24/2/13

Tập truyện ngắn Tô Hoài (T10-15)

10. Cần những hương ước đời nay

Cuộc vận động nếp sống văn minh gia đình văn hoá ở khu dân cư không sôi động như năm trước. Người lạc quan thì nhận xét cuộc đấu tranh đã phát triển xuống tận cơ sở. Người uể oải thì chép miệng: có cóc khô gì đâu, đánh trống trên trời xong rồi.
Tôi không có họ với mấy ông uể oải. Nhưng tôi lúc nào cũng thấy băn khoăn, cũng thấy là khó. Lấy hai việc cưới và đám ma ra mà bàn. Xem ra về bề mặt sự hưởng ứng chưa được đều, ở phố có đôi chút nhúc nhích, ở làng thì chưa mấy, còn nhiều lơ lửng lắm.
Ở phố, đám cưới ít ăn ở nhà, người ta đặt ở nhà hàng, bét ra cũng vài chục mâm. Hoang phí và hủ tục này có cơ lại rầm rộ lên. Giá có báo nào cử phóng viên kinh tế xã hội đi điều tra các khách sạn, nhà hàng trong thành phố xem một tháng họ đã làm bao nhiêu cỗ cưới, chừng nào bàn, bàn loại tiền nào. Thiết tưởng cũng là những con số hãi hùng có ý nghĩa chê trách người rồ tiền góp phần xây dựng nếp sống mới đấy.
Lại nói về đám hiếu. Cũng như việc hỉ, dạo đương cuộc vận động, cũng khá nề nếp. Đưa đám rồi ai về nhà nấy. Đến cúng 50 ngày hoặc 100 ngày thì tuỳ nhà, không phải là lệ trả nợ miệng, gia chủ làm cơm cúng làm vài ba mâm mời họ hàng, bà con, bạn bè.
Bây giờ lại tràn lan và nhiêu khê. Ở phố, ở khu tập thể còn giản dị, bởi lẽ dễ hiểu: không mấy ai quen biết và họ hàng đông như ở các phường có làng cũ.
Nhiều đám ăn uống, đánh tổ tôm từ hôm linh cữu còn ở trong nhà. Rồi thì kèn trống, lại cát xét mở băng khóc than, băng tụng niệm hát chầu văn suốt đêm cả xóm phải nghe.
Ấy là chưa kể những hủ tục được cho sống lại mà không ai dám gàn quải, bởi “nghĩa tử là nghĩa tận”, nào xem ngày giờ đào huyệt, hạ huyệt, chuyển cữu rồi bùa chú dán yểm mọi nơi, rồi vàng giấy, cả tiền thật rắc dọc đường đưa đám. Nhiều năm đã bỏ được cái nhà táng, bây giờ lại thấy nhà táng con con che trên quan tài, rồi cái nhà táng trang kim vàng mã sẽ to, to hơn ngày xưa, có thể thế. Hủ tục đương sống lại. Ma chay hay cưới xin, nhà có thì mượn cớ mà khoe dởm, nhà nghèo thì méo mặt. Lại nảy ra cái thói tính lỗ lãi trong việc hiếu hỷ. Có nhiều địa phương đã có phong trào và bình bầu làng vàn hoá. Nhưng bền bỉ làm đến đầu đến đũa để thành nếp thành thói quen, thành phong tục mới thì vẫn còn là khó. Câu tục ngữ nghìn đời “phép vua thua lệ làng” hiểu theo nghĩa tích cực của nó là cái lệ làng được quy định thiết thân ấy là những tín điều người ta bảo vệ, người ta thực hiện hàng ngày
Ở phường, ở xã, ở tổ bây giờ phải có lệ làng kiểu mới. tinh thần mới. Gọi là phường ước, xã ước hay là nhũng điều tự nguyện quy định về nề nếp văn hoá ở xã, ở thôn, ở tổ.
Từ quy định chung đến cụ thể là hai công tác nối tiếp nhau. Cũng như những phường có các phố, có khu tập thể và ở thôn xóm cũ thì chi tiết và đặc điểm càng khác nhau. Thành phố theo địa giới hành chính. nội thành có quận rồi phường, phường rồi các tổ dân phố. Ở ngoại thành có huyện, các thị trấn rồi xã với các thôn.
Ngày nay thành phố càng mở rộng. Nhiều xã các huyện đã nhập vào nội thành, thành phường, thành tổ dân phố.
Nhà nghiên cứu dân tộc học người Pháp Papin, tác giả cuốn Lịch sử thành phố Hà nội nhà xuất bản Fayard, Paris 2000 trong tập nghiên cứu có một câu rất đáng chú ý.
Nhận xét về làng Đại Yên phường Ngọc Hà quận Ba Đình ông viết: Làng Đại Yên có một ngôi nhà rất đẹp nằm trên một khoảng sân rộng, nhắc cho ta nhắc cho ta nhớ rằng Đại Yên là một ngôi làng trong thành phố.
Những con số cụ thể có thể dễ dàng hình dung được vấn đề trên. Nội thành Hà Nội có 7 quận:
1. Quận Hoàn Kiếm 18 phường, 17 phường là phố cổ, phố cũ đời xưa. Phường Phúc Tân dưới bãi sông Hồng mới có người đến ở thành phố trong ngoài 50 năm nay.
2. Quận Hai Bà Trưng 22 phường. 10 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành.
3. Quận Ba Đình 12 phường. 4 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành. Phường Phúc Xá dưới bãi sông Hồng trước kia là bãi cát và cánh đồng mới có người ở thành phố trong ngoài 50 năm nay.
4. Quận Đống Đa 21 phường. 6 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành.
5. Quận Thanh Xuân 11 phường. Cả 11 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành.
6. quận Tây Hồ 8 phường, 8 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành.
7- Quận Cầu Giấy 7 phường. 6 phường trước 1954 là làng xã ngoại thành. Phường Nghĩa Tân trước kia là cánh đồng bây giờ là các hộ ở nhà tập thể.
Các nhà tập thể sinh hoạt như mọi phường ở trung tâm, như quận Hoàn Kiếm.
Ở cùng phố, chỉ có dịp gặp nhau trong cuộc họp tổ. Các làng họp lại thành phường thì không như thế. Dẫu cho bấy lâu nay nhiều người ở phố ra ven nội tậu đất làm nhà và có nhà máy, trường học cơ quan xây dựng chen vào, nhưng các làng xóm phần đông vẫn là bà con, họ hàng đã ở với nhau lâu đời. Cho đến bây giờ, mọi cái tết trong năm vẫn giữ được - nhất là ở các nhà còn các cụ trong ngoài 60 tuổi Từ tết “giết sâu bọ mùng 5 tháng 5” đến tết “cơm mới mùng 10 tháng 10”. Có thịt con gà, thổi chõ xôi, thật ra phong tục ấy cũng đi đôi với thói quen cũ quanh năm thường ngày ăn uống tán tiện “chứ chúng em ở trong làng đâu được như các bác ở ngoài phố thứ bảy lại có bữa ăn tươi”.
Bây giờ tôi vẫn hàng năm về làng ăn giỗ tổ họ. Tục lệ cũ - có điều tiếp tục nên phát huy, có những cái phải xoá bỏ, trong sự chuyển động ấy rất dễ phát sinh lẫn lộn, như đã thấy bấy lâu nay về ma chay và cưới xin.
Một cái lệ làng kiểu mới thật cần thiết. Ngày trước, không phải làng nào cũng có hương ước, mà làng có làng không. Cái quy củ, trật tự của hương ước thì không có danh giới, thấy hay thì người ta bắt chước, người ta tự nguyện làm theo.

11. Cây cổ thụ và vườn hoa

Xưa kia ở vùng tôi có nhiều cây cổ thụ không ai biết tuổi không đoán được tuổi bởi ai cũng thấy nó từ bao giờ. Như cây đề ở cạnh chợ, khi tôi còn bé u tôi thường dắt tôi lên ngồi ăn ở hàng gánh đa ướt cạnh gốc người Kẻ Cót, ngày ấy cây đã cao lưng trời - trẻ con ngước mắt lên nhìn đã khiếp, bây giờ cây đề vẫn cao vẫn rườm rà thế.
Cây gạo ở ngã ba cuối làng rẽ ra cánh đồng đã biến mất từ bao giờ không biết. Nghe nói cái bốt Tây ở ngoài đồng đã vào chặt để quang mắt cho đại liên nó lia được lên tận bờ đê chặn du kích ở bên kia sông kéo sang. Tôi cũng chẳng ngẩn ngơ ra sao về nỗi không còn cây gạo. Bởi “thần cây đa, ma cây gạo” đã làm cho tôi sợ sẵn huống chi chỗ ngã ba gốc gạo ấy lại là nơi mỗi khi làng có đám ma, nhà táng được khiêng đến đấy thì người ta lại gõ một hồi sinh cho đô tuỳ nghỉ vai chỗ này là cái độ dừng lại sau cùng của chỗ xác chết hồn người còn ở trên mặt đất, các tay đô tuỳ uống chén rượu, ăn miếng trầu xong tiếng sinh lại cất lên, các tay đô lại ra đứng vào nâng đòn nhà táng lên vai đi chặng đường cuối ra đến huyệt. Những cái ý nghĩ vẩn vơ con ma, cái hồn, người chết, đám ma đã làm cho trẻ con sợ từ thủa bé.
Vẫn còn cây đa đầu làng, thật ra là hai cây đa, hai cây đa vắt rễ sang nhau như người khoác vai. Mùa hạ tới, con yểng, con vàng anh về chui vào trong lá mổ những quả đa chín vàng hây. Bây giờ cây đa vẫn còn, có lẽ vì câu “thần cây đa” nên không ai dám đụng đến. Và đến mùa, quả đa chín vàng ối rồi mà chẳng thấy con yểng, con chim vàng anh về. Chỉ thỉnh thoảng có mấy con chào mào lảng vảng qua.
Ba cây muỗm đại thụ trên quán chỉ còn một. Hai cụ muỗm kia cũng là chết oan. Đội cải cách bàn vấn đề về trường học. Mấy năm Tây đóng không cho làm trường học, bây giờ ai cũng sốt sắng, nhưng đóng tiền học cho trẻ con thì được, còn làm trường thì tiền đâu ra. Một cán bộ đội phát biểu hăng hái: “Cái cây là phong kiến không nên để mai kia làng nào cũng có điện, đất nước điện khí hoá rồi cái cây bóng cây này mát thế nào được bằng quạt điện chạy vù vù. Thế là hai cây muỗm bị hạ xuống, vừa bán gỗ bán củi để mua gạch ngói, vừa xẻ ra làm bàn ghế cho lớp học.
Chỉ còn trơ trọi một cây, không biết cái cây lo nghĩ gì mà cũng phờ phạc. Những cây cổ thụ mất đi, chẳng thêm được cây bóng mát nào nữa. Có một cây bóng mát không phải dễ. Người trong làng cũng đi trồng cây vào dịp tết, một phong tục hay.
Nhưng người ta chỉ chú trọng đến cái có ăn liền và lấy thành tích. Cây điền thanh lấy lá bón ruộng, cây sa mộc, cây xà cừ lấy củi đun.
Các cụ ngày xưa đã bao đời trồng cây cho mai sau lấy bóng mát. Các cụ trồng những cây đa, cây đề cây muỗm. Quanh hồ Hoàn Kiếm nhiều cây cổ thụ được trồng từ đời xưa như thế. Mươi năm nay đã có những cây đã chết. Một cây đa lông chỗ cổng nhà máy đèn trông sang. Một cây sanh đứng chết khô khuất trong lòng hồ. Và một cây gạo ở lối đi vào cầu Thê Húc chết bệnh già.
Cây gạo ấy ở chỗ nhiều người qua lại, mỗi năm đến mùa hoa nở đỏ ối, thành phố đã trồng vào đấy một cây gạo mới, đánh từ huyện Thanh Oai đem ra. Cây gạo mới đẹp mơn mởn, nhưng cho đến lúc cây có bóng mát, cây có hoa thì phải tính từ vài chục năm trở ra mới lên hoa lên quả được. Trên thế giới, nhiều nơi có những hội Xanh “bảo vệ môi trường”, thành phố Bắc Kinh có cơ quan phụ trách cây và công viên, mỗi cây có lý lịch và bệnh lịch từng cây cổ thụ. Hà Nội vẫn còn nhiều cây cổ thụ, đến bao giờ Hà Nội mới trông nom, giữ gìn những đồ cổ sống này?

Lại nói về vườn hoa. Trong Nam ngoài Bắc, nhiều cơ quan, các nhà máy, khu công nghiệp đã xây dựng khang trang, xung quanh bao bọc những công viên: có những hàng cây, những luống hoa được cắt tỉa gọn gàng. Có cây xén cầu kỳ như những mâm xôi, như con hươu, như cái búa cái liềm. Đấy là cây và hoa trồng trang trí ở những nơi công cộng theo kiểu công viên Pháp. Thời xưa, các cụ ta ở nhà chỉ chơi cây và hoa trong vườn, đến khi Pháp đô hộ ta mới có công viên ngoài đường phố. Vườn hoa kiểu Pháp, các vòm cây đều xén tròn, xén vuông kỳ quặc. Ở thủ đô Ađi Ababa nước Ethiopi bên Đông Phi có hàng cây hai bên đường đều cắt vuông trông lên như con đường lợp mái xanh.
Trên thế giới có một số vườn hoa được bắt chước vườn hoa Pháp gọn ghẽ cắt tỉa và những luống hoa màu rực rỡ. Vườn hoa kiểu Anh như thiên nhiên cây cỏ hoa lá bao phủ tràn lan. Vườn hoa Nhật có suối chảy, có cầu tre, có hòn đá tảng làm ghế ngồi bên bụi trúc và cây liễu hoa đỏ.
Ta cũng có vườn hoa kiểu Việt Nam. Tiếc rằng chưa bao giờ người ta bàn bạc và chỉnh đốn cho ra nếp truyền thống và chưa có cơ hội thành công viên quốc tế một kiểu vườn hoa Việt Nam. Đã bao đời tổ tiên ta chơi cây cảnh và vườn hoa. Vườn cảnh của ta. Ở mỗi nhà hay ở đình ở chùa bao giờ hoa lá cũng đi đôi với màu và mùi, màu hoa và mùi hoa, màu đi đôi với mùi. Vườn nhiều màu đẹp của hoa hồng hoa sen, hoa ngâu, hoa lý, hoa móng rồng, hoa nhài hoa mộc và lan chậu, lan treo ngọc lan, những loại hoa này đều toả mùi hương, những khi tĩnh mịch hay trong đêm khuya hương hoa đưa càng ngát, càng dậy mùi.
Các tay chơi cây cảnh của ta cũng có nét riêng, lối riêng. Đặt một cây giả cổ thụ trên hòn non bộ tí hon, cây cũng bé bỏng bên cầu, nhừ ở cửa đình, cổng chùa đầy là những cây lộc vùng, cây si, cây sanh già lão lắm. Nên nhớ điều nghề nghiệp mà các cụ uốn cây, gò cây cảnh mà không cắt cành, không xén cành như những cái cây làm thành hình con nai, con voi ở các công viên Bờ Hồ, công viên Thống Nhất hiện nay. Cho rằng cắt xén như thế làm cho đau cây.

Tôi đã nhiều lần vào Quán Gió chuyện chơi với những người công nhân săn sóc cây và hoa bên hồ Bảy Mẫu. Những cây ngâu, cây hoa giấy ở đây được uốn thành những con hươu, con chim phượng hoàng rất khéo. Những công nhân sở ươm cây bây giờ hầu hết đều là cháu chắt các cụ ở Ngọc Hà ngày trước thời Tây cũng làm nghề này ở sở “La Pho”, bây giờ là Sở ươm cây hay là Công ty cây xanh. Sở này làm việc ươm cây trồng cây trồng hoa các công sở, các công viên các đường phố. Đến nay, những công việc ấy vẫn tiếp tục công nhân trồng cây làm vườn ở đây hầu như cha truyền con nối. Các ông thợ cây này cũng đều cho rằng cái vườn cảnh của các cụ ta truyền lại có cây thì có hoa, mà hoa thơm. Ở ngay chỗ bờ hồ Bảy Mẫu, các ông thợ đã làm như để chơi một giàn hoa thiên lý.
Bốn cột vầu to trên đan nan tre cật, không chăng dây thép, sợ mùa hè nắng to héo lá. Những dây thiên lý leo lên xanh thẫm một góc bờ hồ, những chùm hoa vàng rượi, phảng phất mùi hương thoảng rất xa. Biết thế, nhưng không làm thế. Ngày ngày vẫn đi cắt cành, xén lá và trông những bồn hoa có màu nhưng không có mùi hương.
Một ông lão, tuổi về hưu đã lâu, vẫn làm hợp đồng cho công ty ông lão đã đi theo bố vào làm sở “La Pho” từ thời trước.
Ông lão nói:
- Những hoa này đều hoa Tây cả, tên Tây khó gọi, chúng tôi mới đặt tên theo hình dáng là cây lá đốm, cây lá đuôi lươn, cây hoa đồng tiền, hoa loa kèn, hoa giấy, hoa mõm chó... Những hoa Tây này chúng tôi đã trồng cả đời, bây giờ các anh các chị đi học trồng hoa bên Tây về, cũng vẫn những hoa ấy mà thôi.

“Còn như hoa của ta có màu có mùi biết là đẹp đấy, cũng chịu. Có trồng giàn hoa lý kia cho vui một tí. Chứ bây giờ có được hoa đơn trắng đơn đỏ, hoa ngâu, hoa lý, hoa hồng ta, hoa tầm xuân, hoa sói, hoa nhài, hoa kim ngân, hoa móng rồng có mà đem ươm rồi trồng cả vạn cây ra các công viên thì lại phải có chủ trương, có kế hoạch, có tổ chức, có tiền chứ chẳng phải chỉ trồng vài ba cây, bỗng dưng mà có”.

12. Chịu không đoán được

Chiếc máy bay sáng hôm ấy từ Đà Nẵng vào thành phố Hồ Chí Minh.

Hai mươi sáu năm trước, hồi mới giải phóng, tôi cũng đi một chuyến Đà Nẵng - Sài Gòn thế này. Bấy giờ máy bay B6, bây giờ là 320 chỉ bay có 50 phút. Còn cái B6 năm ấy, khi lên trời, rên ục ục như cái xe bò bay. Nhiều khách ở Đà Nẵng ra sợ B6 đã bỏ vé. Tôi cũng đã thấy ở sân bay Nha Trang bấy giờ cũng tương tự như thế.
Tôi không nhớ cái máy bay ọc ạch năm xưa mà tôi nhớ một chuyện khác. Chuyến máy bay ấy có vợ chồng một anh y sĩ vào thăm bà con ở miền Nam. Anh ngồi ghế cạnh tôi, nhìn quanh rồi đứng dậy. Anh chỉ trỏ cắt nghĩa cho vợ biết mọi thứ xung quanh. Cái túi để nôn, cái bật đèn đọc báo, cái công tắc quạt thông gió, rồi anh lại ra chỗ cô chiêu đãi viên ngồi, anh mó vào cái cửa thoát hiểm, lại giải thích. May sao, cô chiêu đãi viên đứng lên nói: Máy bay sắp cất cánh, mời quý khách về chỗ, cài dây an toàn.
Anh về chỗ. Nhưng anh không biết cài dây an toàn. Cô nhà tàu đã cài dây hộ hai vợ chồng. Tôi đã ngỡ anh ấy đã ngượng mất thớ. Nhưng không, ông A. Q. cười với tôi, nói:
- Người ta phải phục vụ mình hết ý chứ, có phải không đồng chí.
Hơn hai mươi năm đã qua rồi.
Lần này, ngồi cạnh tôi trong khoang là một người hơi đứng tuổi, đội mũ phớt, giầy da đen, thắt cà vạt hoa, gài giữa chiếc ghim vàng choé. Anh lên sau, tôi nhác trông chân anh đi vòng kiềng chữ bát. Lớp trẻ bây giờ không bị mẹ bế xốc nách, không ai đi chân vòng kiềng nữa. Anh này không phải là lớp người bây giờ. Tôi nghi ngờ ngay ý tứ và lễ phép của anh. Anh ngồi xuống, oải người ra vẻ tự nhiên rồi cầm tờ báo tôi vừa cầm ở ngoài quẩy vào Chẳng hỏi tôi một câu. Tôi nhắc khéo: “Báo tôi vừa lấy ngoài quầy”. Anh không nói gì, mở báo chăm chăm đọc.
Lát sau, nhìn sang, tờ báo đã úp lên mặt, vừa rơi xuống.
Nhưng rồi anh mở mắt, hỏi tôi:
- Bác đi Nhật bao giờ chưa?
Tôi nhìn lại anh và không nói gì. Anh chép miệng:
- Nước Pháp, nước Nhật tôi đi tất tật rồi. Chán bỏ mẹ?
Một chốc, lại thấy anh nhắm mắt hờ hờ, ngáy khò khò.
Tôi không đoán được anh là cán bộ từ thời bao cấp nào, là kiều bào Tân Đảo hay là giám đốc công ty hữu hạn. Chỉ nghe giọng nói đa đá Nam Định.
Máy bay xuống Tân Sơn Nhất. Anh hỏi tôi:
- Bác về đâu?
- Tôi xuống Vũng Tàu.
Anh nói:
- Hay đấy. Bác đi ô tô hay tàu cánh ngầm?
- Tôi đi tắc xi.
Anh lại nói to:
- Hay đấy. Tôi cũng về Vũng Tàu.
Anh và tôi đã ngồi trong tắc xi. Anh bảo lái xe:
- Bật máy lạnh lên chứ?
Lái xe lắc đầu:
- Không có.
Anh nhảy xuống. Không chào tôi, nhưng nói:
- Không có máy lạnh, không chịu được.
Lại ngất ngưởng mũ phớt, cà vạt cài ghim vàng, chân đi vòng kiềng trên vỉa hè. Tôi vẫn chịu không đoán được anh ta là hạng người nào, thời nào.

13. Chơi hoa

Các cụ ưa chơi hoa cây. Cây ngọc lan búp hoa trắng ngọt đến cuối xuân. Những cây ngâu cổ thụ hoa vườn, người chơi cảnh chỉ tia, ít chặt cành, bẻ cành, bởi thương cây tránh làm đau cây Vườn chùa ấy trồng cây mẫu đơn có hoa đẹp.

Còn nhớ tích xưa cô tiên Giáng Hương ngoài cửa bể Thần Phù vào chơi hội chùa và vô ý làm rơi bông mẫu đơn, bị tuần làng ngả vạ trói vào gốc cây, quan huyện Từ Thức phải cởi tấm áo lương làm tiền chuộc mới cứu được cô tiên. Cái hoa trên cành rơi mà quý, đến phải phạt nhiều thế?

Có lần tôi thấy trên sân khấu diễn đến đoạn vua Quang Trung cùng đại quân vào giải phóng Thăng Long giữa tết Nguyên Đán. Nhà vua sai quân quan vác một cành đào hoả tốc ngày đêm vào kinh đô đem tin mừng thắng trận đến công chúa Ngọc Hân. Chỉ băn khoăn không biết ngày xưa có chặt cành đào mừng xuân như ta bây giờ không?
Hình như không.

Người ta cũng ít chơi hoa bó - chỉ có mỗi hoa huệ thì bó từng giò, mà hoa ngắt từng đoá là hoa để cúng. Trên bàn thờ tổ tiên và ở đền chùa, đĩa hoa cũng có mấy đoá hồng ta nho nhỏ đôi ba cánh, có chùm hoa sói, hoa ngâu với lá trầu không gói hờ trong mảnh lá chuối tươi buộc lạt.

Thời người Pháp còn ở Hà Nội trên thành phố thường có người gánh hoa bán. Người gánh hoa ở làng Ngọc Hà còn có tên là trại Hàng Hoa - đất trồng hoa vùng 13 trại xưa ở kinh đô. Các nhà mua hoa cúng, có người đặt tiền trước ngày rằm mùng một sáng sớm cô hàng hoa đem đến treo gói hoa vào cái đinh trước cánh cửa. Các nhà người Tây thì mua hoa về để cắm bình. Hoa hồng, layơn, hoa loa kèn, hoa đồng tiền, hoa mõm chó người trồng hoa đặt các tên hoa theo tên gốc hoặc hình dáng, bởi đấy là hoa Tây nhập nội.

Trong vườn hay trước giại bể nước trồng cây trà đỏ, cây trà bạch, cây đào bích, đào phải có khi hồng đậm, hồng nhạt, trắng tinh và bụi hoa mào gà đỏ choé. Người chơi lan chậu, địa lan. Sau này, lan rừng, phong lan treo đầu tường từng giò man mác hương bay.
Trên mặt đất, kiếp hoa và cây cảnh này cũng lưu lạc sông hồ chẳng ở yên lâu. Hãy xem lý lịch cây lục bình. Lục bình đến nước ta từ thế kỷ trước.

Đầu tiên có tên là sen Nhật Bản, cây cảnh hoa cảnh mới được chiều chuộng hết cỡ. Ngày ấy tưởng tượng một cái bát thuỷ tinh nước trong veo thả vào bát những cái phao trắng nõn, lá xanh mơn mởn, màu hoa tim tím ngẩn ngơ, tao nhã biết bao. Nhưng rồi cái cây hoa ấy mọc nhanh quá - nhanh hơn ốc bươu vàng? Mặt nước hồ Tây mênh mông, mới đây còn quang đãng, chỉ dăm hôm đã xanh om, những đám rễ bám dày đặc dưới mặt nước, cá mè cá chép ngạt thở chết cả. Xưa kia, nhà thầu cá hồ Tây phải thuê dọn quanh năm. Cái gì nhiều quá cũng đâm rẻ rúng, sen Nhật đã thành bèo tây để nuôi lợn. Nhưng đời cây húng lại khác. Cây húng gia vị rau xanh ta ăn với thịt chó, thịt vịt tiết canh, tên nôm na là cây húng chó, mà gọi kiểu cách là cây húng quế. Nhưng đi ra phương trời xa thì cây húng đổi đời ở Cuba và các nước Nam Mỹ mỗi cốc rượu cốc tay cook-tail phải thả một nhánh húng quế vào thì rượu uống chơi mới lên hương. Ở thủ đô Kabul nước Afghanistan, ở Addis Abeba nước Ethiopie, cả Trung Đông và Đông Phi, các công viên với những bồn hoa vồng tròn như mặt trăng đều trồng húng quế. Vẫn cái húng quế trổ hoa tim tím li ti, dậy mùi thơm hắc mùi húng chó ở quê ta. Mới đây trên mặt trận Afganistan nhờ có cây húng quế hái được ở công viên mà món mỳ ăn liền của các phóng viên chiến tranh báo An Ninh thế giới từ Hà Nội tới có được món rau thơm hợp khẩu vị.
Đến cây xương rồng lộn kiếp vào nước ta thì lại khác. Ở nước ta cây xương rồng làm hàng rào vườn. Xương rồng ông cắm quanh các giếng đất, ven góc mộ ở nghĩa trang. Xương rồng bà để rào ngõ, chắn vườn rau và tha gai ngăn ruộng mạ cho vịt khỏi rúc. Ở châu Phi, xương rồng nhử chai lọ vứt đi, như qua lê thối lăn lóc trên sa mạc.
Bây giờ ở châu Âu, xương rồng thành cây cảnh loang thắp nơi, lộn kiếp lần nữa đến Việt Nam, xương rồng không phải rào bờ rào, mà xương rồng ngồi trong chậu cảnh. Có hàng trăm, mấy trăm giống xương rồng kỳ lạ được nâng niu trong bát, trong cốc, trong chậu đặt giữa phòng khách, phòng ngủ và thư viện.

Gần đây, người ta hay chơi hoa giấy. Phân biệt cây hoa giấy với hoa bằng giấy làm để trang trí. Cây hoa giấy là một cây hoa người Pháp đem ở Tân Đảo sang thường trồng làm bờ rào các công sở. Bởi hoa cũng như lá, hoa tím nhưng không có mùi người ta gọi là hoa giấy. Hoa giấy để trang trí này là hoa gia bằng lụa bằng ni lông, làm hoa hồng, hoa cúc, hay là lung tung, cũng xanh xanh đỏ đỏ hoa gì cũng được. Hoa giấy lan mọi nơi, ở bàn thờ, bàn nước, hoa làm khéo đến độ ai tò mò phải mó tay mới biết hoa thật hay hoa giả.
Cái xứ sở có người chơi hoa giấy - chỉ ở phương Tây, nhưng ở đấy, hoa giấy bầy ở những chỗ xa xa, cho có bóng và màu cây hoa mơ màng. Không cắm hoa giấy ở bàn uống nước, bàn làm việc như ta ở ta khách có hói:
- Việt Nam bốn mùa hoa, chơi hoa giấy làm gì?

Thì cũng khó trả lời.

14. Chuyện phiếm

Có anh bạn trẻ cho tôi biết có bài báo viết rằng bây giờ nếu có hội những người không xem vô tuyến truyền hình thì có thể cất nhấc tôi làm hội trưởng được.
Cũng có thể dễ phong cho tôi cái chức mất vui ấy. Bởi vì chỉ trong việc viết bản thảo đã qua mấy thời kỳ bạn bè tôi viết bằng đánh máy, đánh chữ và bằng những gì gì nữa, còn tôi cả đời vẫn cày, vẫn cặm cụi bới từng chữ trên giấy. Bảo sao không tụt hậu đáng chế giễu được.
Nhưng người ta đồn nghịch thế thôi. Tôi vẫn xem vô tuyến đều đều. Có điều tôi xem theo ý thích của tôi. Ai chả thế, có gì lạ đâu. Tôi nghe lịch thời tiết trong ngày. Tôi xem mục phong cảnh đất nước, các phóng sự về đời sống các con vật trên rừng dưới nước, trong nhà. Tôi không xem thời sự - vì đã đọc báo. Tôi không tập thể dục theo đài được vì các động tác nhanh quá sức với tôi. Tôi không xem tiết mục văn nghệ vì tôi thích đọc sách để tưởng tượng ra hình ảnh hơn là trông thấy hình ảnh. Tôi không thích người đóng phim như người diễn kịch. Thế đã là xem nhiều rồi và tôi chắc cũng nhiều người xem vô tuyến như tôi.
Vậy là mình cũng không đến nỗi quá ngẩn ngơ. Nhưng mà tôi đương có nỗi buồn và sự lạc hậu còn hơn cả cái tật ít xem vô tuyến. Ấy là mỗi hôm mở trang báo hàng ngày, có những chữ nước ngoài không đọc được, có những câu, những bài chẳng hiểu mô tê thế nào. Báo hàng ngày là thời sự, thời sự mà không biết, chao ôi là thụt lùi. Những máy vi tính, công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, tin học, internet cà phê, truy cập mạng, các thứ gen... và bao nhiêu chữ lạ tai nữa. Tôi chịu. Tôi chưa mó đến cái điện thoại di động bao giờ. Trong khi ấy thì người đi đường, người ngồi họp, người trên tàu xe chốc chốc lại áp máy vào tai nói nói nghe nghe, sao người ta ngày nay lắm chuyện gấp gáp thế. Nhưng tôi để ý cũng có khi chẳng gấp gáp gì cả. Tôi ngồi đợi máy bay ở ga Tân Sơn Nhất, một ông ngồi cạnh, chốc chốc lại nói vào máy: Máy bay sắp bay, em ơi? Hôn một nghìn cái nhé!. Ôi thế thì nói máy di động cũng chẳng ra chó gì, tầm phào quá.
Trên mọi ngả đường quanh ta và ở mỗi chúng ta, quang cảnh và con người cứ cũ cũ mới mới rối rít tang bồng như thế. Nửa đêm ở Sài Gòn, nghe ngoài cửa sổ nhà trọ tiếng gõ thanh tre. Đấy là người bán mỳ gõ rao hàng.
Cái này ban đêm ta đã nghe từ hơn nửa thế kỷ trước ở thành phố này. Bấy giờ gọi là gõ sực tắc, sực tắc, sực tắc, tiếng Tầu là ăn được, ăn được. Đấy là tiếng báo hiệu xe hoành thánh vằn thắn, xe hủ tíu, xe bò viên đã tới đầu phố, ai mua thì ra mà mua.
Bây giờ tôi chẳng còn thói quen ăn khuya.
Nhưng mà không ngủ được, tôi cũng xuống đường. Đã quá nửa đêm. Những nhà mái ngói một tầng, những bức tường loang lổ ngày trước không còn nữa mà chỉ thấy liền liền những bức tường cao thẳng đuỗn, những cánh cửa xếp hạ xuống và cái phố dài như mím môi lại. Thế mà ngoài vỉa hè vẫn còn rải rác người nằm người ngồi suốt đêm hệt như ngày xưa những người ngủ nóp trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, có cái xe máy ghé rồi lại đi ngay. Không biết thì thào cái gì hay đã dúi cho nhau cái tép trắng.
Trước tam quan chùa Xá Lợi, mấy người nằm trùm mảnh vải vỏ chăn kín đầu, chẳng biết chui ở trong là đàn ông hay là đàn ông với đàn bà. Tiếng mỳ gõ gần gần rồi qua trước mặt tôi. Không phải như ngày trước thằng bé con đi thoăn thoắt như chuột chạy mà một thanh niên cao dong dỏng, điển trai, mặc bộ quần áo ngủ sọc xanh sọc tím, hai tay cầm thanh tre gõ đều đều. Hồi này quần áo rẻ, không ai mặc vá mặc rách nữa.
Rồi anh chàng ấy ngồi xuống một hàng hiên trải mảnh chiếu. Đấy là cái chiếu tẩm quất. Thì ra anh chàng tẩm quất này vắng khách, đi gõ rao gọi.
Mỗi vùng đều có thói quen riêng, những thói quen lâu đời. Ở Hà Nội hay ở Sài Gòn bây giờ vẫn có, vẫn thế. Ngoài Hà Nội, ngày đêm nghe tiếng rao, giọng cất lên như hát. Xôi, bánh giò, cơm nắm đây. Tào phớ đây... Bánh rán nóng đây... Bánh cuốn bánh nếp, khoai nóng đây... Bánh khúc đây... Lại có người rao như hò đò: chữa khoá đây... Ai giấy báo, quạt điện, công tơ, xe đạp hỏng... Cái gì cũng rao. Ai mua cóc. Ai mua rắn không. Có dạo một người đi xe đạp bán thuốc bả chuột không rao, lại mở băng cho cả phố nghe bài nhạc vàng thảm thiết. Thì lại không ai ra mua bả chuột cả. Ít lâu sau thấy biến anh chàng. Ở đây người ta nghiện tiếng rao. Ở phía Nam lại chẳng nghe tiếng rao hàng trong phố. Cái tiếng mì gõ kiêm gọi khách tẩm quất cũng vẫn chỉ là tiếng gõ. Ở Vũng Tàu, cái xe bán kem chốc lại nổi lên một tiếng nhạc như một hồi khèn Mèo.
Thành phố đương hiện đại, vẫn nghe tiếng rao, tiếng gõ, ngày nào.
Sáng sớm, ngồi uống cà phê vỉa hè với bạn Đoàn Minh Tuấn bên đường Thiện Chiếu. Trời, mới như năm nào ngồi uống trà với sư Thiện Chiếu ở chợ trung tâm bên Bắc Kinh, nay đã thấy ông ngồi trong tấm bảng tên phố bên đường. Cả lúc quên lúc nhớ xa xưa này mà vẫn cứ mới mới cũ cũ ngổn ngang trước mặt. Hè bên kia, có đứa rực của nào đang xây nhà. Hàng rào bao quanh cắm chấn song sắt tua tủa cao đến hơn chục thước, cái nhà bọc trong lồng sắt. Có thể nó còn thả điện chống trộm cũng nên. Rõ thật thằng kẻ cướp lại sợ thằng ăn trộm.
Sáng rồi mà mấy người đắp mền ngủ đằng tam quan chùa Xá Lợi vẫn chưa dậy, tiếng xe qua lại ầm ầm rèn rẹt bên tai. Cũng những cái xưa cái nay khác nhau mà lại sóng đôi với nhau.

15. Giàn hoa kim ngân

Trên mép tường xám, có mấy cái cọc giàn dây kim ngân. Mùa hanh hao, đám cỏ gà cũng xơ xác, nhưng kim ngân thì ngược đời. Tháng chạp khô héo, hoa kim ngân rưng rưng nở vàng từng búi.
Khi hoa kim ngân rực rỡ góc sân thì mẹ con bà bán lá ngoài chợ vào hái hoa về phơi làm thuốc. Đã đặt tiền cọc từ trong năm cho trẻ con bỏ ống lợn đế dành. Hai mẹ con bắc cái ghế đẩu đứng hái xuống từng chùm hoa vàng trắng.
Con chim gáy quanh đầu quanh đuôi trong cái lồng quả vả dưới giàn kim ngân kia. Tưởng như cả đời nó chỉ vẩn vơ thế rồi chốc lại bới, lại nhặt hạt kê trong cái vấu tre. Không, cuộc đời con chim trong cái lồng con con cũng lắm éo le chẳng tưởng được đâu
Con gáy này được đem về từ trong thung Kim Bôi trên Mường. Nó uống hết một cóng nước. À trên đường ngược nhiều sông suối, người thì uống rượu, mày thì uống lắm nước thế. Đến lúc vàng mặt trời, con chim đứng xù ra, lông bay như bướm bay. Sáng ra, thấy nó rụi mỏ vào thành nan, ngả mình chết trông lên đình lồng.
Con gáy lách nan lồng bị nghẹt cổ. Có phải thế không? ông lão lật xác con chim rồi nói:
- Nó chết bệnh ngã nước đây mà.
Ông lão bảo con người cũng bằng con chim, nhặt hạt thóc hớp hụm nước đều quen có chốn có nơi. Từ thủa biết bay chuyền ở rừng, về đây phải uống nước lạ, không gặp đâu hạt nước đọng trên mặt đá, không có ngọn nguồn chảy trong khe đá ra, thì đành mang bệnh ngã nước phải về đường ma thôi. Con chim mảnh dẻ, khác nào con kiến bọ giọt, con bọ nẹt có đốt ngứa chân người ta đấy thì rồi màu xanh cỏ úa cũng lẫn vào lá rụng, vào lòng đất. Quên đi, rồi ông sẽ kiếm con chim khác về. Ông lão đem đến cái lồng tròn xoe. Con chim gáy ngó nghiêng nhìn ra. Cái lồng gác bếp, bồ hóng đã lên nước.
Tàu lá thiên tuế và một mảnh vải điều che trên nóc. Như những ông lão trong làng ngày trước xách lồng chim đi chơi.
Con gáy mới này quê gần ở trong khoanh tre bên kia sông. Những tưởng dưới đường xuôi không đâu còn chim gáy trú ngụ. Nhưng thi thoảng để ý kỹ vẫn thấy chim gáy liệng xuống ruộng. Có điều bây giờ cánh đồng quanh năm có mùa gặt hái, con chim cũng bỏ thói quen chiêm mùa ăn đôi, ăn đàn tháng năm tháng mười như xưa kia.
Con gáy này hợp thổ ngơi, chẳng mấy lâu đã béo mầm, cườm lốm đốm biếc. Chẳng ai dạy bảo nó. Con chim tha thủi trong lồng thì biết bắt chước ai. Thế nhưng con chim vẫn giữ nếp các cụ họ nhà gáy, sớm sớm chiều chiều, gáy lên ba hồi đầy đủ. Tiếng cúc cu cu giục giã. Phải ta đây có dọn giọng cất tiếng, thì người thợ cày mới thức dậy kịp tháo cái dõi chuồng trâu, và ai ai gồng gánh lặn lội ngoài đồng xa nghe tiếng chim mới nhớ chiều về. Con chim gáy đậu trên cầu trong cái lồng quả vả và dưới giàn kim ngân. Con cu cườm... cúc cu cu cũng phách lối ta đây lắm chứ.
Thế mà rồi thằng cu cườm cũng phải một trận ốm sắp chết.
Buổi sáng không nghe cúc cu dồn dập như mọi khi. Bao nhiêu lông tơ lông cánh con gáy lả tả từng đám quanh chân. Hai bên mi mắt nó lộn vành trắng, nhắm lại gật gưỡng. Ông lão nhìn rồi nói:
- Thôi thôi, thằng này bệnh chấy rận, bệnh chấy rận?
- Sao lão biết?
- Con chấy con rận ở người lây sang con vật thì biết chứ sao. Nó rỉa thế kia rụng hết ]ông, cơn ngứa điên lên, toi đến nơi rồi.
Nó vẫn đứng được kia. Quanh năm nó đứng mà. Con chim hơn thằng người ở chỗ suốt đời chỉ mặc một cái áo, cả đời không cần nằm. Con chim hơn thằng người Ha... Ha... ông lão cầm một nắm vôi bột rắc lên mình con gáy trần trụi:
- Tao tẩy uế cho mày được mát mẻ đi kiếp khác.
Con chim gáy hoá ra cục vôi.
Bỗng dưng, gáy ta chiếp chiếp mỏ. Báo hiệu hấp hối chăng. Lại gáy như mọi khi chăng. Rồi tiếng cúc cu mịn màng, mượt mà. Con gáy ốm lúc nãy biến mất. Gáy ta lại nhặt hạt kê, nhặt ăn hạt sỏi. Con chim gáy không chết, có phải nhờ cái vôi bột chăng.
Từ hôm khỏe, gáy thêm một tiếng gáy. Ông lão vừa lò dò đến. Con gáy đã đứng mép lồng hai chân ríu lại chen nhau như chọn chỗ đứng. Rồi chim cất cổ cái đầu và con mắt bổ xuống cúc cu... cúc cu... Con gáy chào ông lão. Con gáy nhớ mặt người, con gáy biết ơn người. Một vệt chân người lên núi Mớ Đá. Lưng núi, gió thổi ngả nghiêng nương ngô và những cây chuối. Người trong xóm đi kiếm bữa hái quả ớt gió, đào củ gừng dại. Đàn dê ăn trên núi về chuồng đi trong ánh nắng nhạt còn rớt lại.
Có con khướu mun đậu trên lưng con dê nẹ. Tiếng chim thánh thót theo dê con lũn cũn đi từ ngoài núi vào đến đầu xóm rồi lại bay về núi. Dưới giàn kim ngân thêm cái lồng chim khướu. Ai bẫy được con khướu mun đen về đây cho hai con chim hót nhớ rừng. Con khướu mun đen tuyền, má ngăm ngăm màu mun. Con khướu mun, không biết có phải con khướu mọi khi vẫn đậu trên lưng con dê trên núi Mớ Đá? Con khướu mun trong cái lồng bẫy nhảy hốt hoảng như lưới bẫy vừa sập.
Lồng khướu mun có lọ nước, có cóng cám trứng lúc nào khướu mổ ăn cũng sẵn. Đã quên mùi những con nhặng, con ve nhặt được trên lưng con dê trên núi.
Con khướu hót cả ngày. Con gáy ở cuối giàn thì gáy có buổi. Nhưng xem ra đứa nói tiếng ta, đứa nói tiếng Tây, việc ai nấy làm. Con khướu nghiêng mắt, lắng nghe tiếng động ở đâu ngoài kia.
Dây kim ngân bốn mùa không biết màu úa, cả giàn không một chiếc lá héo. Lá kim ngân sóng đôi, xanh mởn, lông tơ vân vân như lá được trổ trong bụi mưa. Cả giàn nở hoa vàng xôn xao. Giữa tháng chạp khô héo, cây kim ngân có giêng hai hoa lá của mình. Bọn trẻ đi chơi chợ Tết rồi. Ngoài chợ có cả trăm cái lồng chim, nhưng trẻ con bây giờ thiết gì chim với cò. Chúng nó đòi mua cái mũ đỏ của lão Nô-en ở xứ sở nào tới và chúng nó chỉ thích nhai kẹo đắng súc cù là. Chẳng đứa nào biết tên con chim gáy, con khướu mun. Chúng nó bảo chỉ có con gà gáy con chim thì biết nói như người. Cứ nói lung tung thế. Chúng mày không biết rồi, ngày trước ông lão đã nuôi một con yểng xanh lơ. Con yểng bị xích chân đậu trên cành duối làm cảnh. Con yểng nói tiếng người, nghe rợn cả tai. Ai đấy! Nhà có khách. Nhà có khách. Mà trông trước trông sau chẳng có ai. Ông lão sợ như nghe tiếng con ma nói. Lão thả con yểng. Chẳng biết về được trên rừng, con yểng có còn nói Nhà có khách, có khách nữa không.
Bỗng nhiên, buổi chiều lặng im. Tiếng động thành phố xa xa đọng lại ở bên kia những chóp mái nhà ngất ngưởng. Không phải lão đứng một mình. Con khướu mun đương hé mỏ líu ríu khe khẽ. Chốc chốc lại to tiếng quát quắc quắc. Nó còn nhớ cái tiếng man dại trên núi? Con gáy thì lặng lẽ lại cúc cu cúc cu chào ông lão.
Ông lão cố đoán, nhưng không đoán ra những con chim nói gì. Con khướu mun, con chim gáy đương reo hò quát lác hay đương chửi, nó đương khóc, đương cười, nó bảo mày bỏ tù tao cả đời thế này, mày đang tâm thế sao. Lạy mày, tiên sư mày. Ôi, con chim hót, con chim gáy, con chim nói. Nào biết được. Hoa kim ngân vàng rực. Đã lâu, không thấy mẹ con bà mua lá thuốn vào hái, mà hoa kim ngân không ngắt bây giờ thì chỉ đến khi ngoài giêng có mưa dây mưa dợ, cánh hoa trắng rã ra, không còn lấy hoa sao thuốc, sắc thuốc được. Lão bắc chiếc ghế đẩu, lão hái hoa. May ra, mai còn được nắng. Lão phơi hoa hộ mẹ con bà hái hoa khỏi hoài của.
Trên thinh không, những đàn sếu trú đông đã xuống đến đây. Đàn sếu bay hàng ngang, bay hàng dọc đều đều. Tiếng vỗ cánh ràn rạt. Ở xa tận đâu, đàn sếu bay qua những cơn bão tuyết cuồn cuộn suốt đêm. Nhưng sáng ra, ở đây chỉ thấy một làn nắng phẳng lặng vàng óng. Những đốm tuyết còn giắt vào chân vào cánh những con giang, con sếu về trú đông trên mặt hồ.


Nguồn: http://www.sahara.com.vn/