15/3/13

Đất vỡ hoang (TI-C16-19)

Tập I - Chương 16

Đavưđốp ở hội nghị ra về cùng với Radơmiốtnốp. Tuyết rơi dày và ướt. Trong bóng đêm, đây đó lập loè những ánh lửa nhỏ. Tiếng chó sủa, bị những cơn gió giật át đi từng quãng, vẳng lên trong xóm, nghe buồn và dai dăng dẳng. Đavưđốp nhớ lại chuyện Iakốp Lukits nói về việc giữ tuyết làm mùa, thở dài: “Năm nay thì chưa nghĩ đến chuyện ấy được! Bão tuyết thế này, giữ được thì ruộng cày được phủ có biết cơ man nào là tuyết! Tiếc đứt ruột, thực tế thế!”
Radơmiốtnốp đưa ra ý kiến:
- Ta ghé qua chuồng ngựa, thăm ngựa nông trang tí.
- Ừ, đi.
Họ rẽ vào con ngõ ngang. Đi một quãng đã thấy hiện ra một ánh lửa: đó là ánh lửa cây đèn treo bên gian nhà chứa cỏ của Lápsinốp nay dùng làm chuồng ngựa. Họ bước vào sân. Dưới hàng hiên bên cửa chuồng ngựa, có bảy tám anh chàng kô-dắc đang đứng. Radơmiốtnốp hỏi:
- Hôm nay ai trực?
Một trong những người đứng đó dụi tắt điếu thuốc rồi đáp:
- Kônđrát Maiđanhikốp.
Đavưđốp hỏi:
- Sao đứng đây đông thế này? Anh em làm gì ở đây vậy?
- Có gì đâu, đồng chí Đavưđốp… Anh em đứng làm điếu thuốc với nhau…
- Tối hôm nay chúng tôi chở cỏ khô về.
- Anh em đứng hút thuốc, tán gẫu, đợi ngớt bão tuyết.
Trong các ngăn chuồng, tiếng ngựa nhai cỏ nghe đều đều. Mùi mồ hôi, phân và nước đái ngựa hoà lẫn với mùi phảng phất nhè nhẹ của cỏ khô thảo nguyên. Trước mỗi ngăn chuồng có treo trên mắc gỗ một chiếc vòng cổ ngựa, một dây đai hoặc dây cương. Lối đi được quét dọn sạch sẽ và rải một lớp mỏng cát vàng bờ sông. Anđrây réo gọi:
- Maiđanhikốp!
Một tiếng hú đáp lại từ phía cuối tàu ngựa:
- Hú!
Maiđanhikốp bê một bó rơm xọc vào đầu chàng nạng. Anh đi tới ngăn chuồng thứ tư kể từ cửa vào, lấy chân ẩy một con ngựa ô đang nằm cho nó đứng dậy, rồi rũ rơm trải xuống. Anh giơ chàng nạng doạ con ngựa giải ngũ, cau có quát:
- Quay lại! Tiên nhân mày!
Con ngựa sợ hãi gõ móng lộp cộp xuống sàn gỗ và xem chừng đã thay đổi ý kiến, không muốn nằm xuống nữa, nó khịt mũi, bước tới máng ăn. Người sặc mùi ngựa, mùi rơm rạ, Kônđrát đi tới chỗ Đavưđốp, chìa cho anh bàn tay cứng ráp lạnh giá:
- Thế nào, đồng chí Maiđanhikốp?
- Báo cáo đồng chí chủ tịch nông trang, cũng tàm tạm.
Đavưđốp mỉm cười:
- Làm gì mà trịnh trọng khiếp thế: “đồng chí chủ tịch nông trang”..
- Tôi đang làm chức trách.
- Anh em tụ tập quanh chuồng ngựa làm gì vậy?
- Đồng chí hỏi họ ấy! - Giọng Kônđrát nghe có vẻ bực dọc. - Cứ đến giờ rải ổ đêm cho ngựa là họ lù lù dẫn xác đến. Cái dân ấy không sao từ bỏ được đầu óc tư hữu. Toàn những ông chủ ngựa cả đấy! Họ đến hỏi căn hỏi vặn: “Này, đổ cỏ cho con ngựa tía của tớ chưa?”, “Này, rải ổ cho con vàng phai chưa?”, “Con ngựa cái nhà mình còn nguyên đấy chứ?” Thế thì thử hỏi con ngựa cái của anh ta chẳng vẫn đó thì đi đâu? Dễ chừng tôi nuốt chửng nó rồi sao? Ai cũng sấn vào, đề nghị: “Để mình rải ổ ngựa cho!” Và anh nào cũng chỉ lăm le ném đẫy thêm rơm cho con ngựa của mình… Khổ thật cơ! Phải ra quyết nghị cấm những ai không có nhiệm vụ không được phất phơ ở đây.
Anđrây nháy mắt với Đavưđốp, ngán ngẩm lắc đầu:
- Thấy chưa?
Đavưđốp nghiêm giọng ra lênh:
- Đuổi tất cả ra ngoài! Không ai được ở đây, trừ người trực nhật và người phụ việc. Cậu cho ngựa ăn bao nhiêu cỏ? Khẩu phần có cân không?
- Không, tôi không cân. Áng chừng thôi, mỗi con khoảng nửa pút.
- Rải ổ đủ cả chứ?
- Chứ sao! - Kônđrát lắc mạnh chiếc mũ kị binh Buđiônưi, làm cho mấy ngọn rơm mềm mềm rơi xuống cái gáy đen xạm và cái cổ áo dipun đã sờn của anh. - Lão quản lý Ôxtơrốpnốp nhà ta, lão Iakốp Lukits ấy, xẩm chiều hôm nay có đến đây, bảo: “Cỏ ngựa ăn còn thừa, lấy ra mà rải”. Thế mà cũng đòi ra lệnh! Lạ thật, lão ấy tự cho mình là làm ăn sành sỏi nhất, thế mà lại ăn nói hàm hồ như vậy.
- Sao?
- Còn sao nữa, hả đồng chí Đavưđốp! Đó toàn là cỏ ngon: dê cừu mà vớ được thì cứ gọi là chén hết nhẵn, không sót một ngọn, thế mà lão ấy bảo rải ổ cho ngựa nằm! Tôi vừa mở miệng cãi lại thì lão ấy đã chặn họng: “Anh chưa đủ thớ dạy tôi”.
- Đúng, không ai lại lấy cỏ ăn thừa ra rải ổ! Mai tôi sẽ cạo cho lão ấy một trận! - Đavưđốp hứa.
- Còn việc này nữa: người ta đến chuyển đi chỗ cỏ khô đánh đống để dành bên giếng. Để làm gì vậy thế không biết?
- Iakốp Lukits bảo tôi chỗ cỏ ấy xấu. Lão ấy muốn cho ăn hết cỏ xấu trong mùa đông đi, giữ lại cỏ tốt cho vụ cày.
Kônđrát đồng ý:
- Nếu như vậy thì phải rồi. Còn chuyện cỏ ăn thừa thì đồng chí bảo cho lão biết.
- Tôi sẽ bảo. Này, hút điếu thuốc Lêningrát… - Đavưđốp khẽ ho một tiếng. - Anh em ở nhà máy gửi cho mình đấy… Ngựa khoẻ cả chứ?
- Cảm ơn. Xin đồng chí tí lửa… Ngựa khoẻ cả. Đêm qua một con bị đổ, con ngựa của lão Lápsinốp trước, chúng tôi phát hiện ngay. Còn thì yên ổn cả. À, có một con bị ma ám làm sao mà nhất định không chịu nằm. Nghe nói nó cứ đứng suốt đêm. Mai chúng tôi sẽ đóng lại móng trước cho tất cả. Có sương muối nên đanh móng bị ăn mòn hết. Thôi, chào các đồng chí. Tôi đi rải ổ.
Radơmiốtnốp đưa chân Đavưđốp về. Họ vừa chuyện trò vừa đi tới cuối xóm, nhưng đến quãng rẽ về xóm Đavưđốp ở thì Radơmiốtnốp dừng lại trước cửa nhà anh nông dân cá thể Luka Tsêbakốp, nắm lấy vai Đavưđốp, thì thầm:
- Cẩn thận!
Bên cổng hàng rào, cách họ ba bước có một bóng đen. Radơmiốtnốp thình lình nhảy xổ tới, tay trái túm lấy người nấp bên hàng rào, tay phải nắm chặt báng súng lục:
- Mày à, Luka?
- Tưởng ai, hoá ra là anh Anđrây Xtêpanôvits!
- Tay phải cầm cái gì kia? Đưa đây, mau lên!
- Ô hay, sao thế, đồng chí Radơmiốtnốp?
- Bảo đưa đây! Không tao bắn chết!...
Đavưđốp bước tới, hấp háy đôi mắt cận thị:
- Tước cái gì của hắn thế?
- Đưa đây, Luka! Không tao bắn!
- Thì đây, làm gì mà anh hung thế?
- Này, nó cầm cái này đứng rình bên cổng đây! Cái đồ mày! Đêm tối mày cầm dao đứng đây làm gì? Mày đợi ai? Đavưđốp hẳn? Tao hỏi: mày cầm dao mác đứng đây làm gì? Phản động hả? Định giết người hả?
Chỉ có đôi mắt sắc như người đi săn của Anđrây mới có thể phát hiện được lưỡi dao sáng loáng trong tay người đứng nấp bên cổng hàng rào. Thế là anh xông tới tước vũ khí. Và đã tước được. Nhưng khi anh đang thở hổn hà hổn hển truy hỏi cái anh chàng Luka đang ngây tán tàn thì anh chàng này đổi giọng, mở cổng ra nói:
- Đã đến nước này thì cũng đành phải nói các anh rõ. Lạy Chúa, các anh nghi oan cho em rồi, anh Anđrây Xtêpanôvits ạ! Em mời các anh vào.
- Vào đâu?
- Vào chuồng lợn.
- Vào đấy làm gì?
- Vào xem, rồi các anh khắc rõ em vác dao ra ngõ làm gì…
- Ta vào xem sao. - Đavưđốp đề nghị, bước đi trước vào sân nhà Luka. - Đi lối nào?
- Các anh theo em.
Trong chuồng lợn bừa bộn phân khô, có một ngọn đèn dầu đặt trên chiếc ghế đẩu. Cô vợ Luka, một chị đàn bà xinh xắn, khuôn mặt đầy đặn với đôi lông mày kẻ chỉ, đang ngồi xổm cạnh đó. Thấy người lạ vào, chị ta hoảng hốt đứng dậy, lấy người che hai thùng nước và cái chậu đặt cạnh tường. Sau lưng chị ta, tận trong góc chuồng, một chú lợn đực giống no căng đang đứng trên lớp ổ rơm xem ra mới rải, rúc đầu vào chậu nước vo to tướng, ăn sùng sục.
Luka bối rối trỏ con lợn, ấp a ấp úng kể:
- Đấy, khốn khổ thật… Vợ chồng em định mổ vụng con lợn… Mụ nhà em đang cho nó ăn, còn em vừa định vật nó ra chọc tiết thì thấy ngoài ngõ có tiếng người. Em nghĩ bụng: nào, ta ra ngó một cái xem, đêm hôm thế này, sợ có ai nghe thấy. Thế là cánh tay áo vẫn để xắn nguyên, vẫn nguyên tạp dề, và vẫn nguyên con dao trong tay em ra cổng. Và thế là gặp các anh. Thế mà các anh lại nghĩ về em thế à? Có ai đi cắt cổ người ta mà lại đeo tạp dề, xắn tay áo bao giờ không? - Luka cười gượng, cởi tạp dề ra và quát vợ, giọng bực dọc cố nén lại: - Đứng làm gì đấy, con khỉ? Đuổi lợn ra!
- Đừng thịt nó nữa. - Anđrây nói, hơi ngượng lây. - Vừa mới có cuộc họp, cấm giết gia súc đấy.
- Vâng, em cũng xin thôi thôi. Các anh đã làm em cụt cả hứng rồi…
Đavưđốp đi ra, và dọc đường về tới tận nhà cứ nói kháy Anđrây:
- Cậu đúng là đã ngăn chặn được một vụ mưu sát chủ tịch nông trang! Đã tước được vũ khí một tên phản cách mạng! Một chiến công, thực tế thế! Hà - hà - hà!
Radơmiốtnốp trả miếng:
- Chẳng gì thì mình cũng đã cứu được tính mạng một con lợn.


Tập I - Chương 17

Hôm sau, chi bộ Đảng Grêmiatsi Lốc họp riêng đã nhất trí thông qua nghị quyết tập thể hoá toàn bộ gia súc, cả lớn lẫn nhỏ, của nông trang viên. Ngoài gia súc ra, gia cầm cũng được đưa vào tập thể.
Lúc đầu, Đavưđốp kịch liệt phản đối việc tập thể hoá gia súc nhỏ và gia cầm, nhưng Nagunốp quả quyết rằng nếu hội nghị nông trang viên không ra quyết nghị tập thể hoá toàn bộ ngành chăn nuôi thì vụ gieo xuân sẽ đi tong, vì gia súc sẽ bị thịt sạch, và cả gia cầm nữa. Radơmiốtnốp ủng hộ ý kiến của anh, và Đavưđốp do dự một lúc rồi cũng đồng ý.
Ngoài ra đã quyết định và ghi vào biên bản hội nghị mở một chiến dịch tuyên truyền ráo riết chống việc giết hại gia súc, và để làm việc đó tất cả các đảng viên phải chia nhau đi các hộ ngay ngày hôm ấy để giải thích. Còn về những biện pháp trừng trị những ai can tội giết gia súc thì hội nghị quyết định chưa đem ra áp dụng với ai cả, mà còn đợi kết quả đợt tuyên truyền vận động này.
Nagunốp đút tờ biên bản vào cặp, hể hả nói:
- Có thế này thì mới giữ được gia súc, gia cầm. Bằng không thì sang xuân trong làng sẽ không còn nghe thấy một tiếng bò rống lẫn một tiếng gà gáy.
Hội nghị nông trang viên đã thông qua một cách thoải mái nghị quyết tập thể hoá toàn bộ gia súc, vì thực ra bò ngựa cày kéo và bò sữa đã tập thể hoá trước rồi, và nghị quyết này chỉ liên quan đến gia súc non, cừu và lợn thôi. Nhưng về chuyện gia cầm thì cuộc tranh luận kéo dài gay go. Các bà các chị phản đối hăng nhất, nhưng cuối cùng cũng xuôi. Và xuôi chủ yếu là nhờ Nagunốp. Anh đã phát biểu bằng một giọng thấm thía, hai bàn tay áp chặt lên tấm huân chương trên ngực:
- Các bà, các chị em ạ! Gà với ngỗng thì bám lấy làm gì? Cái nhà chẳng tiếc, tiếc gì cái cột? Cho nốt chúng vào nông trang đi. Sang xuân ta sẽ gửi mua một cái máy ấp, cái máy ấy chẳng cần cục ta cục tác gì cả mà sẽ cho ta hàng trăm chú gà con. Có loại máy như thế đấy, gọi là máy ấp trứng, nó ấp giỏi đáo để. Tôi xin bà con, bà con đừng khăng khăng như thế ! Thì rồi nó cũng là gà của bà con cả thôi mà, chỉ có khác là để ở chuồng nuôi tập thể thôi. Các mẹ, các thím ạ, không nên duy trì chế độ tư hữu gà qué! Mà bà con nuôi gà thì có lợi quái gì! Đằng nào thì mùa này nó cũng không đẻ. Còn sang xuân thì bà con vất vả với nó. Lúc thì nó, mụ gà mái ấy, nhảy vào vườn rau bới lung tung, lúc thì nó, cái con chết tiệt ấy lại đẻ lang quãng nào trong kho, mất toi trứng, lúc thì nó bị cáo vặn cổ… Thật là trăm thứ tội nợ! Và mỗi lần bà con lại phải chui rúc vào chuồng gà, sờ soạng xem ổ nào có trứng, ổ nào không. Chui rúc vào đấy, bọ gà bám đầy người. Vất vả với chúng chứ được gì. Còn như vào nông trang thì gà sẽ sống ra sao? Tuyệt! Chúng sẽ được chăm sóc chu đáo: ta sẽ giao cho một cụ nào goá vợ trông nom, như cụ Akim Bexkkhlépnốp đây chẳng hạn, và suốt ngày cụ chỉ có việc sờ nắn chúng, lần xem những chỗ gà đậu. Công việc vừa vui vừa nhẹ nhàng, đúng công việc tuổi già. Làm việc ấy thì chẳng bao giờ lo lao lực mà mang bệnh cả. Các mẹ, các chị đi tới đồng ý đi.
Các bà các chị cười chán, thở dài chán, tranh luận chán, rồi cuối cùng “đi tới đồng ý”.
Ngay sau cuộc họp, Nagunốp và Đavưđốp đi một vòng các hộ. Ngay ở xóm đầu tiên đã thấy rõ là chẳng nhà nào là nhà không giết gia súc… Khoảng gần bữa chiều thì hai người rẽ vào nhà bác Suka. Nagunốp chân bước vào sân, miệng khẳng định:
- Cán bộ cốt cán đấy! Chính ông lão thường nói phải bảo vệ gia súc. Lão này thì chả mổ thịt đâu.
Ông “cán bộ cốt cán” đang nằm trên giường, cẳng co con tôm. Áo sơmi bác vén ngược lên đến tận chòm râu dê, và trên cái bụng xám ngoét lép kẹp bờm xờm một ít lông hoa râm, một chiếc nồi đất dung tích khoảng sáu lít được đặt úp ngược, cái miệng sắc cạnh cắn vào da bụng. Hai bên sườn lại thây lẩy hai ống giác bám chặt như hai con đỉa. Bác Suka chẳng buồn để ý tới khách mới vào. Hai tay bác bắt chéo trước ngực như tay người chết, cứ run lật bật. Đôi mắt bác, trợn ngược và dại hẳn đi vì đau đớn, cứ từ từ đưa đi đảo lại. Nagunốp có cảm tưởng nhà sặc mùi người chết. Bà lão Suka béo quay đứng bên lò sưởi, còn mụ lang Mamưitskha thì te tái bên giường người ốm, nhanh thoăn thoắt và đen như một con chuột chũi. Mụ nổi tiếng khắp vùng về nghề giác nồi chữa bệnh, nắn xương, thay máu và phá thai với kim đan bằng sắt và lúc này cũng lại chính mụ đang “phục vụ” ông lão Suka bất hạnh.
Đavưđốp bước vào nhà, và trố mắt lên:
- Chào bác Suka! Bác úp cái gì lên bụng thế kia?
- Lão đa..u..u! Đa...u..u bụng!.. - Bác Suka thều thào, ngắt từng tiếng. Rồi bỗng bác kêu lên nheo nhéo, rền rĩ như một con chó con: - B..b..ỏ..o cái nồi ra! Bỏ ra, con mụ phù thuỷ! Ối giời ơi, vỡ bụng mất! Ối, các anh ơi, cứu lão với!
- Cố một tí! Cố một tí! Nhẹ ngay bây giờ đây. - Mụ Mamưitskha vừa thì thào dỗ dành vừa cố hết sức gỡ miệng cái nồi đang mút chặt vào bụng bác.
Nhưng bỗng bác Suka gầm lên như một con sư tử, đạp cho mụ lang một cái và hai tay ôm chặt lấy cái nồi giác. Thấy vậy, Đavưđốp bước tới vội đỡ cho bác: anh gạt mụ Mamưitskha ra, vớ lấy thanh củi gõ mạnh một nhát vào đít nồi. Chiếc nồi vỡ tung, bắn văng ra từng mảnh. Bác Suka sôi bụng lên ùng ục, nhẹ hẳn người, thở gấp và dứt nốt hai ống giác ra một cách dễ dàng. Đavưđốp nhìn bụng bác với cái rốn thâm tím lồi lên to tướng dưới mảnh nồi vỡ, và buông người xuống tấm ghế dài, phá ra một trận cười rũ rượi. Anh cười chảy nước mắt nước mũi, rơi cả mũ, và mớ tóc đen xoà cả xuống mắt anh.
Bác Suka quả là loại người trời đánh không chết! Mụ Mamưitskha mới vừa kịp mở miệng than vãn tiếc cái nồi vỡ, bác đã kéo áo sơmi xuống, ngồi nhỏm dậy.
- Khổ cái thân tôi! - Mụ Mamưitskha mếu máo mồm loa mép giải. - Đập vỡ mất cái nồi của người ta rồi, đồ chết tiệt! Người ta chữa bệnh cho, nhưng lại không muốn yên lành.
Bác Suka trỏ ra cửa:
- Mụ xéo đi! Xéo ngay đi cho khuất mắt ông! Suýt nữa thì ông toi mạng với mụ rồi! Lẽ ra ông phải ghè cái nồi vào đầu mụ mới phải! Xéo đi, không ông giết! Ông điên lên thì không biết thế nào đâu!
Cánh cửa vừa sập lại sau lưng mụ Mamưitskha thì Nagunốp hỏi:
- Sao mà nên nông nỗi này thế bác?
- Ôi, các cháu ơi, không nói bỡn đâu, suýt chết! Hai ngày hai đêm không còn mò được đi đâu, tay lúc nào cũng ôm khư khư cái quần.. Té re cứ như tháo cống, không giữ được nữa! Chốc chốc lại són ra, như cái đít ngỗng con…
- Lại ních thịt vào phải không?
- Phải, thịt...
- Thịt mất con bò cái tơ rồi à?
- Ừ, đi đời con bò cái tơ rồi.. Nó hỏng rồi, chả còn được tích sự gì…
Maka đằng hắng một tiếng, hằn học nhìn bác Suka một cái từ đầu đến chân, rít răng lại nói:
- Khọm già! Úp lên bụng lão cái nồi thì chưa thấm gì, úp cái thống ba thùng nước mới phải. Để nó hút lòi hết ruột non ruột già lão ra! Được, sẽ tống cổ lão ra khỏi nông trang, rồi thì thao hồ mà tháo tỏng! Sao lại thịt nó đi?
- Mụ mẫm đầu óc rồi chứ sao hả anh Maka?.. Bà lão nhà tôi xui, cái giống chim cu gáy đêm ấy, nó toàn gáy điềm gở… Các anh thương lão làm phúc… Đồng chí Đavưđốp ơi! Anh với lão là chỗ bạn bè, xin anh đừng đuổi lão ra khỏi nông trang. Lão thế này cũng đủ khốn khổ khốn nạn rồi…
- Thế là hết nói với lão! - Nagunốp khoát tay mộtcái. - Ta đi thôi, anh Đavưđốp. Này, lão tháo cống kia! Lấy dầu lau súng pha tí muối vào mà uống, cầm đấy.
Bác Suka phát uất lên, run run đôi môi:
- Anh giễu lão đấy hả?
- Tôi nói thật đấy. Hồi ở quân đội Sa hoàng, chúng tôi đau bụng toàn chữa thế khỏi.
- Thế dễ ruột gan lão là sắt thép chắc, mà bảo lão lấy thứ tẩy gỉ cho súng để tẩy ruột? Không chơi! Thà chết dúi trong vườn quỳ chứ lão chẳng uống món dầu lau súng ấy đâu!
Bác Suka còn nặng nợ đời, chưa chết nổi. Hôm sau, bác đã tập tễnh đi khắp làng, và gặp ai cũng kể chuyện Đavưđốp cùng Nagunốp đến thăm lão, hỏi ý kiến lão về việc tu sửa nông cụ chuẩn bị cho vụ gieo và về một số công việc khác của nông trang. Kết thúc câu chuyện, lão ngừng lại hồi lâu, cuốn điếu thuốc hút, rồi thở dài:
- Lão mới chỉ mệt xoàng, ấy thế mà các anh ấy đã đến. Không có mình là không xong mà! Các anh ấy cứ giục uống thuốc. Các anh ấy bảo: “Thuốc thang đi cho khỏi, cố ơi, chứ nói gở mồm gở miệng, cố mà chết thì chúng tôi gay go to, biết trông cậy vào ai?” Và lạy Chúa, gay go thật ấy chứ. Động có chuyện gì là các anh ấy lại mời lên chi bộ xin ý kiến: được, để xem, và rồi lão góp với các anh ấy tí ý kiến. Lão ít nói, nhưng đã nói là cấm sai bao giờ. Lời lão nói đâu phải lời tào lao mà bỏ qua được!
Và lão ngước đôi mắt đục lờ, mãn nguyện nhìn người nghe, thăm dò xem câu chuyện mình kể đã gây tác động thế nào.

Tập I - Chương 18

 Ấp Grêmiatsi Lốc ắng đi một hồi, lại nhộn nhạo lên… Bà con đã ngừng giết gia súc. Suốt hai ngày, họ xua đi và dắt đi những con dê, con cừu đủ các loại lông, mang đến chuồng nuôi tập thể. Còn gà thì mang trong bao bì. Làng xóm rộn lên tiếng dê cừu kêu và tiếng gà ngỗng quang quác.
Nông trang đã có một trăm sáu mươi hộ, chia làm ba đội sản xuất. Ban quản trị uỷ nhiệm cho Iakốp Lukits đem đống áo varơi, ủng và đồ mặc khác tịch thu của bọn kulắc, chia cho bà con bần cố thiếu quần áo giày dép. Họ lập một bản danh sách, và phát hiện ra rằng không đủ khả năng thoả mãn mọi người.
Sân nhà Titốc, nơi Iakốp Lukits phân chia quần cáo tịch thu của bọn kulắc, suốt ngày ồn ào tiếng người cho đến tận tối mịt. Ngay tại chỗ, bên gian nhà kho, giữa sân tuyết, họ tụt giày ra ướm thử những đôi giày còn tốt nguyên của bọn kulắc, khoác vào người những tấm áo măngtô, véttông, áo cánh, áo varơi. Những người may mắn được hội đồng phân phối cho quần áo giày dép tính trừ vào công điểm vụ sắp tới, cởi phăng ngay quần áo cũ tại chỗ. Đằng hắng mãn nguyện, mắt sáng lên, khuôn mặt đen sạm rạng rỡ một nụ cười dè dặt trên đôi môi run run, họ hấp tấp vo tròn những quần áo cũ vá chằng vá đụp, và diện luôn những đồ mới không còn hở da hở thịt nữa. Và chọn được một thứ gì thì phải mất bao nhiêu là lời bàn đi tính lại, góp ý, chửi rủa, do dự thốt ra miệng… Đavưđốp ra lệnh phân phối cho Liubiskin một chiếc véttông, một quần sarôva và một đôi ủng. Iakốp Lukits mặt khó đăm đăm lôi ở trong hòm ra một mớ quần áo, vứt phịch xuống chân Liubiskin.
- Chọn kỹ đi!
Bộ râu mép ataman của anh mấp máy, hai bàn tay run run … Thế là anh chọn. Anh chọn một chiếc véttông, và mồ hôi anh vã ra như tắm! Anh ghé răng cắn thử độ bền của dạ, soi lên trời xem có bị nhậy nhấm không, vần đi vần lại cái áo trong hai bàn tay cáu đen của mình đến mươi phút. Và quanh anh hơi thở nóng ngột, tiếng người nói nhao nhao:
- Thôi lấy đi, đời con còn mặc tiếp được đấy.
- Mắt với mũi! Áo lộn rồi, không thấy à?
- Điêu!
- Có mày gà mờ ấy!
- Lấy đi thôi, Paven!
- Đừng lấy, thử cái khác xem!
Mặt Liubiskin đỏ lên như gạch nung; anh nhấm nhấm hàng ria đen, lấm lét nhìn quanh rồi đưa tay với lấy một áo khác. Anh chọn nhặt một cái. Áo này thì tuyệt rồi! Anh xỏ hai cánh tay dài ngoẵng vào: cánh tay áo chỉ ngắn đến khuỷu và đường chỉ ở vai bục ra. Và một lần nữa, mỉm cười bồi hồi và lúng túng, anh lại lục bới đống quần áo. Mắt anh nhớn nhác như mắt một thằng cu con trước cảnh la liệt đồ chơi của hội chợ; đôi môi anh nở một nụ cười con nít rạng rỡ quá đến nỗi người ta muốn âu yếm xoa đầu anh chàng ataman Liubiskin to lớn như ông hộ pháp ấy một cái. Cứ thế rồi nửa ngày anh chưa chọn xong. Anh xỏ chiếc quần sarôva, đi đôi giày vào, thở dài một cái, nói với lão Iakốp Lukits mặt quằm quặm:
- Mai tôi sẽ đến chọn nốt.
Anh bước ra ngõ với tấm quần sarôva kẻ sọc và đôi ủng cổ bẻ, nom trẻ ngay đi đến mươi tuổi. Anh cố tình rẽ ra đường cái mặc dù chẳng tiện đường về nhà anh, đến các ngã tư thì dừng lại luôn, lúc châm điếu thuốc, lúc trò chuyện vài câu với ai đó. Anh mải khoe, đi ba tiếng đồng hồ mới mò về tới nhà, và xẩm tối thì khắp làng người ta đã kháo nhau: “Họ làm đỏm cho Liubiskin cứ như để đi quân dịch vậy! Hắn chọn quần áo hết cả một ngày hôm nay… Trên đường về, diện toàn đồ mới, quần sarôva đẹp tuyệt. Hắn đi nom oai như cóc tía, khéo chẳng cảm thấy chân chạm đất đâu..”.
Còn cô vợ Đemka Usakốp thì cứ đứng ngây ra trước hòm quần áo. Chị ta mặc vào người chiếc váy len gấp nếp trước kia là của mụ Titốc, xỏ chân vào một đôi giày cao gót, choàng lên đầu một tấm khăn san hoa. Và chỉ đến lúc ấy mới đập vào mắt mọi người, chỉ đến lúc ấy người ta mới vỡ nhẽ ra là cái nhà chị Đemka kia hoàn toàn chẳng xấu gái tí nào, trái lại nom hay đáo để. Và bảo làm sao một người đàn bà khốn khổ như chị không đứng chết lặng đi trước đống của cải ấy khi mà, suốt cuộc đời cay đắng của mình, chị chưa hề được biết một miếng ngon, chưa được khoác lên vai một tấm áo mới? Bảo làm sao đôi môi chị, nhợt nhạt do quanh năm ngày tháng thiếu ăn, không tái mét đi khi Iakốp Lukits lôi trong hòm ra cả một ôm quần áo phụ nữ? Chị đẻ sòn sòn năm một, đụp con bằng những vuông tã rách và những mảnh da cừu nát. Còn bản thân chị thì suốt mùa hè mặc độc có một chiếc váy vải thưa như rây bột, sắc đẹp thuở xưa, sức khoẻ và vẻ tươi tắn tiêu ma đi trong cảnh cơ cực túng bấn triền miên; còn mùa đông, khi giặt chiếc áo cánh độc nhất lúc nhúc những rận, chị cởi trần ngồi với đàn con bên lò sưởi, vì chẳng còn áo nào thay…
- Các bà ơi!.. Các bà ơi!.. Khoan tí đã, có lẽ tôi chả lấy cái váy này đâu… Tôi đổi cái khác… Có cái gì cho lũ trẻ không nhỉ… Cho thằng Misa… con Đunhia… - Chị thều thào cuống quýt, tay bám khư khư lấy nắp hòm, hai mắt long lanh không rời khỏi đống quần áo sặc sỡ màu sắc.
Đavưđốp tình cờ được mục kích cảnh ấy, cảm thấy lòng mình thắt lại… Anh len tới chỗ cái hòm, và hỏi:
- Thím được mấy cháu?
Chị Đemka, trong lòng tràn trề một niềm hy vọng rạt rào làm chị không dám ngửng đầu lên nhìn, thì thào đáp:
- Bảy cháu…
Đavưđốp hỏi nhỏ Iakốp Lukits:
- Có quần áo trẻ con không bác?
- Có.
- Thím ấy cần những gì cho các cháu, bác cấp cho thím ấy đủ.
- Thế thì thím ấy bở quá!...
- Cái gì?.. Sao?.. - Đavưđốp khó chịu nhe chiếc răng sứt ra, và Iakốp Lukits vội cúi xuống hòm quần áo.
Đemka Usakốp bình thường mau mồm mau miệng và ác khẩu, lúc này đứng sau lưng vợ cứ nín thở, lẳng lặng liếm đôi môi khô nẻ. Nhưng Đavưđốp vừa dứt lời thì anh ta đưa mắt liếc nhìn anh một cái… Và bỗng đôi mắt lác xệch của Đemka ứa ra hai hàng nước mắt, như nước mật ứa ra từ một trái quả chín mõm. Anh vùng bỏ chạy ra cổng, tay trái gạt người xung quanh, tay phải che mắt. Vọt qua hàng rào, Đemka bỏ ra đi, xấu hổ, không muốn để ai thấy mình khóc. Và từ dưới hai lòng bàn tay đen xạm của anh, những giọt nước mắt cứ thế tuôn ra, ròng ròng trên má, trong và long lanh như những hạt sương.
Xẩm chiều bác Suka mới hối hả tới chỗ chia quả thực. Bác xồng xộc vào trụ sở ban quản trị nông trang, thở không ra hơi, nói với Đavưđốp:
- Chào đồng chí Đavưđốp! Nom đồng chí khoẻ đấy nhỉ?
- Chào bác.
- Đồng chí biên cho xin cái giấy.
- Giấy gì?
- Giấy lĩnh quần áo chia.
Nagunốp đang ngồi cạnh Đavưđốp, dướn đôi lông mày lên, hỏi:
- Bác được cái tích sự gì mà đòi chia quần áo? Tích sự làm thịt con bê hẳn?
- Ăn cơm mới nói chuyện cũ làm gì, hả anh Maka? Anh bảo lão tích sự gì à? Thế ai đã bị khốn khổ khốn nạn khi đến tịch thu nhà thằng Titốc? Lão đây với đồng chí Đavưđốp chứ ai? Anh ấy bị nó đánh cho suýt bể đầu, nhưng thế vẫn còn là xoàng, lão đã bị con chó của nó cho đi tong mất cái áo lông cừu cơ. Cả một cái áo chỉ còn làm được độc đôi xà cạp! Lão đã hy sinh cho chính quyền Xôviết, thế mà lại bảo không được gì à? Chẳng thà thằng Titốc đập lão bể sọ mà cái áo của lão không bị làm sao còn hơn. Chẳng là vì cái áo ấy của bà lão mà lị. Bà ấy có thể làm cho lão sống dở chết dở vì chuyện cái áo ấy! Đúng thế đấy!
- Ai bảo bác chạy? Đừng chạy thì áo có làm sao?
- Không chạy mà được à? Anh Maka ơi, thế anh có biết con quỷ cái vợ thằng Titốc ấy nó giở trò gì ra không? Nó xuỳ chó xông vào lão và mồm nó tru tréo: “Xéckê, túm lấy nó! Xé xác nó ra, chính nó là thằng đầu sỏ!” Đồng chí Đavưđốp đây có thể làm chứng cho lão.
- Bác già mà điêu thế!
- Đồng chí Đavưđốp, đồng chí làm chứng cho lão!
- Tôi cũng chẳng nhớ…
- Thề có Chúa, đúng là nó tru tréo thế thật! Thành thử lão hết hồn hết vía, rốt cuộc phải đánh bài tẩu. Ấy nếu như nó là một con chó như mọi con chó thường thì đã chẳng sao, đằng này nó lại dữ hơn hổ nữa kia!
- Ai xuỳ chó đuổi bác? Bác chỉ bịa!
- Anh Maka ơi, đấy là anh không nhớ ra thôi! Chính anh lúc ấy cũng hoảng, mặt tái xanh tái xám, thế thì còn nhớ làm sao được! Lúc ấy lão cũng tầm bậy, thoáng nghĩ: “Cậu Maka khéo sắp chuồn bây giờ!” Còn chuyện con chó lôi lão xềnh xệch trong sân thì lão nhớ rõ từng ly từng tí! Không có con chó ấy thì thề có Chúa, thằng Titốc đừng hòng sống sót thoát nổi tay lão đây! Lão thì ghê lắm!
Nagunốp nhăn mặt lại như người đau răng, bảo Đavưđốp:
- Cho lão ấy cái giấy, để lão ấy xéo đi cho rảnh.
Nhưng bác Suka lúc này hơn lúc nào hết, đang hứng chuyện:
- Anh Maka ạ, lão ấy à, hồi trẻ lão chọi khiếp lắm nhá…
- Ôi giào ôi, thôi đừng ba hoa nữa, chán tai lắm rồi! Có lẽ phải biên cho bác lĩnh cái nồi gang đấy nhỉ? Không thì đau bụng lấy gì mà giác?
Bác Suka tức điếng người, lẳng lặng cầm lấy tờ giấy, bỏ đi ra chẳng thèm chào ai. Nhưng sau khi được Iakốp Lukits trao tay cho một chiếc áo varơi mềm rộng thùng thình, bác lại chuyển sang một tâm trạng hết sức phấn khởi. Bác mừng híp mắt lại, mê cu tơi. Bác lấy hai ngón tay kẹp lấy tà áo như nhón hạt muối, vén ngược lên như các bà vén váy qua quãng lội; bác tặc lưỡi, khoe với bà con kô-dắc:
Áo varơi đây nhá! Lão được nó cũng đáng công đáng của. Cả làng biết đấy: khi chúng tôi đến tịch thu nhà thằng Titốc, nó đã cầm cái chốt sắt nhảy bổ vào đồng chí Đavưđốp. Lão nghĩ bụng,: “Chết cha anh Đavưđốp rồi!” Thế là lão liền xông ra cứu, ra tay yêng hùng đánh bật được nó ra! Không có lão thì Đavưđốp toi mạng rồi còn gì!
Một người trong đám bà con đứng nghe đế vào:
- Sao người ta bảo bác bị con chó đuổi chạy ngã quay lơ và bị nó cắn toạc tai như cắn tai con lợn?
- Láo toét! Thiên hạ rỗi hơi: không dưng họ cứ đặt điều! Con chó thì là quái gì! Một giống vừa bẩn vừa ngu. Nó có hiểu cái chết tiệt gì… - Bác Suka lái khéo sang chuyện khác

Tập I - Chương 19

Đêm…
Xa, rất xa về phía bắc Grêmiatsi Lốc, sau những dãy núi đồi thảo nguyên âm u, sau những khe lũng, sau những cánh rừng trùng điệp, là thủ đô của Liên bang Xôviết. Trùm lên thủ đô là một bể ánh điện. Ánh sáng xanh lung lịnh của nó, như ráng lửa một đám cháy âm thầm, lơ lửng bên trên những toà nhà nhiều tầng, át cả cái ánh sáng vô dụng của trăng sao lúc đêm khuya.
Ở cách Grêmiatsi Lốc một nghìn rưởi cây số, thành phố Mátxcơva được tạc bằng đá, ngay cả giữa đêm hôm vẫn rộn ràng sức sống: còi xe lửa hú lên những hồi dài lanh lảnh, còi ô tô vang lên như những nốt nhạc của cây đàn phong cầm khổng lồ, xe điện đi lại rầm rập, bánh xe nghiến ken két. Và phía sau lăng Lênin, sau bức tường điện Kremli, cao cao trong làn gió lạnh, trên nền trời rực sáng phần phật tung bay một lá cờ đỏ. Trong ánh điện trắng sáng quắc chiếu hắt từ dưới lên, lá cờ cháy rực, phùn phụt như một dòng máu đào. Gió trên cao cuồn cuộn thổi thốc lá cờ lên, và lá cờ đang rủ xuống nặng nề chốc lát rồi lại tung cánh, lúc hướng sang phương tây, lúc hướng sang phương đông, đỏ rực như ngọn lửa khởi nghĩa, kêu gọi vùng lên đấu tranh…
Cách đây hai năm, Kônđrát Maiđanhikốp, lúc ấy đang ở Mátxcơva dự Đại hội các Xôviết toàn Nga, đã đến Hồng trường vào một buổi đêm khuya. Anh nhìn lăng Lênin, nhìn lá cờ đỏ chói lọi tung bay trên bầu trời, và vội cất cái mũ kỵ binh Buđiônưi trên đầu xuống. Rồi đầu trần, áo dipun vải thô mở phanh, anh đã đứng hồi lâu, không nhúc nhích…
Ở Grêmiatsi Lốc đây thì ban đêm im lặng như tờ. Những gò đống hoang vắng quanh làng lấp lánh một lớp tuyết non, trắng như lông thiên nga. Bóng đêm xanh ngát trùm lên các khe lũng, nếp đồi, bụi rậm. Chòm sao Bắc đẩu gần như chạm sát chân trời. Cây thuỳ dương mọc bên trụ sở Xôviết vươn lên như một cây nến đen trên nền trời đen thăm thẳm. Dòng nước suối thì thầm bí hiểm, róc rách chảy ra sông. Nhìn dòng sông chảy, ta trông thấy sao lặn. Trong không khí tịch mịch bề ngoài của đêm trường, nếu lắng tai nghe bạn sẽ thấy con thỏ rừng đang gặm cành non bằng hàm răng vàng khè nhựa cây của nó. Trên thân cây anh đào mờ mờ ánh lên dưới ánh trăng một cục nhựa đông màu hổ phách. Bạn hãy bóc nó xuống mà xem: cục nhựa trông giống như một quả mận chín nục chưa ai đụng tới, được phủ một lớp phấn mịn. Thỉnh thoảng một cục băng trên cành rơi xuống, rồi tiếng động pha lê ấy chìm đi trong cái tịch mịch của đêm trường. Những nhành non của cành anh đào với những nụ xám vân vân - mà bọn trẻ gọi là “nước mắt chim cu” - im lìm như chết…
Bốn bề tịch mịch…
Mãi đến sớm tinh mơ, khi từ phương bắc, luồn qua dưới mây đen, ngọn gió Mátxcơva bay về, phe phẩy đôi cánh lạnh buốt trên mặt tuyết, thì ở Grêmiatsi Lốc mới cất lên những tiếng nói ban mai của cuộc sống: cành dương trụi lá rì rào trong các lùm cây, đàn chim đa đa về trú rét quanh làng, và đêm đêm đi kiếm ăn trong các nhà chứa thóc, ríu rít gọi nhau. Chúng bay đi nghỉ ngày trong các bụi cây, trên sườn cát thoải của các khe rãnh, để lại trên mặt tuyết quanh các nhà kho những cọng rơm, những dấu vết chân xoè nan quạt. Bê rống lên gọi mẹ; gà sống mới tập trung thi nhau gáy loạn; toả ra khắp làng mùi khói phân ngựa hăng hắc cay cay.
Nhưng khi xóm làng còn chìm trong đêm tối, trong cả Grêmiatsi Lốc có lẽ Kônđrát Maiđanhikốp là người duy nhất không ngủ. Miệng anh đắng hơi thuốc lá, đầu nặng như chì và bụng nôn nao…
Nửa đêm. Và thoáng hiện ra trước mắt Kônđrát vầng ánh điện huy hoàng phủ lên thành phố Mátxcơva. Anh trông thấy lá cờ đỏ rực đang tung bay, đầy đe doạ và giận dữ, bên trên nóc điện Kremli, bên trên cái thế giới bao la vô tận ở đó còn đổ biết bao nhiêu là nước mắt, nước mắt của những người cũng lam lũ như anh, sống ngoài biên giới Liên bang Xôviết. Anh nhớ lại những lời mẹ anh hồi còn sống đã nói với anh một hôm, khi anh còn bé, để dỗ anh nín:
- Nín đi, bé Kônđrát của bu đừng làm Chúa giận. Những người nghèo khổ trên khắp thế gian ngày nào cũng than khóc, kêu ca với Chúa cảnh mình túng đói, cảnh người giàu vơ vét hết của cải. Mà Chúa thì dạy người nghèo phải biết chịu đựng. Thế nên Chúa giận vì những người nghèo đói cứ khóc mãi, Chúa thu hết nước mắt của họ, biến thành mây mù rải xuống biển cả, làm cho trời đất mù mịt, không trông thấy gì nữa. Và thế là tàu bè bị lênh đênh trên mặt biển, lạc đường, va vào đá ngầm mà đắm. Hoặc là Chúa biến nước mắt thành sương. Rồi một đêm, sương muối sẽ đổ xuống đồng ruộng khắp thế gian, ở làng ta cũng như ở các nơi xa khác. Những giọt nước mắt đắng cay ấy sẽ làm cho lúa mới trổ đòng chết khô chết héo, nạn đói nạn dịch sẽ lan tràn khắp thế gian… Thành thử người nghèo không nên than thân trách phận, để khỏi chuốc vạ vào thân… Hiểu chưa hả con? - Và bà nghiêm nghị kết luận: - Cầu nguyện đi, Kônđrát ạ! Cầu nguyện thì dễ thấu đến tai Chúa hơn.
Chú bé Kônđrát hỏi lại bà mẹ ngoan đạo:
- Thế ta là người nghèo, hả bu? Thày cũng nghèo à?
- Phải.
Chú bé Kônđrát đã quỳ phục xuống trước tấm ảnh thánh của tín đồ cựu giáo, chắp tay cầu nguyện và lau mắt đến ráo hoảnh, để Chúa đang nổi giận khỏi trông thấy dù chỉ một giọt nước mắt của Kônđrát.
Kônđrát nằm, lần lại chuỗi kỷ niệm xa xưa như lần một mạng lưới. Anh xuất thân là dân kô-dắc sông Động, và bây giờ đã là một nông trang viên tập thể. Anh đã suy nghĩ nhiều trong nhiều đêm dài, những đêm dài như những con đường mòn thảo nguyên. Bố anh hồi sinh thời đi lính quân dịch, đã từng cùng với đồng đội vung roi quất, vung gươm chém giết những người thợ dệt thành phố Ivanôvô Vôdơnexenxcơ, bảo vệ quyền lợi của bọn chủ nhà máy. Ông cụ chết đi, Kônđrát lớn lên và đến năm 1920, anh đã vung gươm chém bọn Bạch quân Ba Lan và bọn quân Vranghen, bảo vệ Chính quyền Xôviết của anh, bảo vệ chính quyền của chính những người thợ dệt Ivanôvô Vôdơnexenxcơ, chống lại bọn chủ nhà máy và lính đánh thuê của chúng.
Từ lâu rồi Kônđrát không còn tin ở Chúa nữa, mà tin ở Đảng cộng sản đang dẫn dắt lao động toàn thế giới giành lấy giải phóng, giành lấy một tương lai tươi đẹp. Anh đã dắt đến chuồng nuôi tập thể toàn bộ gà vịt, không sót một cái lông. Anh tán thành rằng chỉ những ai có làm thì mới được ăn, mới được xéo chân lên cỏ. Anh gắn bó chặt chẽ với chính quyền Xôviết, không gì tách rời nổi. Ấy thế mà bao đêm nay anh trằn trọc không ngủ… Anh không ngủ được vì trong anh vẫn còn cái lòng luyến tiếc khốn kiếp đối với của cải tư hữu của anh mà chính anh đã tự nguyện từ bỏ… Lòng luyến tiếc ấy bó tim anh, làm anh tê tái buồn bực…
Số là trước kia anh bận rộn suốt ngày: bảnh mắt ra cho bò đực, bò cái, cừu và ngựa ăn uống; đến trưa lại lôi trong kho ra những bao lưới rơm rạ và cỏ khô, chú ý không để vương vãi một cọng, để đến tối lại thu dọn cất vào kho. Rồi lại ban đêm nữa, mấy lần ra thăm chuồng thú, thu nhặt cỏ vãi, bỏ vào máng ăn. Nhọc thì có nhọc nhưng lòng người chủ vẫn vui. Nhưng bây giờ chuồng súc vật nhà Kônđrát vắng tanh vắng ngắt. Chả còn con gì để thăm nom. Máng ăn bỏ không, cánh cửa bằng cành ghép mở toang, và suốt đêm cũng chẳng nghe thấy cả đến tiếng gà gáy, chẳng còn biết giờ giấc và đêm hôm sớm muộn ra sao.
Chỉ những hôm nào trực nhật ở chuồng ngựa nông trang, Kônđrát mới nguôi đi nỗi buồn. Còn thường ngày, anh kiếm đủ cớ bỏ nhà đấy chuồn đi đâu cho mau, để khỏi nhìn thấy gian chuồng trống tuềnh trống toàng, khỏi nhìn thấy đôi mắt âu sầu của vợ.
Lúc này đây chị đang nằm bên anh, hơi thở đều đều. Con bé Khrixtina nằm trên trốc lò sưởi đang trở mình, chem chép đôi môi, nói líu ríu trong mơ: “Khẽ chứ, thày ơi!... Khẽ khẽ chứ…”. Chắc hẳn nó đang mơ những giấc mơ con trẻ, trong sáng, những giấc mơ của riêng loại tuổi nó; nó thì sống thoải mái quá, hít thở thoải mái. Chỉ một bao diêm không cũng làm nó vui thích. Nó lấy bao diêm làm thành cỗ xe trượt tuyết cho con búp bê vải. Với chiếc xe trượt tuyết ấy nó chơi được đến tối, và hôm sau một trò chơi khác sẽ lại làm nó tủm tỉm cười.
Còn Kônđrát thì nằm nghĩ liên miên. Anh giẫy giụa trong những ý nghĩ ấy như con cá mắc lưới… “Bao giờ mày mới chịu buông tha tao, hả cái lòng tiếc rẻ khốn kiếp kia? Bao giờ mày mới chịu chết khô, chết héo, hả cái giống sâu bọ độc hại kia?... Mà không biết nó ở đâu chui ra thế nhỉ? Mình đi qua tàu ngựa, thấy ngựa người ta, mình thản nhiên như không, nhưng cứ động đến chỗ con ngựa nhà mình, trông thấy cái lưng vằn đen đến khấu đuôi của nó, thấy cái tai trái có vết của nó là y như lòng mình se lại, tưởng đâu như lúc ấy mình quý nó hơn vợ. Và mình cứ tìm đủ mọi cách ném cho nó thứ cỏ nào thơm ngon nhất, mịn nhất. Và anh nào cũng thế cả: ai cũng xoắn xuýt con ngựa của mình, còn ngựa người khác thì phớt lờ, ấy là bây giờ không còn chuyện của anh của tôi nữa, tất cả là của chúng ta rồi vậy mà vẫn thế đấy… Nhiều người bây giờ thờ ơ, chẳng buồn quan tâm săn sóc gì súc vật… Hôm qua là phiên Kugienkốp trực nhật. Cậu ta không tự mình dẫn ngựa đi uống nước mà sai thằng bé đưa đi. Thằng nhãi nhảy phốc lên lưng một con, xua cả đàn ra sông. Con nào uống rồi, con nào chưa uống, mặc xác, nó lại vớ lấy gậy, xua về chuồng. Và đừng có dại mà nói, nói thì họ sẽ khịa lại: “Vâng, ngựa ông thì phải ưu tiên rồi!” Tất cả là do mình kiếm được đâu phải dễ. Nhà nào mà lắm của thì có lẽ cũng chẳng tiếc lắm đâu… Mai thế nào cũng phải nói cho Đavưđốp biết chuyện Kugienkốp cho ngựa đi uống nước. Với kiểu chăm sóc ngựa như thế, sang xuân nó kéo cái bừa cũng chẳng nổi. Sáng mai phải đi xem xem họ chăn đàn gà ra sao: các mẹ ấy kháo nhau đã mất toi bảy con rồi, vì chuồng chật. Chà, gay thật! Nhưng lúc này tập trung gà qué lại làm quái gì nhỉ? Chí ít thì cũng phải để lại cho mỗi nhà một con gà sống để làm đồng hồ chứ… Cửa hàng hợp tác chẳng có hàng họ gì bán cả, và con Khrixtina cứ chân đất hoài. Đến muốn làm toáng lên: phải có giày cho nó đi chứ! Hỏi xin Đavưđốp thì ngượng chết.. Thôi đành thế vậy, mùa đông này cứ để nó ngồi tịt trên trốc lò sưởi, còn sang hè thì giày lại không cần nữa”. Kônđrát nghĩ đến những gian khổ đất nước phải chịu đựng trong khi thực hiện kế hoạch năm năm và xiết chặt nắm đấm lại dưới mền chăn thô, anh thầm mắng nhiếc thậm tệ những anh công nhân phương Tây nào không chịu theo cộng sản: “Các anh đã bán đứng chúng tôi lấy đồng lương cao bọn chủ thí cho! Các anh đã đem đổi chúng tôi, các ông anh ơi, lấy cuộc sống phè phỡn!... Chẳng hiểu tại sao mà đến bây giờ các anh vẫn chưa có chính quyền Xôviết? Làm sao mà các anh muộn màng thế nhỉ? Nếu cuộc sống các anh trước đây chẳng ra chó gì thì chắc là bây giờ các anh đã làm cách mạng xong rồi đấy, nhưng xem ra các anh chưa bị lửa đốt đít (*): các anh cứ gãi đầu gãi tai hoài, lay chẳng chuyển, lại thiếu đoàn kết; dao động ngả nghiêng… Nhưng rồi lửa sẽ đốt đít các anh đó! (**)… Hay vì biên giới ngăn cách nên các anh không thấy chúng tôi đang khôi phục kinh tế gian khổ như thế nào? Chúng tôi đang chịu thiếu thốn như thế nào, giày dép chẳng có mà đi, quần áo chẳng có mà mặc, nhưng chúng tôi cắn răng lại, làm việc. Các ông anh ơi, các ông chơi lối chờ ăn cỗ sẵn thì xấu hổ cho các ông anh lắm đấy! Giả sử như có một cái cột cao, cao đến nỗi tất cả các anh đều trông thấy thì thế nào tôi cũng leo lên ngọn cột mà xỉ vả cho các anh một trận thậm tệ!...”.
Kônđrát ngủ thiếp đi. Điếu thuốc lá anh ngậm trên môi rơi xuống, làm chiếc áo sơmi độc nhất của anh cháy thủng một lỗ to tướng. Bị bỏng, anh giật mình thức giấc, nhổm dậy; mồm lầm bầm chửi rủa, anh sờ soạng trong bóng tối tìm cái kim để díu lỗ thủng trên áo, kẻo đến sáng chị Ana trông thấy sẽ lại làm rầy rà anh hai tiếng đồng hồ vì cái lỗ thủng ấy… Tìm mãi chẳng thấy kim đâu, anh lại nằm xuống ngủ tiếp.
Rạng sáng anh thức giấc, bước ra sân đi tiểu tiện, và bỗng nghe thấy một thứ tiếng ồn thật là kỳ dị: đàn gà sống đưa vào tập thể, nhốt chung một chuồng đang đồng thanh gân cổ lên gáy thành một bản đồng ca trăm giọng, hào hùng. Kônđrát kinh ngạc trố đôi mắt húp híp lắng nghe trong một hai phút tiếng gà gáy liên chi hồ điệp ấy, và khi tiếng “ò ó o” tụt lại cuối cùng tắt đi một cách vội vã, anh mỉm một nụ cười còn ngái ngủ: “Chà, khiếp quá, lũ quỷ sứ! Đúng là một đội kèn đồng. Anh nào sống cạnh chuồng chúng nó thì ngủ không yên với chúng nó chứ chẳng chơi đâu. Trước kia thì đầu xóm một tiếng, rồi cuối xóm một tiếng, chẳng ra cái trật tự gì… Chà, đời nghĩ cũng hay!”.
Rồi anh vào nằm ngủ rốn.
--------------------------
(*) Nguyên văn: “Xem ra con gà quay chưa mổ vào đít các anh”, lấy từ một thành ngữ Nga là: “con gà quay rồi mà nó còn mổ vào đít”, ý nói “khổ quá”. Câu của tác giả có nghĩa: Các anh chưa biết mùi khổ”. – ND.
(**) Nguyên văn: “Nhưng rồi nó sẽ mổ các anh đó, và mổ đau!”. – ND.
* * *
Ngủ dậy, ăn sáng xong, anh đi đến sân gà tập thể. Ông lão Akim Bexkhlépnốp tiếp anh bằng một câu gắt gỏng:
- Làm gì mà bảnh mắt đã đi lượn thế hả?
- Đến thăm bác và thăm gà đây. Ổn không bác?
- Trước thì ổn đấy, nhưng bây giờ thì sống dở chết dở.
- Sao vậy?
- Đến chết tử chết tiệt với cái chuồng gà này mất!
- Thế là thế nào?
- Anh cứ ngồi đây một ngày, khắc biết: lũ gà sống quỷ sứ nhà trời này suốt ngày chọi nhau, đuổi theo chúng mà rời cả cẳng. Rồi lại lũ gà mái kia nữa, tưởng chúng là giống đàn bà con gái, ấy thế mà cũng túm lấy bờm nhau, lôi nhau xềnh xệch khắp sân! Xin vái cái công tác khỉ gió này thôi! Lão sẽ đến anh Đavưđốp ngay hôm nay, đề nghị cho lão rút lui, đi nuôi ong.
- Bác ơi, rồi chúng nó sẽ quen mà.
- Chờ đến lúc chúng quen thì lão Akim này cũng toi rồi. Mà đây đâu phải việc đàn ông đàn ang? Chẳng gì lão cũng là một anh kô-dắc, lão đã từng tham gia cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ. Thế mà bây giờ được cử làm tổng tư lệnh gà, rõ sướng chưa! Mới nhận nhiệm vụ có hai ngày, lão đã không còn đi đâu được với lũ trẻ ranh nữa. Cứ động ra đường về nhà là lũ ôn vật ấy chắn ngang đường, réo lên: “Lão mò gà! Lão Akim mò gà!” Trước đây lão vẫn được mọi người kính trọng để bây giờ về già lại mang theo xuống lỗ cái tên là lão mò gà hay sao? Không ạ, lão không dại!
- Thôi đi, bác Akim ơi! Chấp trẻ mỏ làm gì?
- Đâu phải chỉ có bọn trẻ ranh nói láo, mà cả các mẹ chúng nó cũng về hùa với chúng nó nữa chứ. Hôm qua lão đi về nhà nghỉ trưa. Con mụ Naxchia, con gái của Đônhétxkốp đang đứng múc nước giếng, thấy lão, hỏi: “Thế nào, gà qué có trị được không, cụ?” Lão nói: “Có đấy, nhưng ít ít thôi”. Ấy thế là con mụ trời đánh thánh vật ấy làm ngay một câu: “Này, cụ ơi, cụ phải cố làm sao cho đến vụ cày có được một rổ trứng, nếu không người ta sẽ bắt cụ phải đạp mái đấy!” Già nua như lão thế này mà còn phải nghe những câu nói đùa kiểu ấy! Công tác này nhục nhã quá lắm!
Ông lão định nói nữa, nhưng vừa lúc ấy bên hàng rào có hai chú gà trống giương cổ lên chọi nhau. Một chú thì máu ở mào chảy xuống ròng ròng, một chú thì cổ trụi từng mảng lông. Bác Akim te te chạy tới chỗ chúng, vừa chạy vừa giật lấy cái sào.
Mới sáng sớm mà trụ sở nông trang đã đầy những người. Một chiếc xe trượt tuyết đóng hai ngựa đậu ngoài sân, cạnh thềm, chờ đưa Đavưđốp lên huyện. Con ngựa của Lápsinốp đóng đủ yên cương đang lấy chân cào cào tuyết, còn Liubiskin thì đang loanh quanh bên nó, rút căng lại dây yên. Anh cũng chuẩn bị để đi Tubianxki, gặp ban quản trị nông trang bên ấy để thương lượng về máy chọn giống.
Kônđrát bước vào phòng đầu. Bác kế toán trên xã mới về mấy hôm nay đang ngồi bên bàn lục tìm trong đống sổ sách. Iakốp Lukits, thời gian qua gầy tọp đi và nom lầm lì, đang ngồi đối diện hí hoáy viết cái gì. Liền bên đấy, một tốp nông trang viên được đội trưởng cử đi chở cỏ khô, đứng túm tụm. Anh chàng Agaphôn Đúpxốp rỗ hoa, đội trưởng đội ba, và Akaska Mênốc thì đứng trong góc tranh luận gì với bác thợ rèn độc nhất trong làng, bác Ipôlít Salưi. Từ phòng bên vang sang giọng nói vui vẻ của Radơmiốtnốp.
Anh vừa mới tới, và kể luôn cho Đavưđốp nghe, vừa kể vừa cười:
- Sớm tinh mơ bốn cụ bà đã lò dò đến chỗ mình. Dẫn đầu là bà cụ Uliana, mẹ cậu Mikhain Igơnachênốc. Cậu biết bà cụ không? Không biết à? Một bà lão nặng trên dưới bảy pút, mũi có mẩu thịt thừa. Các mẹ kéo nhau đến. Mẹ Uliana nổi cơn tam bành lên, giận thở không ra hơi, mẩu thịt thừa trên mũi cứ nhảy tưng tưng. Và vừa đặt chân tới, xỉa xói luôn: anh là cái đồ nọ, anh là cái đồ kia! Trụ sở Xôviết đang đông, bà cụ càng làm già. Tất nhiên mình phải nghiêm sắc mặt, bảo: “Bà có câm mồm bà đi không, không tôi cho giải lên xã vì tội thoá mạ chính quyền bây giờ. Cớ làm sao mà bà lồng lộn lên thế?” Bà lão đáp: “Các anh định giở trò ma mãnh gì với các lão bà chúng tôi? Sao các anh dám đem tuổi già chúng tôi ra làm trò cười?” Mình gặng hỏi mãi xem đầu đuôi câu chuyện ra sao. Té ra là các cụ nghe phong phanh ban quản trị nông trang đã quyết định sang xuân này, giao cho các cụ bà ngoài sáu mươi đã hết khả năng lao động phải làm cái việc… - Radơmiốtnốp phồng má lên, cố nhịn cười, và nói tiếp: - phải làm cái việc ấp trứng thay cho máy ấp trứng bằng hơi nước hiện chưa có. Thế là các cụ nổi điên lên. Bà cụ Uliana tru tréo như bị chọc tiết: “Thế nào? Bắt tôi ấp trứng gà à? Cái loại trứng để tôi ấp thì chưa ai đẻ nổi đâu! Bọn các anh thì tôi cứ lấy que cời than vụt cho một trận, rồi tôi nhảy xuống sông chết đi cho rảnh!” Mình phải giải thích mãi cho các cụ. Mình bảo: “Tôi can bà, bà Uliana ơi, đừng nhảy xuống sông làm gì, sông ta cạn nước bà có nhảy xuống cũng chẳng chết được đâu. Đó toàn là những chuyện láo toét do bọn kulắc bịa đặt ra đấy thôi”. Đầu đuôi là thế đấy, đồng chí Đavưđốp ạ. Kẻ địch tung ra đủ các thứ chuyện bịa đặt, hòng chọc gậy bánh xe chúng ta. Mình mới căn vặn các cụ nghe đâu ra chuyện ấy, thì được biết: hôm kia có một con mụ nhà dòng ở Vôxkôvôi sang, nghỉ đêm tại nhà Chimôphây Bôrsép. Con mụ ấy đã kể lể với các cụ rằng ta tập trung gà là để gửi ráo lên tỉnh mổ thịt nấu mì và ta sẽ làm một kiểu ghế đặc biệt, có lót rơm cho các cụ bà, bắt các cụ ấp trứng thay gà, cụ nào chống lại sẽ bị trói chặt vào ghế.
Nagunốp nghe chuyện liền hỏi:
- Bây giờ con mụ ấy đâu rồi?
- Chuồn rồi. Nó khôn chán: phao tin, rồi cút ngay.
- Giống quạ đen ấy là phải tóm cổ, tống đi cái nơi cần tống. Phúc tổ nó không rơi vào tay tôi! Tôi thì cứ lộn ngược váy nó lên đầu, đét đít một trận… Còn cậu, cậu là chủ tịch Xôviết, thế mà kẻ nào đến ngủ trong làng cậu cũng không biết. Hay thật!
- Ma kiểm soát được chúng nó!
Đavưđốp, mình mặc áo lông khoác ra ngoài áo măngtô, ngồi bên bàn xem xét lại lần chót bản kế hoạch sản xuất vụ xuân đã được hội nghị nông trang viên thông qua; anh nói, mắt vẫn nhìn xuống giấy:
- Vu khống xuyên tạc là mánh lới cũ rích của kẻ địch. Chúng là bọn ngồi không ăn bám, chuyên môn bôi nhọ công cuộc xây dựng của ta. Nhưng chúng ta đôi khi cũng lại tiếp tay cho chúng, như trong việc gà qué này chẳng hạn…
Nagunốp phổng mũi lên, hỏi:
- Tiếp tay là thế nào?
- Ta đưa vào tập thể cả gà vịt nữa là tiếp tay cho chúng chứ sao.
- Đâu phải!
- Đúng thế đấy! Đáng lẽ ta không nên phân tán sức lực vào những việc vụn vặt. Đây nhá, hạt giống gieo chúng ta chưa chuẩn bị xong, thế mà đã vội lao vào chuyện gà vịt… vớ vẩn thật! Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?.. Lên huyện thế nào họ cũng vò đầu cho mình một trận về chuyện hạt giống, thực tế thế đấy! Chán ghê cơ…
- Anh bảo tại sao không nên tập thể gà vịt? Hội nghị đồng ý rồi cơ mà?
Đavưđốp cau mày:
- Vấn đề không phải là hội nghị! Cậu làm gì mà không hiẻu rằng gà vịt là chuyện vặt, mà chúng ta thì đang phải giải quyết việc chủ yếu này: củng cố nông trang, đạt tới tỷ lệ gia nhập trăm phần trăm, và cuối cùng là gieo hạt. Cho nên, Maka ạ, mình nghiêm chỉnh đề nghị với cậu như thế này: chúng ta đã phạm một sai lầm về chính trị với cái chuyện gà qué chết tiệt này, thực tế thế, ta sai rồi! Đêm qua mình có đọc một số tài liệu về vấn đề tổ chức nông trang, và mình hiểu ra sai ở chỗ nào: ta có một nông trang, nghĩa là một ácten, nhưng ta có xu hướng coi nó là một công xã. Đúng vậy không? Đó đích thị là tả khuynh. Cậu nghĩ lại mà xem. Mình mà ở địa vị cậu (vì cậu là người đưa ra chủ trương ấy và thuyết phục chúng mình) thì mình sẽ nhận sai lầm với một thái độ dũng cảm bônsêvích và ra lênh cho trả gà qué của ai về nhà nấy. Thế nào? Còn như nếu cậu không làm thì mình sẽ làm, mình nhận trách nhiệm, đi về mình sẽ làm luôn. Thôi, mình đi đây. Chào các cậu.
Đavưđốp chụp mũ cátkét lên đầu, lật đứng cái ve cao còn sặc mùi băng phiến của tấm áo da lông tịch thu của một tên kulắc, và vừa buộc cặp giấy vừa nói:
- Bây giờ đủ các loại nhà dòng lọt lưới đi lang thang phao tin đồn nhảm, kích chị em phụ nữ, các bà già chống lại chúng ta. Mà việc xây dựng nông trang lại là một công việc mới mẻ quá, và cấp thiết ghê lắm. Ta cần phải được mọi người ủng hộ! Cả phụ nữ, cả bà già. Trong nông trang phụ nữ cũng có vai trò của họ, thực tế thế!
Rồi anh đi ra, chân bước dài và nặng.
- Thôi, Maka ạ, ta giải tán gà, trả lại cho các nhà thôi. Đavưđốp nói đúng đấy.
Radơmiốtnốp nhìn Nagunốp hồi lâu, đợi câu trả lời… Nagunốp ngồi bên bệ cửa sổ, áo varơi mở phanh, quay quay cái mũ trên tay và môi mấp máy không thành tiếng. Vài ba phút trôi qua như vậy. Rồi Maka ngẩng phắt đầu lên, và Radơmiốtnốp bắt gặp ánh mắt cởi mở của anh.
- Ờ, trả lại thôi. Ta sai toét rồi. Đúng thế! Chà, cái cậu Đavưđốp ấy, thằng sứt ấy nói thế mà đúng…
Và anh mỉm cười, có đôi chút ngượng nghịu.
Đavưđốp ngồi vào xe trượt tuyết. Kônđrát Maiđanhikốp đứng bên anh. Hai người đang chuyện trò gì với nhau sôi nổi. Kônđrát hoa tay lên nói có vẻ hăng hái lắm; bác đánh xe sốt ruột, mân mê dây cương, cài lại cái roi ngựa giắt dưới ghế ngồi. Đavưđốp cắn môi, nghe.
Trên bậc tam cấp bước xuống, Radơmiốtnốp nghe thấy Đavưđốp nói:
- Cứ bình tĩnh, đừng lo.. Tất cả đã ở trong tay chúng ta, đâu sẽ vào đó, thực tế thế! Ta sẽ quy định một chế độ phạt tiền, sẽ bắt các đội trưởng sản xuất phải chịu trách nhiệm theo dõi kiểm tra. Thôi, đi nhá!
Chiếc roi vung lên đen đét trên lưng đôi ngựa. Cỗ xe trượt tuyết vạch lên mặt tuyết hai vòng tròn xanh xanh, rồi khuất sau cổng.
Hàng trăm con gà rải ra trên sân nuôi gà vịt, nom như một lớp đá cuội đủ màu sắc. Bác Akim, tay cầm một cành cây, đi đi lại lại trong sân. Ngọn gió nhẹ thổi lơ thơ chòm râu xám của bác, làm khô mồ hôi lấm tấm trên trán bác: “Lão mò gà” vừa bước đi vừa lấy chân đi ủng dạ xua gà; bác đeo một cái bị lưng lửng thóc lép. Bác rải thóc thành một vệt dài từ chuồng đến kho, và dưới chân bác lũ gà cứ sôi lên sùng sục, không ngớt tiếng “cục-cục-cục-cục” tíu tít bận rộn.
Trong sân phơi có rào bao bọc đàn ngỗng nổi trắng lên nom như những đống đá vôi ngổn ngang. Từ đó vang ra tiếng cúc cục, quàng quạc, tiếng cánh vỗ, ồn ào nhộn nhạo như từ vùng ngập nước vào mùa xuân chim muông chuyển vùng. Cạnh kho thóc, một đám người chen chúc nhau xúm xít. Chìa ra ngoài chỉ có những cái lưng và mông chổng. Nnhững cái đầu cúi chúi xuống, còn những con mắt hau háu thì nhìn cái gì dưới đất, giữa vòng người.
Radơmiốtnốp bước tới, nhòm qua lưng họ, xem xem chuyện gì. Đám người thở phì phò, lời đi tiếng lại í ới.
- Con tía thắng!
- Thắng cái khỉ gió! Nom kìa, rũ xuống rồi còn gì.
- Chà, đá cú khiếp quá!
- Há mỏ rồi, cu cậu nhược…
Và tiếng bác Suka:
- Đùng thúc! Đùng thúc! Tự nó lao vào bây giờ đấy! Bảo đừng thúc mà, thằng ranh này!... Ông thì thúc cho mày một cái vào mạng mỡ bây giờ!…
Trong vòng người, hai chú gà sống đang xoè cánh vờn nhau, một con màu đỏ tía, một con lông đen biếc như lông quạ. Mào chúng rách toạc, thâm tím máu đọng, dưới chân chúng tơi tả những chiếc lông đỏ, lông đen. Hai đấu thủ đã thấm mệt. Chúng lảng nhau, làm ra vẻ mổ mổ kiếm ăn, chân cào bới tuyết, nhưng mắt vẫn cảnh giác theo dõi nhau. Cái giả vờ của chúng không được bao lâu; con đen bất thình lình bay vọt lên như mũi tên, con tía cũng nhảy cẫng. Chúng chọi nhau một phát ở trên không, rồi một phát nữa…
Bác Suka đứng xem, không còn biết trời đất gì nữa. Đầu mũi bác rung rinh một giọt nước mũi, nhưng bác cũng chẳng để ý. Tất cả sự quan tâm của bác tập trung vào con gà tía. Con tía phải thắng. Bác Suka đã đánh cuộc với Đêmít Miệng hến. Bỗng một bàn tay ai kéo bác ra khỏi trạng thái căng thẳng đến tột độ ấy: bàn tay ấy thô bạo túm lấy cổ áo varơi bác, lôi tuột ra ngoài vòng. Bác Suka quay phắt lại, mặt cau có một cơn giận dữ không thốt lên lời, sẵn sàng lao vào đối thủ với quyết tâm của một chú gà trống. Nhưng nét mặt bác đột nhiên thay đổi, biến thành tươi tỉnh hoà nhã: đó là bàn tay Nagunốp. Nagunốp mặt cau có giãn đám đông ra, xua đôi gà chạy, hầm hầm nói:
- Thế ra các người rỗi hơi, đứng chơi chọi gà hả!.. Giải tán đi, đi làm việc, đồ ăn hại cả nút! Không có việc gì làm thì đi vác rơm về chuồng ngựa, chở phân ra ruộng rau. Hai người đi quanh làng báo cho các nhà, nhà nào có gà thì đến mà bắt về.
Một anh nông dân cá thể đội mũ tai cáo, thuộc dân mê chọi gà và được mệnh danh là Banhích, hỏi:
- Giải tán nông trang gà à? Xem ra trình độ giác ngộ của chúng nó chưa đủ để vào nông trang. Này, thế lên chủ nghĩa xã hội thì gà có còn chọi nhau nữa không nhỉ?
Nagunốp tái mặt đi, trừng mắt nhìn anh chàng vừa hỏi một cái từ đầu đến chân:
- Này, có nói đùa thì cũng tuỳ cái nói đùa! Những con người tinh hoa nhất đã vì chủ nghĩa xã hội mà hy sinh, thế mà mày, đồ chó chết, mày lại nói láo hả? Cút ngay cho khuất mắt, đồ phản cách mạng, không tao lại cho một phát giữa ngực về chầu trời bây giờ. Xéo đi, đồ rắn độc trong khi tao còn để cho mày sống! Mày tưởng tao không biết đùa hả!
Anh bỏ đám kô-dắc đứng im thin thít đó, đưa mắt nhìn mảnh sân gà một lần cuối cùng, rồi lững thững bước ra cổng, vai hơi gù gù và nén một tiếng thở dài nặng trĩu.

Nguồn: http://tusach.mobi/