncaxem kể xong câu chuyện của chàng như vậy, hoàng đế rất nóng lòng muốn nhìn tận mắt kho tàng, liền bảo:
- Có thể nào trên đời này tồn tại một kho tàng mà mặc dù ngài hào phóng đến vậy cũng chẳng bao giờ cạn kiệt? Không, tôi chẳng thể nào tin. Thưa ngài, nếu điều tôi nói ra đây không là sự đòi hỏi quá đáng đối với ngài, thì xin ngài bằng lòng cho tôi xem những của cải ngài sở hữu, tôi xin thề một lời thiêng liêng nhất muôn đời không dám vi phạm, rằng tôi sẽ chẳng lạm dụng lòng tin cậy của ngài.
Người con trai của Apđêlazit tỏ vẻ buồn phiền khi nghe hoàng đế bảo vậy. Chàng nói:
- Thưa ngài, tôi quả thật không vui ngài có lòng hiếu kỳ như vậy. Tôi chỉ có thể thoả mãn ngài với những điều kiện không được lịch sự cho lắm.
- Cho dù các điều kiện ấy khắt khe đến thế nào đi nữa,- hoàng đế thốt lên- tôi sẵn sàng tuân thủ mà không lấy làm phiền lòng.
- Những điều kiện ấy là,- chàng trai nói tiếp- ngài vui lòng cho phép tôi bịt mắt ngài, ngài phải bỏ khăn, để đầu trần và không mang theo vũ khí, còn tôi cầm mã tấu ở tay, sẵn sàng chém sả vào ngài hàng ngàn nhát cho kỳ chết, nếu ngài vi phạm luật hiếu khách thoả thuận giữa chúng ta. Tôi hiểu, xử sự thế này có người sẽ cho tôi sao quá khinh suất,- chàng nói thêm- đáng ra tôi không nên chấp thuận ý muốn của ngài, song tôi tin ngài đã đặt toàn bộ lòng kính tín của mình vào những lời thề thiêng liêng; hơn nữa cũng bởi vì tôi không sao để một vị đồng thực khách ra về không hài lòng khỏi nhà tôi.
Hoàng đế nói:
- Vậy thì xin ngài hãy làm ơn thoả mãn mong muốn hiếu kỳ của tôi ngay lúc này.
- Xin vui lòng chờ cho lát nữa. Đêm nay mời ngài nghỉ lại nhà tôi. Đợi đến lúc tất cả gia nhân đi ngủ hết rồi, đích thân tôi sẽ đến tìm ngài và dẫn ngài đi.
Nói đến đây, chàng lớn tiếng gọi người hầu. Dưới ánh sáng vô vàn ngọn nến cắm trên những đế đèn bằng vàng khối do bọn nô lệ cầm ở tay dẫn đường, chàng đưa hoàng đế đến một gian phòng lộng lẫy, rồi lui về phòng riêng. Bọn nô lệ giúp nhà vua cởi áo ngoài, mời vua nằm nghỉ, sau khi để lại những cây nến lên phía trên và dưới chân giường ngủ, cả bọn lui ra. Nến toả mùi hương dìu dịu.

Chương 2 (F): NGÀY 10, 11

NGÀY THỨ MƯỜI.
Đáng ra nên cố ngủ một chốc, đằng này hoàng đế Harun An Rasit nóng lòng chờ đợi Abuncaxem. Chàng đến tìm vua vào lúc nửa đêm, và nói:
- Thưa ngài, tất cả bọn gia nhân của tôi đã ngủ say rồi; giờ đây nhà tôi lặng ngắt như tờ, lúc này tôi có thể mời ngài đi xem kho báu, với những điều kiện như tôi từng thưa với ngài.
Hoàng đế ngồi lên:
- Vâng, chúng ta đi, tôi sẵn sàng đi theo ngài, tôi xin thề trước Đấng tạo hoá và trước Mặt đất, là ngài sẽ không phải hối tiếc vì đã thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi.
Chàng con trai Apđenlazit giúp hoàng đế mặc áo, rồi lấy một tấm khăn bịt mắt vua:
- Xin ngài hiểu cho, tôi rất tiếc phải xử sự thế này với ngài; bộ dạng và phong thái của ngài có vẻ đáng cho tôi tin cậy hơn…
- Tôi chấp thuận sự thận trọng của ngài- hoàng đế ngắt lời- tôi chẳng trách ngài về chuyện ấy.
Abuncaxem đưa vua theo một cầu thang bí mật xuống một khu vường rộng, sau khi đi quanh co nhiều đoạn, hai người đến nơi cất giấu kho tàng.
Đấy là một gian hầm ngầm rất rộng rất sâu trong lòng đất, lối vào chỉ được che bằng một phiến đá bình thường. Thoạt tiên họ xuống theo một đường dốc hẹp và tối om, cuối đường gặp một gian phòng rộng được chiếu sáng rực bởi những vật lấp la lấp lánh. Vào trong phòng, chàng trai tháo khăn bịt mắt cho hoàng đế. Nhà vua kinh ngạc nhìn mọi thứ bày ra trước mắt. Chính giữa phòng là một cái bể bằng đá cẩm thạch trắng, chu vi chừng năm mươi bộ và sâu khoảng ba mươi bộ. Bể chứa đầy những đồng tiền vàng lớn, chung quanh có mười hai cây cột đồ sộ bằng vàng khối, đỡ chừng ấy bức tượng tạc bằng đá quý chế tác thật tinh vi.
Abuncaxem dẫn hoàng đế đến gần cái bể và nói:
- Cái bể này sâu ba mươi bộ, ngài đã nhìn thấy những đống vàng trong ấy. Cho đến hôm nay, bể mới vơi bớt chừng hai đốt ngón tay, ngài có nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tiêu xài hết khoản vàng trong đó?
Hoàng đế chăm chú xem xét cái bể rồi đáp:
- Tôi thừa nhận đấy là những của cải vô biên, nhưng rồi ngài vẫn có thể tiêu hết sạch sành sanh.
- Nếu vậy thì,- chàng trai đáp- chừng nào cái bể này cạn hết vàng, tôi sẽ nhờ đến cái bể khác mà tôi sắp chỉ cho ngài xem đây.
Vừa nói chàng vừa dẫn vua Harun sang một căn phòng khác càng lấp lánh càng sáng rực hơn căn phòng vừa rồi. Trong phòng bày nhiều trường kỷ bọc gấm đỏ có đính cơ man là những viên ngọc báu và kim cương. Chính giữa phòng cũng có một cái bể giống hệt như cái bể ở phòng kia. Trên thực tế cái bể này chẳng rộng chẳng sâu hơn cái bể chứa vàng, song bù lại, nó lại đầy những hồng ngọc, bích ngọc, lam ngọc, cùng đủ các loại ngọc quý khác trên đời.
Chưa bao giờ hoàng đế cảm thấy ngạc nhiên dường ấy. Vua không rõ mình đang tỉnh hoặc đang mơ. Cái bể chứa ngọc này thật đúng là một sự diệu kỳ, vua còn mải ngắm nghía thì chàng con trai của Apđêlazit đã trỏ cho vua thấy trên một bức sập bằng vàng có hai bức tượng mà chàng bảo đấy là những chủ nhân đầu tiên của kho báu này. Tượng một ông hoàng và một bà chúa mang trên đầu những chiếc vương miện bằng kim cương, trông có hồn như người đang sống thật. Hai người nằm dài cạnh nhau trên sập, đầu tựa sát đầu, dưới chân họ có một cái bàn bằng gỗ mua có khắc những dòng chữ vàng như sau:
„Ta đã thu thập suốt cả cuộc đời trường thọ để có tất cả của cải chứa nơi đây. Ta đã từng xâm chiếm và cướp phá bao nhiêu thành quách, lâu đài. Ta đã chinh phục biết bao vương quốc và đánh gục biết mấy kẻ thù. Ta từng là đấng quân vương hùng cường nhất thế gian, nhưng mọi quyền lực của ta đành thúc thủ trước cái chết. Bất cứ người nào mai sau nhìn thấy ta trong khung cảnh này, cần phải biết mở mắt ra cho lớn. Người ấy cần suy nghĩ rằng ta đã từng sống như họ và rồi họ sẽ chết giống như ta. Người ấy hãy biết sử dụng kho tàng này để kiếm thêm bạn bè và sống cuộc đời dễ chịu. Người ấy cần phải biết, mọi thứ của cải trên đời này không thể bảo đảm cho mình thoát ra ngoài số phận chung của mọi người trên trần thế“.
Sau khi đọc những dòng chữ ấy, hoàng đế Harun An Rasit nói với chàng trai:
- Giờ đây tôi không còn chê trách cách hành xử của ngài nữa. Ngài đã có lý khi sống cuộc đời như ngài đang sống. Tôi phản bác những lời khuyên mà vị thương nhân già đã khuyên răn ngài. Tuy nhiên,- hoàng đế nói thêm- tôi muốn rõ danh hiệu đấng quân vương này. Có nhà vua nào có thể sở hữu bấy nhiêu tài sản? Thật tôi chẳng hài lòng, sao những dòng chữ kia khôgn cho chúng ta biết thêm điều đó nhỉ.
Chàng trai còn dẫn hoàng đế sang một gian phòng khác chứa nhiều đồ vật rất qúy giá, trong đó có những cây thân làm bằng bạc giống hệt như cây chàng trai đã mang biếu hoàng đế. Nhà vua hẳn còn muốn dành cả thời gian còn lại của đêm nay để ngắm nghía các vật chứa trong căn hầm kỳ diệu này, nhưng Abuncaxem sợ bọn gia nhân bắt gặp, đành mời nhà vua lên khỏi hầm ngầm trước khi trời sáng. Vẫn đi lên theo đúng cách như khi đi xuống, nghĩa là nhà vua bị bịt mắt, để đầu trần, trong khi chàng trai lăm lăm cây mã tấu ở tay, sẵn sàng chặt đầu nếu hoàng đế thoáng có ý định đưa tay tháo gỡ giải khăn che mắt.
Hai người băng qua khu vườn rộng, trở lại gian phòng nhà vua nghỉ qua cái cầu thang bí mật. Trong phòng các cây nên vẫn còn cháy sáng. Hai người trò chuyện cho đến khi trời sáng hẳn. Hoàng đế nói:
- Sau tất cả những gì tôi đã thấy, và qua con nữ tì ngài biếu tôi, tôi chắc rằng trong nhà ngài có những người phụ nữ đẹp nhất phương Đông.
- Thưa ngài, - Abuncaxem đáp- quả là tôi có nhiều nữ nô lệ khá xinh, song tôi không thể yêu một đứa nào. Trong ký ức tôi, luôn luôn hiện diện nàng Đacđanê, nàng Đacđanê vô vàn yêu quý của tôi. Tôi luôn luôn tự nhủ rằng nàng đã qua đời, rằng chớ nên nghĩ tới nàng nữa, nhưng hoài công vô ích, khốn nạn thân tôi không làm sao xoá được khỏi tâm can hình ảnh của nàng. Tôi bị hình ảnh nàng theo đuổi đến nỗi sống giữa bấy nhiêu tài sản, mọi công việc đều ngày càng thịnh đạt, mà tôi chẳng hề cảm thấy hạnh phúc. Ôi, tôi thà sở hữu một gia sản tầm thương mà có được nàng Đacđanê, còn hơn sống vô cùng giàu sang mà không có nàng.
Hoàng đế khâm phục mối tình kiên định của chàng trai con nhà thương nhân Apđelazit, tuy nhiên vua khuyên chàng nên hết sức cố gắng để chiến thắng nỗi đam mê phù du ấy. Tiếp đó vua cất lời cảm tạ một lần nữa sự đón tiếp hết sức trọng thị của chàng trai. Cuối cùng, trở về nhà lưu trú, nhà vua lên đường trở lại thành phố Batđa cùng với bọn gia nhân, tên hầu trẻ trang nhã, cô nữ tì xinh đẹp cùng tất cả mọi thứ tặng phẩm của Abuncaxem.
NGÀY THỨ MƯỜI MỘT.
Hai ngày sau khi hoàng đế Harun An Rasit ra về, tể tướng Abunfata nghe đồn về việc ngày nào chàng Abuncaxem cũng mang biếu những người nước ngoài đến thăm nhiều tặng vật cực kỳ quý giá; mặt khác ông ngạc nhiên sao anh chàng có thể cống nộp cực kỳ đúng hạn cho ông ta cũng như cho quốc vương và viên quan cảnh sát các khoản tiền lớn như đã hứa, liền quyết tâm tìm đủ cách để moi cho biết cái kho tàng không cạn ấy nằm vào chốn nào. Viên hung thần ấy là một trong số những tên nham hiểm không ngại từ nan một tội ác ghê gớm nào không làm, miễn là thực hiện bằng được ý đồ của mình. Ông ta có một cô con gái vừa tròn mười tám tuổi cực kỳ xinh đẹp. Tên nàng là Banki. Nàng là một con người vừa tốt bụng vừa hết mực thông minh. Hoàng thân Aly, cháu ruột của quốc vương thành Basra, say mê tiểu thư như điếu đổ. Chàng đã ngỏ lời cầu hôn và đã được tể tướng chấp thuận; chẳng bao lâu nữa hai cô cậu sẽ thành gia thất.
Abunfata gọi con gái vào phòng làm việc và bảo:
- Con gái ơi, cha có việc cần nhờ đến con đây. Cha muốn con trang điểm cho thật lộng lẫy vào, rồi tối nay đến nhà chàng Abuncaxem. Con cố sao làm hài lòng chàng trai đấy, hãy tìm đủ mọi cách làm mê mẩn anh chàng, rồi hỏi cho rõ cái kho báu của anh chàng ở đâu.
Cô gái rùng mình khi nghe cha bảo vậy. Sự kinh tởm hiện rõ ngay trên nét mặt khi cô thấy cha ép mình phải vâng lời đi thực hiện một việc trái với đạo lý. Nàng thốt lên:
- Thưa phụ thân, cha sai con gái đi làm việc gì vậy? Cha không thấy cha đang đưa con đến chốn hiểm nghèo hay sao? Xin cha hãy suy nghĩ về nỗi nhục mà con gái cha phải chịu, về vết nhơ không bao giờ phai nhạt trên danh vọng gia đình, về sự xúc phạm mà cha sẽ gây nên cho hoàng thân Aly, nếu chàng không còn được tự hào về mối tình cao quý chàng dành cho con nữa.
- Cha đã suy nghĩ về tất cả những điều ấy,- tể tướng đáp- nhưng chẳng có gì có thể làm cha thay đổi ý định. Cha ra lệnh cho con hãy đi chuẩn bị ngay để thực hiện điều cha vừa bảo.
Nàng Banki bật khóc:
- Nhân danh Thượng đế, cha của con ơi,- nàng nói- xin cha chớ ép con gái đi làm hỏng danh vọng cha. Xin cha hãy nén lòng ham muốn tước đoạt của người khác những tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình. Cha hãy để cho người khác bình yên hưởng thụ sự giàu sang của họ, hơn là tìm cách chiếm đoạt của người ta.
Tể tướng nổi nóng:
- Hãy im mồm, con vô lễ kia! Mày không được phép chê trách ý định của cha. Mày không được cãi. Ta muốn mày đi đến nhà Abuncaxem. Ta thề nếu mày trở về mà chưa nhìn thấy tận mắt kho báu, thì tự tay ta sẽ đâm cho mày một nhát dao vào ngực.
Nàng Banki thấy không còn cách nào lãng tránh một công việc tiềm ẩn đầy hiểm nguy, lui về phòng riêng, lòng buồn bã không thể nào tả xiêt. Nàng chọn mặc những bộ quần áo sang trọng nhất, đeo đầy ngọc ngà châu báu, song chẳng buồn trang điểm, mà thật ra cũng chẳng cần. Sắc đẹp tự nhiên của nàng đủ khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng say mê. Chẳng có người con gái nào ngại ngần hay nói đúng hơn lo sợ, được người khác nhìn thấy mình đẹp như Banki lúc này. Nàng sợ mình quá đẹp khi sắp đến gặp Abuncaxem, cũng như bao lần nàng e nhan sắc chưa đủ xinh tươi khi chuẩn bị đến với hoàng thân Aly.
Cuối cùng rồi ngày cũng hết. Lúc này, tể tướng Abunfata cho là đã đến lúc sai con gái đến nhà chàng Abuncaxem. Ông đưa con ra khỏi nhà qua một cửa ngách kín đáo, rồi thân hành dẫn con đến tận cổng nhà chàng trai. Ông để nàng một mình ở đấy sau khi nhắc lại, ông sẽ giết chết nếu nàng quay trở về mà không làm trọn vai trò nhơ nhuốc. Nàng gõ cửa, nói mình muốn gặp chàng trai con cụ thương nhân Apđêlazit. Một nữ tì dẫn nàng vào một căn phòng, ở đấy chàng trai nằm dài trên chiếc trường kỷ rộng, đang hồi tưởng về những nỗi bất hạnh đã qua; và lúc nào cũng vậy, nghĩ đến nàng Đacđanê trên tất cả mọi sự.
Trông thấy nàng Banki bước vào, chàng vội ngồi lên nghênh tiếp. Chàng nghiêng mình chào rất thấp, lễ độ đưa tay cho nàng bắt. Sau khi lịch sự mời nàng ngồi xuống ghế, chàng cất lời hỏi có việc gì nàng ban cho chàng vinh hạnh được gặp mặt. Banki đáp, nghe tiếng chàng là con người hào hoa phong nhã, tự nhiên nàng nảy ra ý ngộ nghĩnh muốn đến vui chơi một tối với chàng. Vừa nói nàng vừa đưa tay lật tấm mạng che mặt, chiến chàng trai ngạc nhiên trước đôi mắt sáng long lanh trên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời. Mặc dù lâu nay vốn dửng dưng trước đàn bà con gái, lần này chàng không thể nhìn giai nhân mà không cảm thấy xúc động tận đáy lòng. Chàng nói với nàng:
- Thưa phu nhân xinh đẹp, hôm nay đúng ngày tôi gặp số hên cho nên mới vinh hạnh có được sự hội ngộ tuyệt vời. Tôi tự cho mình là người vô cùng hạnh phúc.
Vừa trò chuyện một chốc đã đến giờ ăn. Hai người cùng sang một căn phòng khác, ở đó trên bàn ăn đã bày rất nhiều món. Trong phòng lúc ấy có đông đảo gia nhân và nô lệ; Abuncaxem cho mọi người ra ngoài hết, để người đẹp khỏi phải phô khuôn mặt trần ra trước mắt họ. Rồi tự chàng phục vụ nàng, chàng mời nàng những thức ăn ngon nhất, rót mời nàng một loại rượu tuyệt vời đựng trong chiếc ly vàng nạm ngọc hồng ngọc lam. Chàng cũng nâng ly tiếp nàng, và càng ngắm tiểu thư Banki chàng càng thấy nàng thật đẹp. Chàng nói với nàng đôi chuyện hào hoa, cô gái vừa xinh đẹp vừa bản chất thông tuệ cho nên những câu đối đáp thông minh của nàng làm chàng càng thêm ái mộ. Đến cuối bữa ăn, chàng quỳ xuống dưới chân nàng, đưa cả hai tay xiết chặt bàn tay của nàng, và nói:
- Thưa bà, nếu đôi mắt đẹp của bà đã làm tôi choáng váng ngay từ phút đầu, thì cách chuyện trò của bà khiến cho tôi càng thêm say đắm. Bà đã thổi nên trong trái tim kẻ này một ngọn lửa không bao giờ tắt. Từ nay tôi muốn được làm kẻ nô lệ của bà, muốn được hiến dâng cả cuộc đời cho bà.
Nói xong, chàng hôn tay nàng một cách quá cuồng nhiệt, đến nỗi nàng Banki cảm thấy e rồi có thể xảy ra chuyện không hay, liền biến sắc. Mặt nàng tái nhợt như sắp chết tới nơi. Rồi thấy kkhông thể nào còn vờ vịt tiếp nữa, nàng bỗng trở nên buồn bã, một lát sau nước mắt tuôn ròng ròng. Chàng trai rất đỗi ngạc nhiên:
- Có việc gì vậy, hở nàng? Do đâu nàng đột nhiên trở nên buồn bã? Tại sao lại tuôn nước mắt, làm cho kẻ này chấn dộng tận đáy tâm can? Hay là cách xử sự của tôi có điều gì khiến nàng không vừa ý chăng? Xin nàng hãy nói đi, hãy nói cho tôi rõ ngay bởi căn nguyên nào có sự đổi thay đột ngột ở nàng như vậy?
Nàng Banki nói:
- Thưa ngài, em đã vờ vịt đến đây là quá sức em rồi. Lòng em lúc này vừa ngại ngần vừa sợ hãi vừa đớn đau vừa xấu hổ, bằng ấy điều khuấy động tim gan, em không làm sao chịu đựng thêm nữa. Em sẽ nói hết đây. Hỡi chàng Abuncaxem, em đang lừa dối chàng đây. Em là con gái một nhà vọng tộc. Cha em biết chàng sở hữu một kho báu ở một nơi nào đó, muốn lợi dụng nhan sắc em để rõ nơi cất giấu. Cha em lệnh cho em phải đến nhà chàng, phải tìm đủ mọi cách để chàng cho em thấy kho báu ở đâu. Em đã cố cưỡng lại, song cha em thề sẽ giết chết nếu em trở về nhà mà chưa tường điều bí mật. Mệnh lệnh của cha em mới nghiệt ngã làm sao! Cho dù em quen biết một vị hoàng thân mà em rất mực yêu quý và chúng em sắp làm lễ thành hôn đến nơi, thì em vẫn cứ cho việc làm của cha em thật quá kinh khủng. Thưa ngài, hôm nay em đến với chàng là do vậy, xin thú thật chỉ vì không vượt nổi lòng sợ chết cho nên em buộc phải đến đây thôi.

Chương 2 (G): NGÀY 12, 13

NGÀY THỨ MƯỜI HAI.
Sau khi nghe cô con gái tể tướng Abunfata giải bày như vậy, chàng Abuncaxem nói:
- Thưa bà, tôi hài lòng bà đã nói thật với tôi. Bà sẽ không phải hối tiếc về sự ngay thẳng ấy. Bà sẽ không phải chết đâu. Tôi sẽ chỉ cho bà nhìn thấy kho báu, và bà sẽ được đối xử lịch sự như bà mong muốn. Cho dù bà xinh đẹp đến đâu, cho dù bà đã gây cho tôi ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, giờ đây bà chẳng có gì phải lo sợ nữa, bà sẽ rất an toàn ở nhà tôi. Tôi không còn giữ những tình cảm nảy sinh trong lòng tôi lúc đầu, bởi điều ấy khiến bà không yên tâm. Bà có thể trở về gặp lại vị tình quân diễm hạnh mà chẳng có gì phải hổ thẹn. Vậy xin bà thôi, chớ nên buồn rầu khóc lóc mà chi.
Nghe nói, nàng Banki mừng rỡ thốt lên:
- Ôi, thưa ngài! Chẳng phải không có căn nguyên khi người ta đồn đại ngài là con người hào hiệp nhất thế gian. Em quá tâm phục cách xử sự đẹp của ngài. Em sẽ chẳng bao giờ thôi băn khoăn nếu chưa tìm được cách bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của em đối với chàng.
Chuyện trò đến đấy, Abuncaxem đưa cô gái đến căn phòng chính hoàng đế Harun An Rasit đã nghỉ hôm trước. Chàng ở lại đấy với cô gái cho đến khi mọi gia nhân tôi tớ trong nhà đều đã ngủ im phăng phắc. Lúc bấy giờ chàng mới lấy tấm khăn ra bịt mắt nàng Banki:
- Thưa nàng, mong nàng tha thứ cho tôi phải mạo muội hành động thế này, nhưng tôi chỉ có thể trỏ cho bà thấy kho báu với điều kiện này mà thôi.
Tiểu thư đáp:
- Ngài muốn xử sự thế nào xin tuỳ ý. Em tin cậy tấm lòng độ lượng của ngài, em sẵn sàng đi theo ngài tới bất kỳ đâu như ngài muốn. Giờ em chẳng có nỗi lo nào hơn là không cảm nhận hết sự hào hiệp của ngài.
Abuncaxem cầm tay dắt nàng lần theo cái cầu thang bí mật xuống vườn, đưa nàng vào tận trong hầm ngầm, mới tháo khăn bịt mặt cho nàng. Nếu hoàng đế Harun An Rasit rất ngạc nhiên nhìn thấy bấy nhiêu vàng bạc châu báu, nàng tiểu thư còn kinh ngạc hơn. Nàng thấy bất kỳ vật gì cũng hết sức lạ lùng. Tuy nhiên, cái nàng chú ý nhất, khiến nàng không sao rời khỏi mắt, là hai vị chủ nhân đầu tiên của kho báu. Nàng đọc những câu khắc trên chiếc bàn gỗ mua dưới chân họ. Thấy bà hoàng đeo quanh cổ một chuỗi kim cương mà hạt nào cũng lớn tày trứng chim bồ câu, một lần nữa nàng lại thốt lên kinh ngạc. Thế là chàng Abuncaxem théo chuỗi hạt ra khỏi bức tượng và đeo luôn vào cổ cô gái. Chàng nói rằng như vậy phụ thân nàng sẽ tin chắc nàng quả đã nhìn thấy kho tàng. Để tể tướng chẳng còn gì có thể nghi ngờ nữa, chàng xin tiểu thư hãy lấy thêm nhiều hạt ngọc khác, nàng vâng lời nhận khá nhiều viên ngọc báu mà chàng tự tay chọn cho.
Cô gái cứ ngắm nhìn không biết chán các kỳ vật trong căm hầm, trong khi chàng Abuncaxem sợ trời sáng mất, liền lại lấy khăn bịt mắt nàng, đưa nàng ra khỏi hầm, cùng trở về căn phòng cũ trong dinh cơ của chàng, ở đó hai người đàm đạo cho đến khi trời sáng hẳn. Lúc này, tiểu thư con gái tể tướng Apbunfata sau mấy lần cảm tạ mình chẳng bao giờ quên được thái độ xử sự đúng đắn cũng như tấm lòng vô cùng độ lượng của chàng trai, xin phép cáo từ. Nàng trở về nhà, trình với cha tất cả những điều đã xảy ra đêm hôm qua.
Viên tể tướng, trong lòng lúc nào cũng chỉ tơ tưởng chuyện tiền bạc, rất nôn nóng chờ con gái trở về. Lão chỉ lo con gái mình không đủ nhan sắc và duyên dáng làm say mê chàng trai trẻ. Lòng lão bồn chồn như có lửa đốt. Thoạt trông thấy con gái trở về, cổ đeo chuỗi hạt kim cương, và sau khi nàng phô cho lão thấy thêm những bao nhiêu là châu báu ngọc ngà, lão mừng như điên như dại:
- Thế nào, con gái yêu của cha, đúng là con đã nhìn thấy tận mắt kho báu chứ?
- Đúng thưa cha, - cô đáp- Để cha có ý niệm đầy đủ hơn, con xin thưa là cho dù tất cả mọi đấng quân vương trên trái đất này cùng nhau góp chung tài sản của họ lại, cũng không sao sánh tày gia sản của Abuncaxem. Nhưng mặc cho anh ta giàu có đến vậy, con vẫn tâm phục phong thái đàng hoàng và tấm lòng hào hiệp của chàng hơn mọi thứ của cải chàng sở hữu.
Nàng kể cho phụ thân nghe tất cả những gì đã xảy ra. Lão tể tướng chẳng chút quan tâm thái độ tự kìm chế đứng đắn của chàng trai. Lão muốn giá mà cô gái được chàng ân ái với thì tốt hơn là được nhìn thấy tận mắt mà không biết rõ kho báu chính xác cất giấu ở chốn nào.
Trong thời gian ấy, hoàng đế Harun An Rasit đang trên đường trở về kinh thành Batđa. Vừa về tới hoàng cung, nhà vua ra lệnh trả tự do ngay cho tể tướng Giapha và nói rõ vua vẫn hết lòng tin cậy ông. Sau khi thuật lại cho tể tướng nghe tất cả những chuyện đã xảy ra trong chuyến đi của mình vừa rồi, vua hỏi ông:
- Giapha à, bây giờ ta nên xử sự sao đây? Ông biết rồi đấy, theo đạo lý ở đời, lòng biết ơn của các đấng hoàng đế phải vượt trội lên niềm vui thú người khác mang đến cho mình. Cho dù ta có tặng chàng Abuncaxem hào hoa kia những của vật quý nhất có trong kho báu của ta, những thứ ấy vẫn chẳng là gì đối với chàng, có nghĩa vẫn không có giá trị ngang những thứ chàng đã biếu ta. Ta làm sao đây để tỏ ra mình hào hiệp hơn chàng trai ấy?
Tể tướng đáp:
- Muôn tâu hoàng đế, nếu Đấng thống lĩnh các tín đồ chuẩn y lời trình của tôi, thì xin đề nghị ngài ngay hôm nay viết một bức thư gửi quốc vương thành Basra, truyền cho ông ấy nhường ngôi cho chàng Abuncaxem trẻ tuổi. Chúng ta sẽ cho người khẩn cấp truyền lệnh ấy ngay tức khắc, và trong vài hôm tới đích thân tôi sẽ mang chiếu chỉ hoàng đế sang phong vương cho nhà vua mới.
Hoàng đế chấp thuận lời khuyên:
- Ông có lý đấy, tể tướng à. Đấy là cách ta trả món ân huệ của chàng Abuncaxem, cũng là sự trừng phạt quốc vương Basra và viên quan đầu triều của y, đã giấu giếm không chịu tâu ta rõ những khoản tiền khổng lồ mà chúng bòn rút ở chàng trai. Sẽ công bằng nếu ta trừng trị sự cưỡng bức mà hai kẻ ấy đã gây nên đối với chàng trai; những loại người như chúng nó chẳng đáng nắm quyền trị dân.
Ngay lập tức hoàng đế hạ chiếu phế truất quốc vương Basra, rồi sai người mang đi tức khắc. Tiếp đó, nhà vua sang cung hoàng hậu Zôbêit, thuật lại cho bà nghe đầu đuôi những chuyện xảy ra suốt chuyến vi hành của mình. Vua tặng hoàng hậu tên hầu trẻ, cái cây thân bạc cùng với con công kỳ diệu. Vua còn biếu hoàng hậu luôn cô nữ tì xinh đẹp. Hoàng hậu thấy con bé này đáng yêu quá, mỉm cười nói với hoàng đế rằng bà vui sướng nhận cô gái hơn tất cả mọi tặng phẩm quý giá khác. Hoàng đế chỉ giữ lại riêng cho mình cái ly rượu ngọc. Còn lại bao nhiêu, ban thưởng hết cho tể tướng Giapha. Và như vua đã quyết, vị tể tướng chuẩn bị mọi việc để có thể lên đường ngay vài ngày sau.
NGÀY THỨ MƯỜI BA.
Phái viên của hoàng đế vừa tới thành phố Basra, trình ngay chiếu chỉ cho quốc vương xem. Ông này đọc chiếu mà không nén được vẻ vô cùng đau tiếc. Ông chuyển bức chiếu cho tể tướng cùng đọc, và hỏi:
- Này Abunfata, ông hãy xem đây, Đấng thống lĩnh các tín đồ vừa truyền cho ta một mệnh lệnh tai hại dường này. Ông hãy nghĩ xem, ta có thể không chấp hành chiếu chỉ được không?
Viên đại thần đáp:
- Được chứ, tâu hoàng thượng. Xin ngài chớ vội lo phiền. Chúng ta phải thủ tiêu ngay tên Abuncaxem. Tôi sẽ tìm cách, không cần giết chết anh ta, mà chỉ loan truyền cho mọi người tin là anh ta đã chết. Tôi sẽ giấu hắn kín tới mức chẳng bao giờ có ai nhìn thấy hắn. Bằng cách ấy ngài vẫn ngự trên ngai vàng, mà ngài lại sở hữu tất cả kho báu của hắn ta, bởi khi đã bắt được hắn rồi, ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình, hắn không chịu nổi sẽ để khai cho ta rõ kho báu giấu ở nơi nào.
- Ông muốn làm gì thì làm- nhà vua phán- nhưng rồi ta biết tâu trình sao đây với hoàng đế?
- Xin hoàng thượng hãy tin cậy vào tôi. Đấng thống lĩnh các tín đồ rồi cũng sẽ bị mắc lừa như mọi người khác mà thôi. Xin ngài hãy để cho kẻ này thực hiện ý đồ mà tôi đang nghiền ngẫm, xin chớ lo âu gì về các việc khác.
Thế là Abunfata, có mấy triều thần vốn không hiểu rõ mưu đồ của lão cùng đi đến tìm gặp Abuncaxem. Chàng đón tiếp họ vô cùng trọng thị vì đấy là các vị đại thần cao nhất trong triều. Chàng đãi đằng họ thật sang trọng. Chàng mời tể tướng ngồi lên ghế danh dự, hết lời ngợi ca lão, trong lòng không mảy may ngờ vực mưu đồ đen tối của lão cáo già.
Trong khi mọi người đang cùng nhau dùng tiệc, cùng nhau uống những loại rượu tuyệt vời, thì tên Abunfata phản trắc ấy khéo léo bỏ vào ly rượu của chàng Abuncaxem mà không để những người khác trông thấy, một loại bột có độc tính làm người uống lăn ra mê man bất tỉnh. Người bị ngấm chất độc đổ vật xuống ngay, ai nhìn cơ thể người bị nạn lúc này sẽ tưởng nhìn thi hài một người đã qua đời đâu từ mấy hôm về trước.
Quả vậy chàng trai vừa nâng ly rượu lên môi nhấp một ngụm là lảo đảo ngay tức khắc. Gia nhân vội tiến đến đỡ, nhưng chỉ trong nháy mắt chàng đã biểu hiện dấu hiệu như người đã chết hẳn rồi. Bọn gia nhân vội bế chàng đặt nằm trên trường kỷ và hoảng hốt thốt lên những tiếng kinh hoàng. Các vị thực khách cũng thảng thốt không kém. Ai nấy đều cực kỳ kinh ngạc. Còn lão Abunfata thì thật khó hình dung lão vờ vịt tài tình tới mức nào. Không chỉ bằng lòng biểu lộ một nỗi đau sâu đậm, lão còn tự cấu rách áo quần, làm cho mọi người cũng đâm lây nỗi buồn của lão. Lão ra lệnh bọn gia nhân hãy chuẩn bị một cỗ quan tài đẹp bằng ngà voi và gỗ mun. Trong khi mọi người mải lo việc ấy thì lão truyền tịch biên tất cả gia sản của chàng trai, tạm ký gửi vào kho tàng trong cung điện nhà vua.
Trong thời gian ấy, tin đồn về việc chàng trai đột ngột qua đời lan truyền khắp thành phố. Tất cả mọi người dân, nam cũng như nữ đều để tang, rồi lũ lượt để đầu trần đi chân đất đến viếng trước dinh cơ của chàng. Từ các cụ già đến những người trai tráng, từ các bà lão đến các em thiếu nữ, ai cũng lớn tiếng thở than khóc lóc. Người này nói vậy là coi như mình vừa mất đi đứa con trai độc nhất, người thì bảo như thể vừa quá cố một người anh em thậm chí một người chồng yêu quý. Người giàu như người nghèo, ai ai cũng xúc động về cái chết của chàng trai. Những người giàu tiếc thương một người bạn vẫn thường xuyên mời họ đến đãi đằng. Những người nghèo cảm thấy từ nay không còn nữa một vị ân nhân làm phúc chẳng bao giờ biết nản. Thật là một sự đau buồn chung cho toàn thành phố.
Tiến hành xong lễ khâm liệm trọng thể chàng Abuncaxem đáng thương, nhân dân thành phố Basra theo lệnh của chính tể tướng Abunfata, đưa quan tài chàng ra ngoài thành phố đến một nghĩa trang lớn, ở đó có một phần mộ chung cực kỳ sang trọng và rộng rãi trong đấy quàn thi hài thân sinh lão tể tướng cùng một số người khác trong gia đình lão.
Đến tối, mọi người ra về hết, chỉ còn lại tể tướng cùng với hai tên nô lệ của lão. Chúng khoá trái cổng ngăn lối dẫn xuống phần mộ. Rồi chúng đốt đèn lên, cho nước vào một cái chậu bằng bạc đun nóng. Sau khi đưa chàng trai ra khỏi quan tài, chúng dùng nước nóng rửa ráy cho chàng. Chàng trai dần dần tỉnh lại. Mở mắt nhìn, chàng nhận ra Abunfata:
- Ôi, chúng ta đang ở chốn nào vậy, hỡi ngài? Tại sao tôi lâm vào thảm cảnh này?
Tể tướng đáp:
- Tên khốn kiếp kia, hãy biết rằng chính ta gây nên cho mày nỗi bất hạnh này. Ta sai đưa mày đến đây để mày rõ quyền lực của ta. Ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình để mày khai ra cho ta rõ mày giấu kho báu ở đâu. Ta sẽ phân thây rứt xác mày ra. Mỗi ngày ta sẽ ch mày nếm nhiều trận đòn mới, cho mày không sao chịu đựng nổi. Ta sẽ chẳng ngừng tay hành hạ mày kỳ cho đến lúc mày chịu cung khai và chuyển cho ta bao nhiêu là của cải từng cho phép mày sống xa hoa lộng lẫy hơn các nhà vua.
- Ông muốn làm gì cứ làm- Abuncaxem nói- tôi sẽ chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho báu ở nơi nào.
Chàng trai chưa dứt lời, tên Abunfata đốn mạt đã sai hai tên nô lệ giữ chặt lấy chàng, rồi lão rút từ dưới tấm áo chùng ra một sợi roi da tết bằng da sư tử có gai sắc và bắt đầu đánh chàng, đánh vừa dữ vừa lâu đến nỗi chàng đau đớn ngất xỉu.
Thấy chàng trai trong tình cảnh ấy, lão tể tướng lệnh cho hai tên nô lệ đặt chàng trở lại quan tài, để nguyên như cũ trong gian phần mộ, rồi khoá chặt cửa ra về.
Sáng hôm sau lão vào triều tâu trình nhà vua những việc đã làm:
- Tâu hoàng thượng- lão nói- hôm qua tôi nhận thấy tên Abuncaxem khá cứng đầu, nó vẫn còn ngang bướng, nhưng tôi tin rồi nó không chịu đựng nổi những trận đòn mới tôi dành cho nó đâu.
Nhà vua vốn cũng là người dã man không kém, nói:
- Tể tướng à, ta lấy làm hài lòng về ông. Ta hy vọng rồi đây tên ấy sẽ khai cho chúng ta rõ kho báu ở đâu. Tuy nhiên lúc này ta cần cho sứ giả của hoàng đế trở về, không thể chậm trễ hơn nữa. Ông bảo ta nên viết những gì trình Đấng thống lĩnh các tín đồ?
- Xin ngài hãy tâu với hoàng đế, vừa nghe tin sắp được phong vương, tên Abuncaxem vui mừng quá đỗi, vội mở hội vui chơi trác táng sa đà với bạn bè, rồi vì quá chén hắn ta đã lìa đời.
Nhà vua cho tể tướng nói phải, vội viết thư trả lời, giao sứ giả mang về trình hoàng đế.
Lão tể tướng độc ác chắc nẫm nội trong ngày hôm nay chàng Abuncaxem thế nào cũng phải mở miệng khai ra cho lão biết chỗ giấu kho tàng, vội vã lên đường ra ngoài thành phố, quyết tâm tra khảo chàng ác hung tợn hơn nữa. Đến phần mộ, lão rất ngạc nhiên thấy cổng gian mộ mở toang hoang. Lão xộc vội vào, chẳng nhìn thấy chiếc quan tài đựng chàng trai đâu, lão bối rối tưởng chừng đến mất trí. Lão hấp tấp trở lại hoàng cung, tâu vua rõ. Kinh hoàng, tên vua nói:
- Này, ông tể tướng ơi, rồi thân phận chúng ta sẽ ra sao? Anh chàng ấy trốn thoát, chắc chúng ta mất mạng. Thế nào nó chẳng lên đường về kinh đô Batđa, tìm cách tâu trình hoàng đế.

Chương 2 (H): NGÀY 14, 15

NGÀY THỨ MƯỜI BỐN.
Về phần mình, lão tể tướng cũng thất vọng và lo âu không kém. Tuy nhiên lão vẫn nói cứng với nhà vua:
- Giá mà trời bắt tội tên ấy chết đi, vua tôi ta đã không đến nỗi phải lo âu thế này! Dù sao xin chớ vội tuyệt vọng. Nếu nó chạy trốn, mà có thể tin mười mươi như vậy, chắc nó cũng chưa thể đi đâu xa. Cần huy động tất cả lính tráng trong đội vệ binh của triều đình, cho lùng xục khắp vùng phụ cận thành phố, tôi tin rằng chúng ta sẽ lại tóm được nó thôi.
Nhà vua ra lệnh thực hiện ngay lập tức cuộc lùng xét vô cùng quan trọng cho số phận y. Mọi quân sĩ được tập trung lại, chia làm hai mũi, một mũi giao tể tướng chỉ huy, một đội đích thân vua cầm quân, thế là quân sĩ được rải ra lùng xục khắp nơi mọi chốn trong vùng nông thôn.
Trong khi hai đội binh sĩ này đang lục lọi khắp làng mạc rừng rậm núi cao, thì tể tướng Giapha đã từ kinh đô Batđa khởi hành đi Basra. Trên đường ông gặp sứ giả của hoàng đế trở về. Sứ giả nói:
- Trình ngài, nếu việc của Abuncaxem là nguyên nhân chính khiến ngài phải cất công thực hiện chuyến công du này, thì xin ngài chớ nên mệt sức đến tận Basra làm chi. Chàng trai đã qua đời. Tang lễ chàng vừa diễn ra mấy hôm trước. Chính tôi tận mắt chứng kiến cảnh tượng buồn đau ấy.
Tể tướng Giapha vốn rất náo nức được tự mình gặp vị tân vương và giao chiếu chỉ cho ông, nghe vậy buồn rầu vô hạn. Ông tuôn rơi nước mắt, rồi nghĩ sự tình đã thế thì chẳng cần mất công đi tiếp nữa, liền quay ngựa trở về kinh đô.
Vừa đến nơi, tể tướng vội vã cùng sứ giả vào luôn hoàng cung. Nhìn thấy vẻ mặt sầu não của hai người, hoàng đế nghĩ chắc sắp được tâu trình tin không vui đây:
- Ồ, tể tướng Giapha, sao ông trở về nhanh vậy? Ông có gì tâu với ta đấy?
Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ,- tể tướng đáp- chắc hẳn ngài chẳng chút chờ đợi tin buồn tôi sắp trình đây. Chàng Abuncaxem không còn nữa. Chàng đã qua đời sau khi hoàng thượng rời khỏi thành Basra.
Hoàng đế Harun An Rasit vừa nghe đến đấy, đã bổ nhào khỏi ngai vàng. Vua ngã vật ra đất, ngất xỉu. Mọi người vội xúm vào cấp cứu. Tỉnh dậy, nhìn thấy viên sứ giả, nhà vua sai đưa ông xem bức thư của quốc vương Basra. Cầm bức thư, vua đọc rất chăm chú. Sau đó nhà vua lui về thư phòng riêng cùng với tể tướng Giapha. Vua trao bức thư phúc đáp của quốc vương Basra cho ông này cùng xem. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, hoàng đế phán:
- Ta thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào. Vua Basra và viên tể tướng của y thật đáng nghi. Đáng nhẽ thi hành lệnh của ta, chúng nó đã tìm cách hãm hại Abuncaxem.
Đến lượt tể tướng Giapha nói:
- Muôn tâu hoàng đế, bản thân tôi cũng nghi ngờ giống như ngài. Tôi nghĩ ta nên ra lệnh bắt giữ cả hai tên.
Hoàng đế nói:
- Do vậy, ta quyết định đây: ngay lập tức ông lấy mười nghìn người ngựa trong đội vệ binh của ta thẳng Basra. Hãy bắt giữ ngay hai tên thủ phạm và dẫn về đây cho ta. Ta muốn trả thù cho con người hào hiệp nhất thế gian.
Vâng lời, tể tướng Giapha chọn luôn mười nghìn kỵ sĩ rồi hối hả lên đường.
Giờ chúng ta hãy quay trở lại với chàng Abuncaxem của chúng ta. Người thuật chuyện xin được nói rõ tại sao khi quay trở lại nghĩa trang, viên tể tướng Abunfata không nhìn thấy chàng, mà chính lão đã nhốt và khoá trái lại trong ấy. Hoá ra chàng trai trẻ của chúng ta, sau khi ngất xỉu hồi lâu, bắt đầu hồi tỉnh khi cảm thấy có những cánh tay mạnh mẽ nâng mình ra khỏi quan tài, đặt nằm xuống đất. Chàng vẫn tưởng đấy là lão tể tướng cùng hai tên nô lệ trở lại hành hạ mình. Chàng nói:
- Này những tên đao phủ kia, nếu chúng mày còn có chút nào lòng thương xót thì hãy giết chết ta ngay đi; chớ có tra khảo thêm nữa, vô ích mà thôi. Ta thề cho dù có dùng nhục hình đến đâu, chúng mày cũng chẳng cạy được miệng ta.
Một người nào đó đáp:
- Xin chớ lo sợ nữa, hỡi chàng trai, chẳng phải chúng tôi đến tra khảo chàng đâu, mà chính để cứu giúp chàng.
Nghe vậy, Abuncaxem mở mắt, nhìn những người đến giải thoát mình, và nhận ra trong số ấy có cả cô tiểu thư mà chàng đã trỏ cho xem kho báu. Chàng thốt lên:
- Ôi, thưa bà, chính nhờ có bà mà kẻ này được cứu sống chăng?
- Đúng vậy thưa ngài,- nàng Banki đáp- chính em đây, chính em cùng với hoàng thân Aly tình quân của em, người ngài nhìn thấy kia. Biết rõ tấm lòng hào hiệp của ngài, chàng muốn chia sẻ cùng em niềm vui được giải thoát ngài khỏi cái chết.
- Quả đúng như vậy,- hoàng thân Aly tiếp lời- tôi thà nghìn lần xông pha hiểm nguy, còn hơn chịu để cho một con người đại lượng như ngài lâm nạn.
Chàng trai con thương nhân Apđêlazit hoàn toàn hồi sức sau khi được những người đến cứu cho uống một loại thần dược nào đó, vội vàng bày tỏ với tiểu thư Banki và hoàng thân Aly những lời cảm ơn sâu đậm nhất. Chàng hỏi làm sao họ biết chàng còn sống. Nàng Banki đáp:
- Thưa ngài, thì em là con gái tể tướng Abunfata mà. Em làm sao mắc lởm những lời đồn đại về cái chết của ngài. Em ngờ chính cha em đã gây nên những chuyện ấy. Em đã gạn hỏi một tên nô lệ, y thú nhận với em tất cả mọi sự. Tên ấy là một trong hai đứa đã ở lại trong phần mộ hôm ấy với cha em. Nó lại là người được giao giữ chìa khoá, thành ra nó sẵn sàng trao ngay chìa khóa mộ cho em. Em vội báo tin cho hoàng thân Aly biết. Chàng đến ngay lập tức cùng với mấy gia nhân tin cẩn nhất. Chúng em cấp tốc chạy đến đây, ơn trời không đến nỗi quá muộn.
- Ôi, lạy Thượng đế!- Abuncaxem thốt lên- làm sao một tên khốn kiếp dường ấy lại sinh hạ được một người con gái nhân hậu dường này!
Hoàng thân Aly nói:
- Ngài ơi, chúng ta chớ để mất thời gian. Tôi tin chắc sáng mai, khi tể tướng đến đây và không trông thấy ngài trong phần mộ, ông sẽ cho lùng xục tìm kiếm khắp mọi nơi. Vậy tôi sẽ đưa ngài về nhà tôi, ở đó ngài sẽ bình yên vô sự. Chẳng ai nghi tôi là người có thể giúp cho ngài nơi ẩn náu.
Thế là hoàng thân đưa một cái áo nô lệ cho Abuncaxem mặc. Sau đó mọi người cùng ra về, cứ để phần mộ mở toang như vậy. Nàng Banki trở về nhà trao trả chiếc chìa khoá cho người nô lệ, trong khi hoàng thân lui về nhà mình cùng với Abuncaxem. Hoàng thân giấu chàng một nơi kín đáo, khiến các kẻ thù của chàng chẳng sao hay biết.
NGÀY THỨ MƯỜI LĂM.
Abuncaxem sống trong nhà hoàng thân Aly. Chàng được đối xử rất tử tế, cho đến khi nhà vua và viên tể tướng của y thất vọng không sao tìm thấy chàng nữa, cho rút quân ra về. Lúc này hoàng thân Aly cấp cho chàng một con ngựa tốt, lại cho chàng một số lớn đồng xơcanh vàng cùng nhiều viên ngọc quý, và bảo:
- Bây giờ ngài có thể trốn đi. Chẳng có ai ngăn cản ngài trên đường nữa. Kẻ thù của ngài chẳng rõ ngài đã biến mất đâu. Giờ ngài muốn đi đến chốn nào, xin tuỳ ý.
Chàng Abuncaxem cảm tạ hoàng thân về những nghĩa cử của ông, khẳng định với hoàng thân suốt đời chẳng bao giờ chàng quên ơn này. Hoàng thân ôm hôn chàng, còn đứng nhìn chàng trai ra đi và thầm cầu mong Thượng đế dắt dẫn cho chàng. Abuncaxem lên đường đến Batđa, và may mắn sau mấy ngày đường chàng tới được kinh thành.
Việc đầu tiên của chàng khi đến kinh đô là tìm tới nơi các nhà buôn vẫn thường tụ họp với nhau. Chàng hy vọng có thể gặp lại ở đây vị thương nhân mà chàng từng đãi đằng những ngày nào ở Basra để thuật lại bao nhiêu điều bất hạnh xảy đến cho mình sau lần gặp ấy, coi đấy sẽ là niềm an ủi duy nhất. Chàng hết sức buồn phiền chẳng sao tìm được. Chàng đi khắp nơi trong thành phố, gặp ai cũng có nhìn xem có nét gì hao hao giống vị thương nhân hôm nào chăng. Khi đã quá mệt, chàng dừng chân ngồi nghỉ trước cung của hoàng đế. Tên hầu trẻ tuổi mà chàng đã biếu nhà vua, hôm ấy tình cờ đến bên cửa sổ, nhìn xuống đường trông thấy và nhận ra chàng. Nó vội chạy tìm gặp hoàng đế Harun An Rasit và nói:
- Muôn tâu, tôi vừa nhìn thấy ông chủ cũ của tôi hồi ở Basra.
Thoạt tiên hoàng đế không tin:
- Chắc mày nhầm đấy. Abuncaxem không còn nữa. Hẳn mày trông thấy ai đó mà mày ngỡ là chủ cũ của mày.
- Không phải thế đâu, tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ. Tôi xin quả quyết là chính ông chủ, tôi đã nhận ra ông.
Mặc dù không tin, hoàng đế cũng muốn làm rõ. Vua sai một võ quan theo tên hầu trẻ xuống đường ngay, xem thử con người ấy có đúng là chàng con trai của thương nhân Apđêlazit ngày trước hay không. Họ trông thấy chàng vẫn ngồi yên ở chỗ ấy, bởi chính chàng cũng vừa nhìn thấy tên hầu trẻ, chàng chờ may ra nó còn quay trở lại bên cửa sổ lần nữa.
Biết chắc đây là ông chủ Abuncaxem rồi, tên hầu trẻ vội quỳ mọp dưới chân chàng. Abuncaxem đỡ nó dậy, hỏi bây giờ nó được vinh dự hầu hạ hoàng đế hay sao. Tên hầu đáp:
- Vâng, đúng vậy. Bởi người mà hôm nào ngài tiếp đãi ở Basra chính là Đấng thống lĩnh các tín đồ. Chính ngài mang cháu ra làm tặng vật biếu hoàng đế ấy mà. Xin mời ngài hãy đi theo cháu, chắc hoàng đế sẽ vui lòng gặp lại ngài.
Nghe vậy, chàng trai cực kỳ kinh ngạc. Chàng khấp khởi đi theo viên võ quan và tên hầu, chẳng mấy chốc đến tận phòng hoàng đế Harun. Lúc này vua đang ngự trên ngai. Người có vẻ vô cùng xúc động trông thấy Abuncaxem. Hoàng đế vội vàng bước xuống khỏi ngai vàng, tiến lên mấy bước đón chàng trai, rồi hết sức vui mừng ôm chặt lấy chàng hồi lâu. Sau khi đã qua cơn xúc động, hoàng đế ngỏ lời nói với chàng:
- Này, hỡi chàng trai trẻ, hãy mở to mắt ra mà nhìn người đồng thực khách diễm hạnh của anh hôm nào. Ta chính là vị thương nhân đã may mắn được anh đãi đằng nồng hậu. Anh đã biếu ta nhiều tặng vật quý hiếm hơn cả tặng phẩm của các nhà vua.
Nghe nói, Abuncaxem bối rối không thể nào tả xiết. Lúc mới bước vào, chàng không dám nhìn thẳng vào hoàng đế, giờ chàng ngước mắt ngó cho kỹ, và nhận ra ngay người thực khách. Chàng kêu lên:
- Ôi, đấng chúa tể của tôi, vị đế vương của toàn thế giới! Có thật chính ngày đã từng hạ cố đến tận nhà kẻ nô lệ của ngài?
Vừa nói, chàng vừa phủ phục dưới chân hoàng đế, mặt úp sát đất. Hoàng đế đỡ chàng đứng lên, cho phép ngồi xuống một chiếc trường kỷ, bên cạnh mình. Rồi hoàng đế hỏi:
- Có thể nào anh vẫn còn sống trên đời này?
Vậy là Abuncaxem bắt đầu thuật lại hầu hoàng đế đầu đuôi câu chuyện, kể ra mọi tội ác của lão Abunfata, cũng như bằng cách nào chàng may mắn thoát khỏi bàn tay độc ác của lão già. Hoàng đế lắng nghe rất chăm chú, rồi bảo chàng:
- Chính ta là nguyên nhân dẫn đến mọi nỗi bất hạnh của anh. Trở về Bátđa, ta muốn đền đáp cho anh món ân huệ. Ta đã phái sứ giả đến Basra, truyền cho nhà vua bên ấy hãy trao lại ngôi báu cho anh. Đã không chịu thi hành chiếu chỉ của ta, chúng nó còn đang tâm tìm cách hãm hại anh. Anh nên biết rằng, sau khi bị đánh thuốc mê, chẳng bao lâu nữa lão Abunfata sẽ giết anh. Sở dĩ lão còn để cho anh sống, chính vì lão hy vọng có thể dùng nhục hình ép anh khai ra nơi cất giấu kho báu vật. Nhưng rồi đây anh sẽ được báo thù. Ta đã sai tể tướng Giapha mang một đạo quân lớn tới Barsa, đã lệnh cho ông bắt giữ ngay những kẻ đã hành hạ anh và áp giải chúng về đây. Trong thời gian này, anh hãy ở ngay trong cung của ta. Anh sẽ được mọi người trong hoàng cung phục dịch như chúng hầu hạ chính ta vậy.
Nói xong vua đứng lên, cầm tay dẫn chàng trai xuống một khu vườn ở đó có những loài hoa cực hiếm. Xen giữa hoa tươi có nhiều cái bể xây bằng cẩm thạch, hoàng thạch, vân thạch. Trong bể các đàn cá tung tăng bơi lội. Chính giữa vườn là một khu nhà trống, chung quanh dựng mười hai cây cột rất cao bằng cẩm thạch đen tuyền, trên cùng là một mái vòm bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội. Nối liền các cột có hai lớp lưới đan bằng những sợi vàng ròng, tạo thành một cái lồng chim khổng lô trong đó vô vàn các loại sơn ca, hoàng anh, bạch yến… cùng muôn loài chim chóc khác lông cánh sặc sỡ đủ màu thi nhau bay lượn và cất tiếng hát líu lo.
Hóa ra nhà tắm của hoàng đế Harun An Rasit xây ngay dưới mái vòm này. Hai người cùng xuống tắm. Sau đó các kẻ hầu mang đến những chiếc khăn tắm bằng vải mịn nhất, chưa dùng lần nào. Họ mặc cho Anbuncaxem trang phục sang trọng nhất. Tiếp đó, hoàng đế đưa chàng trai tới một căn phòng, cho phép chàng cùng ngồi dùng bữa với mình. Các nô tì mang đến dâng nước ép thịt cừu cùng các loại sản phẩm làm từ sữa. Rồi nào các quả lựu trồng ở xứ Amlat và xứ Ziri, tạo đặc sản vùng Êhan, nho nguyên chủng ở Mêlat và Xêvi, lê thành phố Ispahan. Sau khi dùng nước thịt ép và các loại trái cây, họ được dâng một loại rượu nho tuyệt diệu. Sau bữa, hoàng đế đích thân dẫn chàng trai đến chào hoàng hậu Zôbêit.
Hoàng hậu bấy giờ đang ngữ trên chiếc ngai vàng trong cung riêng dành cho bà, hai bên tả hữu các nô tì xinh đẹp xếp hành ngay ngắn. Những người này đệm trống cơm, những người kia thổi sáo trúc, những người khác nữa chơi đàn dây. Tuy nhiên lúc này họ chưa tấu nhạc. Tất cả đang đứng im lắng nghe một cô gái xinh đẹp nhất trong số nô tì có mặt ở đấy hát một bài ca, mà đại ý là: Trong đời chỉ nên yêu một lần, song đã yêu thì yêu đến trọn đời. Trong khi cô ấy hát, người nữ tì mà Abuncaxem từng dâng tặng hoàng đế hôm gặp nhau ở Basra đệm nhạc bằng cây đàn tì bà làm bằng gỗ lô hội, ngà voi, trầm hương và gỗ mun đen tuyền.
Nhác thấy hoàng đế cùng chàng con trai vị thương nhân Apđêlazit bước vào, hoàng hậu vội xuống ngai nghênh đón. Nhà vua nói:
- Thưa bà, xin được giới thiệu với hoàng hậu ông chủ trẻ từng tiếp đón ta hôm nọ ở thành phố Basra.
Chàng trai vội phủ phục dưới chân hoàng hậu, mặt úp sát đất. Trong khi chàng đang quỳ mọp như vậy thi có sự rối loại trong đám thị tì. Hóa ra cô gái vừa hát dở bài ca lúc nãy, chợt nhìn thấy Abubcaxem, liền ngả xuống đất bất tỉnh nhân sự.

Chương 2 (I): NGÀY 16

NGÀY THỨ MƯỜI SÁU.
Hoàng đế và hoàng hậu cùng quay lại nhìn cô gái. Chàng Abuncaxem sau khi đứng lên cũng quay sang nhìn. Vừa trông thấy nàng, chàng trai cũng ngất xỉu luôn chàng. Mắt nhắm nghiền, mặt chàng tái xanh tái xám, tưởng như sắp chết tới nơi. Hoàng đế vội vã đỡ chàng trai, ôm chặt vào người, nhờ vậy chàng dần dần hồi tỉnh.
Khi tỉnh trí được rồi, chàng thưa với hoàng đế:
- Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài đã biết rõ chuyện từng xảy ra với tôi hồi ở thành phố Cairo. Người nữ tì ngày ngài đang nhìn thấy kia chính là cung nhân đã bị ném xuống dòng sông Nin năm nào, đấy chính là nàng Đacđanê.
- Có thể nào như vậy chăng? – Hoàng đế thốt lên – muôn vàn lần tạ ơn trời đất đã xui khiến nên cuộc hạnh ngộ kỳ diệu này.
Trong thời gian ấy, cô nữ tì được các bạn cứu giúp cũng dần hồi tỉnh. Nàng định phủ phục dưới chân hoàng đế. Nhà vua vừa kịp ngăn lại, và hỏi bởi phép thần nào nàng còn sống sau khi đã bị ném xuống giữa dòng sông Nin. Nàng đáp:
- Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, may mắn sao hôm ấy em rơi vào chiếc lưới của người ngư phủ, đúng lú người ấy đang kéo lưới lên. Ông ta rất ngạc nhiên sao minh đánh được vật lạ thế này. Nhận thấy em còn thoi thóp, ông vội đưa em về nhà cứu chữa. Em thuật lại cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện. Ông tỏ ra kinh hãi lắm, sợ hoàng đế nước Ai Cập nhỡ ra biết rõ ông đã cứu sống em. Lo sợ nếu cưu mang em thì có thể mất mạng sống của chính mình, ông vội vàng bán em cho một nhà buôn nô lệ sắp lên đường tới thành phố Batđa. Nhà buôn ấy mang em đến kinh đô, ít lâu sau dâng trình hoàng hậu Zôbêit, và vinh hạnh em được hoàng hậu nhận mua.
Trong khi cô gái thuật chuyện, hoàng đế chăm chú quan sát cô. Vua thấy cô ta quả có sắc đẹp tuyệt vời. Chờ nàng kể xong, hoàng đế nói với Abuncaxem:
- Chàng trai à, giờ ta không còn lấy làm ngạc nhiên nữa, tại sao anh cứ một lòng thương nhớ không nguôi người đẹp này. Ta cảm tạ trời đất đã dun dủi cho cô ấy đến đây, giúp ta có cơ hội trả cái ơn ta chịu ở anh. Từ giờ phút này, Đacđanê không còn là nô lệ nữa, cô ấy đã trở thành người tự do. Thưa hoàng hậu, - hoàng đế quay sang nói với bà Zôbêit – ta tin bà không phản đối việc ta trả lại tự do cho cô ấy.
- Không những em không phản đối, tâu hoàng đế, - bà nói – em còn rất vui mững được đồng tình với ngài. Em chúc cho đôi tình nhân này được hưởng chọn mọi lạc thú một cuộc hôn nhân lâu dài và hạnh phúc, sau khi bị chia lìa mỗi người một phương bấy nhiều điều bất hạnh.
- Chưa phải chỉ có thế mà thôi,- hoàng đế nói tiếp- ta muốn rằng hôn lễ sẽ được cử hành ngay tại cung điện của ta, và cho phép nhân dân kinh thành Batđa mở hội vui chơi trong ba ngày liền. Bởi ta chẳng biết cách nào đối xử trọng hậu hơn với ông chủ từng hào hiệp đón tiếp ta.
Abuncaxem một lần nữa lại phủ phục dưới chân hoàng đế:
- Ôi, muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài không chỉ là bậc đế vương cao cả hơn mọi vị vua chúa trên đời, ngài còn là con người hào hiệp nhất trên thế gian. Xin cho phép tôi được trình với ngài nơi cất giấu kho báu, tất cả vàng bạc châu báu trong kho từ nay không thuộc sở hữu của tôi nữa, tôi xin được hiến dâng hoàng đế.
- Không đâu,- hoàng đế đáp- anh hãy yên tâm hưởng thụ mọi tài sản anh có, thậm chí ta còn khước từ quyền tối cao của ta trong vụ nay, ta chúc hai người có cuộc sống thật dài lâu để tiêu pha cho hết của cải trong kho tàng.
Hoàng hậu Zôbêit truyền cho chàng con trai thương nhân Apđêlazit và nàng Đacđanê tường thuật đầy đủ mọi câu chuyện từng xảy ra với hai người. Bà sai sử thần chép lại bằng chữ vàng lưu giữ trong văn khố. Tiếp đó, hoàng đế ra lệnh tiến hành hôn lễ cho hai người. Đám cưới cử hành rất huy hoàng. Nhân dân kinh thành còn đang hội hè vui chơi mừng đôi nam nữ, thì chợt thấy tể tướng Giâph rầm rộ kéo quân trở về, áp giải theo viên quan độc ác Abunfata bị trói gô. Còn quốc vương từng trị vì thành phố Basra, vì quá lo âu không lùng bắt được Abuncaxem, đã khiếp đảm mà bỏ mạng trước rồi.
Sau khi tể tướng Giâph tâu trình xong mọi chuyện với hoàng đế, người ta cho dựng lên một đoạn đầu đài và dẫn tên Abunfata độc ác đến đấy. Dân chúng trong kinh thành, biết rõ mọi tội ác của lão, tuyệt nhiên không ai thương hại mà ai ai cũng nóng lòng chứng kiến cuộc hành hình. Đao phủ đã bước tới, mã tấu lăm lăm cầm tay, sắp sửa thi hành mệnh lệnh, thì chàng Abuncaxem vội vã phủ phục dưới chân hoàng đế Harun van xin:
- Muôn tau Đấng thống lĩnh các tín đồ, cúi xin ngài hãy chấp nhận lời cầu khẩn của tôi cho Abunfata khỏi bị gia hình. Xin ngài hãy cho y được sống, cho y được tận mắt nhìn thấy hạnh phúc của chúng tôi, được tận mắt nhìn thấy mọi ân huệ ngài ban cho tôi, như vậy há chẳng phải là sự trừng phạt nặng nề nhất cho y rồi sao
Hoàng đế thốt lên:
- Ơi anh chàng Abuncaxem quá đỗi rộng lượng, anh thật xứng đáng làm vua. Hạnh phúc thay cho nhân dân thành phố Basra được anh trị vì!
- Muôn tâu, tôi còn muốn được cầu xin hoàng thượng ban cho một ân sủng nữa. Xin ngài hãy ban cho hoàng thân Aly chiếc ngai vàng ngài đã hạ cố dành cho tôi. Để hoàng thân có cơ hội cùng với nàng tiểu thư đã hào hiệp cứu mạng sống của tôi khỏi sự hung ác của cha nàng. Đôi uyên ương ấy quả xứng đáng với ân huệ của ngài. Về phần tôi, được Đấng thống lĩnh các tín đồ quý mến và che chở, như vậy là tôi đã quá hạnh phúc rồi, như vậy còn quý hơn cao sang hơn tất cả mọi quân vương khác trên đời.
Hoàng đế chấp thuận. Để thưởng công hoàng thân Aly về những việc chàng đã làm cho con trai thân thương Apđêlazit, hoàng đế sai mang chiếu chỉ sang phong cho hoàng thân làm vua thành Basra. Tuy nhiên nhận thấy Abunfata phạm nhiều tội ác quá nặng nề không thể vừa tha cho tội chết vừa cho y được tự do, hoàng đế sai giam lão trọn đời trong ngục tối. Khi nhân dân thành phố Batđa hay tin đích thân người bị hại đã đứng ra xin hoàng đế ân xá cho kẻ làm hại mình, mọi người hết lời khen ngợi Abuncaxem.
Chẳng bao lâu sau, chàng lên đường trở về Basra cùng với nàng Đađanê yêu quý của mình, có sự hộ tống của một đội quân trong đạo vệ binh của hoàng đế cùng nhiều võ quan.
Kể đến đấy, bà nhũ mẫu Xutlumêmê ngừng câu chuyện về chàng Abuncaxem người thành phố Basri. Tất cả người hầu của công chúa nước Casơmia đều dồn dập vỗ tay hoan hô. Những người này ca ngợi vẻ hào hoa và lòng hào hiệp của chàng trai người Basri; những người khác quả quyết hoàng đế Harun An Rasit đại lượng chẳng thua kém chàng. Những người khác nữa, quan tâm nhiều hơn đến tình yêu chung thủy, lại cho rằng quý hơn hết thảy trên đời, là chàng Abuncaxem tỏ ra một tình nhân thật sự chung tình. Đến lúc này công chúa Farucna mới ngỏ lời nói lên quan điểm của mình như sau:
- Tôi không đồng ý với ý kiến của các người. Cho dù nàng Danki đã không làm cho Abuncaxem lãng quên được nàng Dacđanê, tôi vẫn muốn rằng một chàng trai đang yêu, nhỡ khi người yêu mình chẳng may qua đời, sẽ chẳng bao giờ còn cảm thấy rung động trước một tình yêu khác mới chớm nở. Nhưng trên đời này, bói đâu ra người đàn ông kiên trì và chung thủy đến vậy.
- Xin công chúa thứ lỗi – bà Xutlumêmê lên tiếng- vẫn có những đấng nam nhi mà vẫn sự chung tình trải qua muôn vàn thử thách. Công chúa sẽ tin chắc điều đó, nếu như nàng vui lòng nghe tôi kể câu chuyện giữa quốc vương Ravansat với công chúa Sêhêristani.
- Ừ thì nghe,- công chúa Farucna đáp- ta cho phép bà kể đấy. Được lời, bà nhũ mẫu bắt đầu kể chuyện mới sau đây.

Chương 3: CHUYỆN QUỐC VƯƠNG RUVANSAT VÀ CÔNG CHÚA SÊHÊRISTANI

Ngày xưa, ở nước Trung Hoa có một nhà vua tên là Ravansat. Một hôm trong khi đi săn, vua chợt bắt gặp một con hươu cái lông trắng điểm những đốm xanh và đên, chân đeo những chiếc khuyên vàng, trên lưng phủ một tấm satanh vàng có thêu hoa văn bằng ngân tuyến rất tinh vi.
Thấy một con mồi đẹp đến vậy, nhà vua hết sức mong bắt được nó, vội thúc ngựa đuổi theo. Con hươu trắng tinh khôn bỏ chạy nhanh chóng và nhẹ nhàng đến mức chẳng bao lâu khuất bóng thậm chí không nhìn thấy cả làn bụi đất chân nó làm tung lên khi chạy trốn. Nhà vua buồn rầu thấy bỏ lỡ mất cơ may bắt sống con thú, đang bực mình thì đột nhiên thấy con hươu cái lại xuất hiện. Nó nằm trên bãi cỏ non cạnh một đầm nước, như thể đang nghỉ ngơi cho lại sức sau một hồi bị săn đuổi. Nhà vua thúc ngựa tiến đến gần, nhưng lần này cũng lại không may. Thoáng thấy có người tới, con hươu nhẹ nhàng đứng lên, rồi chỉ cần hai bước nhảy, nó kịp lao luôn xuống đầm, chẳng làm sao nhìn thấy tăm hơi đâu nữa.
NGÀY THỨ MƯỜI BẢY.
Vua nước Trung Hoa vội vàng xuống ngựa. Chàng không ngừng chạy tới chạy lui quanh quẩn bên bờ đầm, lùng xục mọi ngóc ngách, rung cây đẩy lá làm xao động mạnh nước trong đầm, cố tìm cho ra con mồi, song tuyệt nhiên chẳng thấy dấu vết. Nhà vua khá ngạc nhiên về chuyện vừa xảy ra. Viên tể tướng cũng như cả đoàn tùy tùng đều cho là chuyện lạ. Suy đi nghĩ lại, vua tin chắc con hươu cái này chẳng phải là một con vật bình thường như mọi con thú vẫn sống trong rừng. Đây hẳn là một nữ thủy thần thỉnh thoảng hiện lên dưới dạng ấy để trêu tức những người đi săn. Các triều thần đều nhất trí với suy đoán của quốc vương.
Trong thời gian ấy, đôi mắt của vua Ruvansat cứ chăm chăm không rời mặt đầm, và chẳng hiểu do đâu nhà vua chốc chốc lại thở dài. Vua nói với tể tướng:
- Nhất định ta nghỉ qua đêm hôm nay ở chốn này. Ta hiếu kỳ muốn quan sát nữ thuỷ thần ấy. Ta có linh cảm thế nào cũng nhìn thấy nàng xuất hiện trở lại và trồi lên khỏi mặt nước.
Quyết định như vậy rồi, vua cho tất cả mọi người trở lại kinh thành, chỉ giữ riêng tể tướng để cùng nghỉ qua đêm với mình. Hai người ngồi xuống bãi cỏ, tiếp tục đàm đạo về chuyện con hươu cái cho đến khi trời tối hẳn. Lúc này nhà vua cảm thấy mệt mỏi sau cuộc săn, muốn nghỉ ngơi chốc lát. Vua bảo viên triều thần:
- Tể tướng Muêzin này, ta buồn ngủ quá. Ông hãy thức canh trong khi ta ngả lưng nhé. Ông phải luôn luôn nhìn kỹ mặt đầm, nếu trông thấy có vật gì xuất hiện, nhớ đánh thức ta dậy ngay.
Tể tướng cùng mệt mỏi lắm, nhưng để làm hài lòng quốc vương, vẫn cố thức, song cuối cùng không chịu nổi, ngủ thiếp luôn.
Tuy nhiên chẳng ai nghỉ được lâu. Hai người cùng choàng tỉnh khi nghe vẳng lại đâu đấy một nhạc điệu du dương khá gần với nơi họ đang nằm. Hai người còn kinh ngạc hơn nữa, khi cùng nhìn thấy xa xa một toà lâu đài tráng lệ đèn đuốc sáng chưng, một toà nhà mà bàn tay người trần chắc hẳn không thể xây dựng nên. Nhà vua thì thầm với tể tướng:
- Ông Muêzin à, ta chẳng hiểu thế này là thế nào. Những điệu hoà tấu tai chúng ta nghe kia xuất phát từ đâu? Toà lâu đài của ai hiện ra trước mắt chúng ta thế này?
- Tâu bệ hạ- tể tướng đáp- tất cả những thứ ấy thật chẳng bình thường chút nào. Chắc hẳn có bùa ma phép quỷ chi đây. Cầu trời giúp cho chúng ta mau chóng rời xa cái đầm. Toà lâu đài kia chắc chắn là cái bẫy mà một tên ma thuật nào đấy chăng ra để hãm hại hoàng thượng.
- Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa,- nhà vua nói- ông chớ nghĩ ta sẽ khựng lại vì sợ hãi. Chúng ta hãy đến tận toà lâu đài- vua vừa nói vừa đứng lên- xem thử có những người nào đang sống trong đó. Thôi ông chớ có mang tai vạ vịt ra nhát ta. Ông càng tô vẽ ra nhiều chuyện hiểm nguy, càng thôi thúc ta nôn nóng dấn thây vào đấy.
Thấy nhà vua kiên quyết như vậy, tể tướng chẳng dám can ngăn nữa. Hai người cùng tiến đến lâu đài. Đến nơi thấy cổng đã mở sẵn hai người bước qua cổng đi vào một cái sân rộng. Qua khỏi sân vào một gian phòng khoáng đãng, sàn lát toàn bằng gạch men sứ Trung Hoa, trang trí nhiều bức gấm thêu lộng lẫy và bày sẵn nhiều chiếc trường kỷ có bọc đệm quý. Một làn hương nhè nhẹ lan toả khắp căn phòng. Họ đi qua suốt gian phòng rộng ấy mà chẳng gặp một ai. Từ đó sang một phòng khác. Tới đây hai người nhìn thấy một phu nhân trẻ tuổi đang ngự trệ chiếc ngai vàng, sắc đẹp của nàng khiến nhà vua cũng như tể tướng vô cùng kinh ngạc. nàng có vẻ đang chăm chú theo rõi dàn nhạc bằng đàn dây. Tất cả các cô đều ăn vận như nhau những chiếc áo lụa hồng có đính nhiều hạt ngọc. Họ đang trình diễn cho thiếu phụ ngồi trên ngai thưởng thức. Quốc vương Ruvansat cả đời chưa từng nghe những giọng hát mượt mà cũng như tiếng đàn tài hoa đến vậy. Tuy nhiên chàng chẳng mấy quan tâm những thứ ấy. Mắt chàng chỉ đăm đăm dán vào người thiếu phụ ngự trên ngai, người mà đôi mắt có mãnh lực sao lớn lao đến thế.
Nghe nói, thiếu phụ mỉm cười và đáp:
- Tôi chỉ là một con hươu cái có khả năng thuần phục sư tử. Tôi chính là con mồi mà chàng đã săn đuổi suốt ngày hôm nay, buộc nó phải lao xuống đầm nước.
- Ôi, thưa phu nhân, tôi biết nghĩ sao đây về những sự thay hình đổi dạng ấy?- nhà vua nói- Tim tôi đang lo lắng đây. Không rõ lúc này có phải nàng hiện lên dưới một dạng chỉ nhằm đáng lừa tôi chăng?
- Không phải vậy đâu, thưa ngài. Lúc này em đang giữ nguyên dạng của mình. Đúng là em có thể hiện ra dưới bất kỳ hình dạng nào em thích; em có phép để cho người trần nhìn được hoặc không nhìn được thấy em. Những chuyện ấy chẳng phải bùa ma chước quỷ gì đâu. Đấy là một phép thần thông mà em được trời phú cho từ khi cha mẹ mới sinh ra.
Nói đến đây, thiếu phụ rời ngai vàng bước xuống, tiến đến cạnh nhà vua, cầm tay dẫn nhà vua sang một căn phòng khác, ở đó đã bày một cái bàn dọn đủ thứ của ngon vật lạ. Nàng mời quốc vương an toạ, rồi tự mình ngồi xuống giữa nhà vua và tể tướng. Ông này đang lo nẫu ruột gan. Ông nghĩ những chuyện diễn ra trước mắt kia chẳng phải điềm lành, và sẵn sàng chờ đón một sự kiện đáng buồn nào đó sẽ xảy ra.
Đối với quốc vương, lúc này chàng chỉ biết mỗi chuyện là mê mẩn tâm thần trước người đẹp. Vua chẳng buồn quan tâm suy nghĩ điều gì khác có thể làm giảm bớt diễm hạnh được ngắm nghía dung nhan nàng. Vua muốn gắp thức ăn mời nàng cùng dùng với mình, nhưng nàng bảo:
- Xin mời các vị cứ tự nhiên cho. Đối với chúng tôi, hằng ngày chỉ cần ngửi hương hoa và mùi thơm toả lên từ thức ăn là đủ sống rồi.
NGÀY THỨ MƯỜI TÁM.
Nhà vua và tể tướng vừa dùng bữa xong, hai tiểu thư mang đến hai chiếc ly bằng mã não đựng đầy rượu đỏ, mời hai người cạn, rồi đứng cạnh nhờ rót tiếp cho hai ly lúc nào cũng đầy. Người thiếu phụ cũng được dâng rượu, song nàng không động đến một giọt mà chỉ dùng mũi ngửi. Ấy thế mà dường như mùi rượu vẫn tác động đến nàng chẳng khác hơi men đã làm quốc vương bắt đầu cảm thấy người lâng lâng. Hai người chuyện trò ngày càng thắm thiết. Nhà vua thầm thì với thiếu phụ bao lời dịu dàng âu yếm làm nàng không giấu nổi sự xúc động thật sự. Cuối cùng nàng ngỏ lời nói với chàng như sau:
- Cho dù chàng là người trần thế, tức thuộc một loài không được cao bằng thần tiên chúng em, em vẫn không thể ngăn nổi không đem lòng yêu mến chàng. Để chàng thấy mình vừa chiếm đoạt được một mối tình cao quý dường nào, em không thể chần chừ lâu hơn nữa mà không thưa để chàng rõ ngay em là ai. Thưa chàng, chính giữa biển cả mênh mông có một quốc đảo tên là Sêhêristan. Đất nước ấy chỉ có các vị thần cư trú mà thôi, không có người trần thế. Mênutsê là danh xưng nhà vua trị vì quốc đảo ấy. Em là con gái duy nhất của quốc vương, vì vậy tên em là Sêhêristan.
Cách đây ba tháng, em đã từ giã triều đình vua cha. Bởi vì hiếu kỳ muốn được nhìn tận mắt các quốc gia của người trần thế, em đi du ngoạn đó đây. Em đã đi chu du khắp mọi miền trên thế giới. Em sắp trở về quốc đảo của mìn thì hôm qua, đi ngang qua quý quốc, tình cờ em chợt bắt gặp chàng đang săn bắn. Em dừng chân lại xem, nhìn thấy phong thái của chàng em đột nhiên cảm thấy lòng mình rung động; mỗi lần đưa mắt đi nơi khác để không còn thấy hình dáng chàng trước mắt, tự nhiên em trở nên mơ màng trầm uất. Bất giác em thở dài. Em tự lấy làm hổ thẹn về việc ấy, không hiểu sao cho dù không cố ý, mình vẫn không thôi tơ tưởng tới chàng. Em ngượng ngùng đến đỏ bừng mặt. Có nhẽ nào, em tự hỏi, một con người trần thế lại có thể gây nên nỗi trăn trở trong tâm can ta đến vậy? Nhẽ nào một nam nhi người trần mắt thị lại có thể thắng được sự kiêu sa của ta là con gái một nhà vua cai quản các thần linh? Xấu hổ về sự yếu đuối của mình, em những muốn rời xa chàng ngay tức khắc, nhưng chẳng hiểu do đâu chân em cứ khựng lại, tựa hồ con người em đã mất hết mọi sinh lực rồi. Thế là ngả theo tình cảm đắm đuối, em chỉ còn cách làm sao cho anh say đắm. Em hiện thân thành một con hươu trắng cứ vỡn vờ trước mắt chàng cho chàng chú ý. Chàng đã phóng ngựa đuổi theo em. Sau khi lao xuống ẩn mình trong đầm nước. Thế là trong khi chàng ngủ, em sai xây dựng nên toà lâu đài này để nghênh đón chàng. Các vị thần linh vẫn hầu hạ em đã hoàn tất việc tạo lập cung điện này trong chốc lát.
Tiểu thư còn muốn tiếp tục nói chuyện nữa, đột nhiên một cô gái chạy xộc và phòng, vẻ mặt hốt hoảng. Công chúa thoạt nhìn mặt cô gái đã hiểu rõ ngay cái tin không lành cô mang tới cho mình lên đau đớn thét lên một tiếng. Tiếp đó nàng tự đấm vào mặt, và tuôn nước mắt như mưa. Quốc vương nước Trung Hoa vô cùng bối rối trước cảnh tượng ấy. Hết sức cảm thông nỗi buồn của công chúa, vua thấy mình khó có thể chịu đựng lâu hơn nữa nếu không tìm hiểu rõ căn nguyên. Nhà vua định cất lời hỏi, thì vừa lúc cô gái vừa xộc vào lúc nãy, tiến lên mấy bước và thưa với công chúa:
- Ôi, thưa bà hoàng của em, bà biết rõ rồi đấy, cho dù các vị thần linh có trường thọ hơn người trần thế rất rất nhiều, rốt cuộc chẳng thể khác người trần, thần linh cũng sẽ đến lúc phải xa lìa cuộc sống. Phụ vương bà vừa qua đời. Người đã từ cuộc đời có sinh có tử bước vào cõi vĩnh hằng. Nhân dân cả nước đang xôn xao hỏi công chúa lúc này ở đâu. Mọi người trông đợi bà về ngay cho, để kịp tiến hành lễ tấn phong bà lên ngôi báu kế vị phụ vương. Vậy mời bà hãy trở về nước ngay cho, để ra mắt thần dân trong quốc đảo, và để cho mọi người bớt nôn nóng đòi triều đình cử hành luôn những nghi lễ cần thiết để đất nước mau chóng có tân vương. Ngài đại tể tướng phụ thân của em sai em đi tìm, mời bà khẩn cấp trở về ngay quốc đảo chúng ta.
- Thôi đủ rồi, em Maimôna ạ, chị đã hiểu thấu và đánh giá cao sự mẫn cán nhiệt tình của phụ thân em cũng như tình cảm quý báu của em đối với chị. Chị sẽ cùng em lên đường về nước ngay tức khắc. Xin vĩnh biệt, hỡi quốc vương,- công chúa quay lại thưa với vua nước Trung Hoa. Vừa nói nàng vừa chìa ra cho chàng nắm bàn tay xinh đẹp, chàng vội đỡ lấy nâng lên môi hôn thật nồng nàn.- Em phải xa chàng đây. Nhưng chàng hãy tinh chắc chúng ta có ngày tái ngộ. Nếu em nhận thấy mai sau chàng vẫn một lòng yêu em chung thuỷ, thì nhất quyết em sẽ kết duyên với chàng chứ không phải bất kỳ ai khác.
Nói đến đây, công chúa biến mất luôn. Thế là bao nhiêu đèn đuốc đang sáng rực cung điện bỗng nhiên cùng tắt ngấm. Nhà vua và tể tướng thấy mình đang đứng giữa đêm đen dày đặc, ngửa bàn tay ra nhìn không thấy. Họ đành chờ đợi trong tình cảnh ấy cho đến khi trời rạng. Một điều nữa làm nhà vua và tể tướng thêm một lần kinh ngạc không thể nào hiểu nổi, ấy là giờ chẳng hề nhìn thấy đâu lâu đài cung điện, ngược lại hai người chỉ thấy mình đang đứng giữa cánh đồng hoang vu, ngó khắp chung quanh tuyệt nhiên chẳng thấy bóng dáng một căn nhà dù bé tẻo teo. Quốc vương nước Trung Hoa nói với viên đại thần của mình:
- Này, tể tướng Muêzin, có nên xem tất cả những gì vừa xảy ra với chúng ta đêm qua chỉ là một giấc mộng?
Chắc không, tâu bệ hạ- tể tướng đáp.- Theo như tôi nghĩ, đêm qua chắc chắn có phép quỷ bùa yêu. Người thiếu phụ chúng ta gặp hẳn là một mụ yêu tinh dày công tu luyện. Để làm cho hoàng thượng đem lòng yêu thương mà lâm nạn, mụ hiện hình dưới dạng nữ thủy thần duyên dáng. Và tất cả bọn con gái đã đàn ca xướng hát rất hay đêm hôm qua, theo tôi nghĩ, tất cả chẳng qua đều là một duộc quỷ cái chịu khuất phục trước quyền uy con yêu tinh nham hiểm.
Những điều tể tướng Muêzin vừa nói nghe cũng có lý phần nào, song nhà vua quá đắm say nàng công chúa để có thể tin lời ông. Không muốn để tan biến hình ảnh và niềm tin của mình, nhà vua vội vàng lên ngựa quay trở về hoàng cung, quyết giữ mãi trong lòng một kỷ niệm vô cùng dịu dàng và mãnh liệt.
Quả nhiên, cho dù không hề được tin tức gì thêm về nàng công chúa con vua đảo quốc toạ lạc chẳng rõ nơi đâu giữa mênh mông biển cả, trong khi vị tể tướng vẫn không ngớt thuyết phục quốc vương hãy tin cách lý giải của ông, thì nhà vua trở nên tương tư trầm lặng. Vua bỏ hết mọi cuộc chơi, như chẳng hề tìm thấy lạc thú ở bất kỳ hội hè nào ngoài việc săn bắn; mà chủ yếu cũng chỉ săn bắn quanh quẩn vùng có con hươu bạc từng xuất hiện hôm nào, lòng thầm mong có ngày sẽ duyên may gặp lại.
Gần một năm trôi qua từ khi mắc bệnh tương tư, nhà vua vẫn hy vọng người mình từng ngỏ lời yêu đương không phải là một hình bóng mơ hồ trong tưởng tượng. Tuy nhiên dần dà vua cũng bắt đầu ngờ vực, có lẽ những điều trông thấy rốt cuộc chỉ là bùa yêu phép quỷ chăng. Vua nảy ra ý muốn đi du ngoạn một mình, thầm mong cứ tự mình đi đó đây, may ra những hình ảnh sâu đậm hôm nào rồi sẽ nhạt nhoà dần trong ký ức. Vua bèn giao phó toàn bộ việc cai quản đất nước cho tể tướng Muêzin. Mặc cho ông hết lời khuyên can, xin vua chớ nên mạo hiểm du hành đơn độc, không cho bất kỳ ai được theo hầu, quốc vương vẫn khăng khăng giữ ý định của mình. Một đêm, vua một mình một ngựa lặng lẽ lên đường. Con tuấn mã thắng bộ yên cương bằng vàng khảm hồng ngọc, bích ngọc. Trang phục của nhà vua thật sang trọng. Ở thắt lưng vua đeo một thanh đại đao, vỏ đao nạm kim cương lấp lánh.
Sau khi đi qua nhiều vương quốc khác nhau, nhà vua đặt chân đến xứ Tây Tạng. Chỉ còn cách thủ phủ xứ ấy chừng hai ngày đường nữa thôi là đến, vua chợt nhìn thấy bên đường cái một cây cổ thụ lớn toả bóng mát xum xuê. Vua dừng ngựa định nghỉ ngơi chốc lát dưới gốc cây, bỗng trông thấy ở gốc một cây cổ thụ khác không xa, có một người thiếu phụ tuổi có lẽ chưa quá mười chín đôi mươi. Nàng ngồi yên như tượng ở đấy, mặt úp vào lòng hai bàn tay, có vẻ như đang mơ màng suy ngẫm. Nhìn dáng bộ rầu rĩ của người phụ nữ trẻ, nhà vua nghĩ chắc nàng vừa trai qua điều bất hạnh chi đây. Bộ áo quần nàng bận rách tả tơi, dù vậy vẫn có thể nhận ra đấy là một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, bộ dạng xem ra không phải thuộc hạng dân dã. Vua Ruvansat tiến đến gần, hỏi thiếu phụ có gì cần được giúp đỡ hay không, rồi hỏi nàng tên họ là chi. Nàng đáp: Tôi là con gái của vua và hoàng hậu vợ vua. Tôi là bà vua, nhưng giờ đây tôi không còn là tôi.
NGÀY THỨ MƯỚI CHÍN.
Quốc vương Trung Quốc phân vân không biết nên nghĩ sao về người đàn bà này. Vua ngỡ nàng mất trí, liền nói tiếp:
- Thưa bà, xin bà hãy bình tâm trở lại. Tôi sẵn sàng giúp đỡ bà hết lòng trong phạm vi khả năng của mình.
Người thiếu phụ đáp:
- Thưa ngài, em chẳng chút ngạc nhiên khi thấy chàng coi em như một con điên. Những câu em vừa nói tuồng như vô nghĩa, nhưng cúi mong ngài rộng lòng tha thứ cho, sau khi ngài nghe thuật lại sau đây bao nhiêu nỗi bất hạnh em trải qua thời gian vừa rồi. Em xin kể lại đầu đuôi nhằm đền đáp sự quan tâm hào hiệp của ngài.

Nguồn: docsach.mobi