15/3/13

Đất vỡ hoang (TI-C24-25)

Tập I - Chương 24

Tổ ba người do Kônđrátkô, đội trưởng đội tuyên truyền, đặt ở lại Grêmiatsi Lốc đang tiến hành việc thu thóc giống! Họ đặt trụ sở tại một ngôi nhà kulắc bỏ không. Từ sáng sớm, anh cán bộ canh nông trẻ tuổi Vêchiunép đã cùng với Iakốp Lukits vạch ra và hoàn chỉnh kế hoạch gieo vụ xuân, giải đáp cho bà con kô-dắc đến hỏi về những vấn đề kỹ thuật nông nghiệp. Thời giờ còn lại, anh theo rõi không mệt mỏi việc chọn và ngâm thóc giống nhập kho, và thỉnh thoảng “đi thú y một cái”, như anh thường nói: chữa cho nhà nào đó con bò cái hoặc con cừu. “Công” khám bệnh anh nhận bằng “hiện vật”: chén một bữa tại nhà chủ có súc vật ốm, và đôi lần còn mang được cả một bình sữa hoặc nồi khoai tây luộc về cho anh em. Hai người còn lại – Porphiri Lúpnô, thợ dát của nhà máy xay quốc doanh trên khu, và Ivan Naiđênốp, đoàn viên Kômxômôn của nhà máy ép dầu, thì triệu tập bà con Grêmiatsi Lốc tới trụ sở, kiểm tra trên danh sách của thủ kho xem người được triệu đến đã nộp bao nhiêu thóc giống, và tuỳ theo khả năng và hiểu biết của mình mà tuyên truyền giải thích cho họ.
Ngay mấy ngày đầu đã chứng tỏ việc thu thóc giống có những khó khăn không nhỏ và khó mà hoàn thành đúng hạn. Mọi biện pháp của tổ công tác và của chi bộ địa phương đưa ra để đẩy nhanh nhịp độ tập trung thóc giống đều vấp phải sự chống đối kịch liệt của đại bộ phận nông trang viên và nông dân cá thể. Trong làng có tin đồn là thu thóc để xuất khẩu, rằng năm nay sẽ không gieo, rằng chiến tranh sắp nổ ra đến nơi… Nagunốp ngày nào cũng triệu họp, và với sự giúp đỡ của tổ công tác, anh giải thích, bác bỏ những tin đồn nhảm, đe doạ sẽ áp dụng những biện pháp trừng trị ác liệt nhất đối với những ai bị phát hiện đã “tuyên truyền chống Chính quyền Xôviết”, nhưng việc thu lúa mì vẫn cứ tiến hành một cách chậm chạp. Đàn ông thì sáng đã kiếm cớ bỏ nhà ra đi, hoặc là vào rừng kiếm củi, hoặc là đi cắt cỏ khô, hoặc sang nhà hàng xóm cùng chủ nhà ngồi vào chỗ khuất, thấp thỏm đợi cho qua ngày, tránh mặt người đến gọi lên trụ sở Xôviết hoặc trụ sở tổ công tác. Cánh đàn bà thì cũng thôi hẳn, không đi họp nữa, và khi có liên lạc của Xôviết ấp đến thì tống khứ đi bằng một câu gọn lỏn: “Ông nhà tôi đi vắng, còn tôi thì không biết”.
Cứ như có một bàn tay khổng lồ nào đang giữ lúa mì lại…
Tại trụ sở tổ công tác thường diễn ra những lời qua tiếng lại như thế này:
- Bác nộp thóc giống chưa?
- Chưa.
- Sao thế?
- Chả có hột nào cả.
- Chả có là thế nào?
- Có gì là lạ… Tôi có giữ để gieo, còn thừa bao nhiêu sau đó đã nộp thuế hết, hốc xịt không còn gì để nhá. Thế là phải đổ thóc giống ra ăn.
- Thế bác không định gieo à?
- Có chứ, nhưng chả còn gì mà gieo…
Nhiều người viện cớ đã đem cả thóc giống ra đóng thuế. Đavưđốp tại trụ sở nông trang, và Naiđênốp tại trụ sở tổ công tác ngồi lục bới sổ sách, biên lai chứng từ đóng thuế, kiểm tra lại và vạch cho người ngoan cố thấy họ đã khai láo: rõ ràng là còn thóc giống. Để làm được như thế, đôi lúc phải tính toán ước lượng số thóc tuốt trong năm hăm chín, xem lại số thóc đã nộp thuế và tính ra số dư. Nhưng khi đã rành rành là còn thóc, người ngoan cố vẫn không chịu:
- Có dư một ít, tôi không chối cãi. Nhưng chuyện vợ chồng con cái ăn thì các đồng chí biết nó như thế nào rồi. Chúng tôi quen cái lối ăn chẳng có cân kẹo gì cả, cứ xúc, chẳng đong. Định mức để lại cho chúng tôi là mỗi miệng ăn một tháng một pút, nhưng như tôi đây chẳng hạn, mỗi ngày tôi xơi hết ba bốn phuntơ. Ăn như thế vì thức ăn chẳng có quái gì cả. Thế cho nên mới lạm. Chả còn thóc đâu, xin cứ khám!
Họp chi bộ, Nagunốp đề nghị cho khám những dân khá giả nhất trong làng không chịu nộp thóc giống, nhưng Đavưđốp, Lúpnô, Naiđênốp và Radơmiốtnốp phản đối. Vả lại trong chỉ thị của huyện uỷ về thu thóc giống cũng cấm ngặt khám xét nhà.
Sau ba ngày cố gắng của tổ công tác và ban quản trị nông trang, chỉ thu được có 480 pút ở khu vực tập thể, và ở khu vực cá thể thì chỉ vẻn vẹn có 35 pút. Anh em cốt cán trong nông trang đã nhập kho đủ phần mình. Kônđrát Maiđanhikốp, Liubiskin, Đúpxốp, Đêmít Miệng hến, bác Suka, Akaska Mênốc, bác thợ rèn Salưi, Anđrây Radơmiốtnốp và anh em khác đã đem thóc đến ngay buổi đầu. Sáng hôm sau, hai cha con Iakốp Lukits và Xêmiôn ngồi trên hai xe trượt tuyết lững thững tới nhà kho tập thể. Iakốp Lukits lên thẳng ban quản trị, còn Xêmiôn thì dỡ các bao thóc trên xe xuống. Đemka Usakốp đứng nhận và cân. Xêmiôn đã đổ được bốn bao đang cởi dây bao thứ năm thì Usakốp nhảy vồ lấy hắn như con chim ưng vồ mồi:
- Bố mày định gieo bằng thóc này đấy à? – Và dúi vào mũi Xêmiôn một nắm thóc.
Xêmiôn đỏ mặt tía tai lên:
- Thóc này thì làm sao? Mắt ông lác, ông nhìn gà hoá cuốc rồi!
- Gà với cuốc cái gì! Tao lác, nhưng con tinh hơn máy chán, quân ăn cắp! Hai bố con mày thì tốt lắm, chúng tao thừưưưa biết rồi! Thóc giống mà lại thế này à? Tao hỏi sao mày cứ quay mặt đi? Mày còn đổ cái gì vào chỗ thóc sạch của tao nữa đấy, hả đồ sâu bọ?
Đemka dúi lòng bàn tay vào mặt Xêmiôn, và trong lòng bàn tay là một nắm thóc bẩn, lẫn đất cát và hạt giả đậu.
- Để tao gọi thiên hạ đến xem…
Xêmiôn đâm hoảng:
- Bác làm gì mà tru tréo lên thế! Chắc là tôi lấy nhầm bao đấy thôi… Để tôi về nhà đổi lấy bao khác… Bao thật tuyệt vời! Mà việc gì bác phải nhẩy chồm chồm như ngựa tháo cương vậy? Tôi bảo là nhầm, sẽ đổi mà…
Đemka trả lại, bắt đổi sáu trong số mười bốn bao chở tới. Và khi Xêmiôn nhờ anh bốc giúp hắn lên vai một trong những bao thóc bị trả lại ấy, Đemka quay ra phía cái cân, làm như không nghe thấy.
- Bác không hộ cho à? – Xêmiôn hỏi, giọng đã run run.
- Không biết ngượng! Ở nhà mày vác giỏi thế, mà đến đây mày lại õng ẹo! Vác lấy, kệ mẹ mày!
Xêmiôn ráng sức đỏ rừ cả mặt, ôm ngang cái bao, xốc lên đi…
Trong hai ngày sau, hầu như không có ai đến nộp nữa. Hội nghị chi bộ quyết định đi thu từng nhà. Ngày hôm trước, Đavưđốp đã sang huyện bên, tới trạm chọn giống để xin thêm ngoài kế hoạch, đủ gieo vài hécta thôi cũng được, thứ giống xuân tiểu mạch chịu được hạn kéo dài và năm ngoái đã cho năng suất cao trên ruộng thí nghiệm của trại. Iakốp Lukits và đội trưởng sản xuất Agaphôn Đúpxốp đã nói nhiều về giống lúa mới này mà trạm đã gây được bằng cách lai giống “Caliphorni” nhập cảng với giống “hạt trắng” của địa phương. Và Đavưđốp, ít lâu nay đêm nào cũng dùi mài nghiên cứu các tập chí nông nghiệp, đã quyết định đi lên trạm xin cho được thứ giống mới ấy về.
Anh trở về hôm mồng 4 tháng Ba, và trước đó một ngày đã xảy ra sự việc như sau: Maka Nagunốp đến tăng cường cho đội hai từ sáng sớm đã cùng Liubiskin đi vòng một lượt được gần ba chục nhà, và đến chiều, khi Radơmiốtnốp và người thư ký rời trụ sở Xôviết, anh đã triệu lên trụ sở những chủ hộ mà hôm ấy anh không tới nhà được. Anh đã phải cho về bốn người mà chẳng đạt được kết quả cụ thể nào cả. Họ cứ một mực: “Không còn hạt thóc giống nào. Nhà nước phải cấp cho thôi”. Lúc đầu Nagunốp còn bình tĩnh giảng giải thuyết phục, rồi bắt đầu đập bàn đập ghế.
- Các anh bảo hết thóc là thế nào? Như anh Kônxtantin Gavrilôvits đây chẳng hạn, thu vừa rồi anh lại không đập đến ba trăm pút ấy à!
- Thế anh có nộp thóc thuế hộ tôi không?
- Anh đã nộp bao nhiêu?
- Một trăm ba mươi pút.
- Thế chỗ còn lại đâu rồi?
- Đâu anh không biết à? Chén hết rồi!
- Nói láo! Nốc vào ngần ấy thì có mà vỡ bụng! Nhà anh sáu miệng, mà ăn hết ngần ấy thóc cơ à? Mang nộp ngay không ý kiến gì cả, không tôi tống cổ ra khỏi nông trang ngay tắp lự!
- Cứ tống cổ đi, anh muốn làm gì tôi thì làm, nhưng lạy Chúa, thóc thì không còn! Đề nghị chính quyền Xôviết cho vay, lãi cũng được…
- Anh quen cái thói bòn rút Chính quyền Xôviết rồi mà. Tiền anh vay quỹ tín dụng mua máy gieo và máy cắt cỏ anh đã trả chưa? Đấy, thấy chưa! Tiền ấy anh quỵt, bây giờ lại còn định gỡ gạc thóc nữa à?
- Máy gieo và máy cắt cỏ bây giờ thuộc nông trang rồi còn gì, tôi có được dùng đâu. Anh trách tôi thế nào được!
- Mang thóc đến đi, không thì khốn nạn cho anh đấy! Nói dối quanh mãi! Không biết ngượng!
- Nếu còn thóc thì tôi tiếc gì…
Nagunốp muốn lồng lộn thế nào thì lồng lộn, muốn thuyết thế nào thì thuyết, và muốn doạ thế nào thì doạ, rốt cuộc vẫn phải để cho mấy người không chịu nộp thóc ra về.
Họ đi ra, đứng ngoài hiên bàn tán hai ba phút, rồi cót két bước xuống thềm. Một lát sau, anh nông dân cá thể Grigori Banhích bước vào. Chắc hẳn anh ta đã biết câu chuyện với mấy nông trang viên vừa ở trụ sở Xôviết ra đã kết thúc như thế nào, và khoé miệng anh ta thoáng một nụ cười tự tin thách thức.
Nagunốp tay run run vuốt lại cho phẳng bản danh sách trên bàn, hậm hực nói:
- Mời anh ngồi.
- Dạ, xin vô phép.
Banhích ngồi xuống, hai chân dạng háng.
- Grigori Mátvêits, sao anh không đem thóc giống đến nhập kho?
- Nhưng sao tôi lại phải nhập?
- Thì hội nghị toàn thể đã quyết định như thế rồi thôi: cả nông trang viên lẫn bà con cá thể đều phải nhập thóc giống. Anh có để giống chứ?
- Tất nhiên là có rồi.
Nagunốp ngó bản danh sách: cạnh tên của Banhích, trong cột “Diện tích dự trù gieo vụ xuân năm 1930” có ghi con số 6.
- Năm nay anh định gieo sáu hécta tiểu mạch phải không?
- Đúng vậy.
- Nghĩa là anh có bốn mươi hai pút thóc giống phải không?
- Đủ ngần ấy, sàng sảy, phơi khô quạt sạch, đẹp như hạt vàng.
- Thế thì anh quả là một anh hùng! – Nagunốp thở hắt ra một cái nhẹ nhõm, biểu dương. – Mai anh chở nó đến kho tập thể. Cứ để nguyên bao. Thóc của bà con cá thể chúng tôi nhận nguyên bao, nếu bà con không muốn bị lẫn với thóc người khác. Anh cứ cân đong giao cho thủ kho, anh ấy sẽ đánh dấu xi vào bao, giao cho anh biên lai, rồi sang xuân sẽ trả lại anh nguyên vẹn, không suy suyển. Nhiều bà con cứ tiếc rẻ đã không giữ được giống, đổ ra ăn mất hết. Để ở kho đây thì đảm bảo hơn.
Banhích đưa tay lên vuốt bộ ria vàng hoe, toét miệng ra cười:
- Thôi đi, đồng chí Nagunốp ơi, cái tiết mục ấy của đồng chí không ăn tiền rồi! Tôi chẳng nộp thóc đâu.
- Tại sao vậy, tôi xin hỏi anh?
- Tại vì giữ nó ở nhà tôi thì đảm bảo hơn. Chứ đem nộp anh thì sang xuân, bao không cũng chẳng còn. Bây giờ chúng tôi khôn ra rồi, không đánh lừa được chúng tôi đâu!
Nagunốp nhíu đôi mày lại, hơi tái mặt:
- Sao anh lại có thể nghi ngờ Chính quyền Xôviết như vậy được? Nghĩa là anh không tín nhiệm?
- Đúng đấy, tôi không tín nhiệm! Tôi chán tai nghe những lời nói dối của bọn các anh rồi.
- Ai nói dối? Và nói dối cái gì? – Nagunốp tái mặt đi trông thấy, từ từ đứng dậy.
Nhưng Banhích thản nhiên như không, vẫn cứ nhăn hai hàm răng thưa và chắc nịch ra cười khúc khích, chỉ có giọng anh ta là run lên vì uất ức và giận dữ khi anh nói:
- Các anh thu thóc, rồi cho xuống tàu thuỷ đưa ra nước ngoài chứ gì? Để sắm ô tô cho các ông đảng viên đi dạo cùng các bà đầu súp-lơ phải không? Chúng tôi biết to-o-ỏng các anh phung phí thóc lúa của chúng tôi vào những cái gì rồi! Chán cái bình đẳng lắm!
- Mày hoá rồ rồi hay sao, hả đồ sâu bọ? Mày lảm nhảm cái gì đấy?
- Anh mà bị người ta bóp cổ lè lưỡi ra thì anh cũng đến hoá rồ! Tôi đã bỏ ra một trăm mười sáu pút đóng thuế rồi! Bây giờ còn tí thóc giống, anh định lấy nốt… để con cái tôi… chết đói hả?
Nagunốp đập bàn:
- Câm mồm! Nói láo, đồ chó chết!
Cái bàn tính rơi xuống đất, lọ mực lăn kềnh ra. Một dòng mực đặc sánh, tím biếc, trườn qua mặt giấy, đổ xuống vạt áo varơi lông thuộc của Banhích. Banhích lấy tay xoa vết mực đi, đứng dậy. Mắt anh ta nheo lại, mép sùi bọt trắng. Nén cơn điên lại, anh ta tru tréo:
- Anh đừng có khoá miệng tôi! Anh về mà đấm con vợ Luska nhà anh ấy, chứ tôi đâu phải vợ anh! Bây giờ không phải là năm 1920 nữa, anh hiểu không? Tôi không nộp thóc… Đừng hòng!...
Nagunốp toan chồm qua bàn túm lấy Banhích, nhưng rồi lại lập tức loạng choạng?... Mày dám nhạo báng chủ nghĩa xã hội à, đồ rắn độc?... Ông thì… - Anh hổn hển, tìm không ra lời, nhưng rồi tự chủ lại được, đưa mu bàn tay lên quệt mồ hôi nhễ nhại trên mặt, nói: - Mày viết ngay cho tao một tờ giấy cam đoan sẽ mang thóc đến nộp, và ngay ngày mai, tao sẽ cho mày đến chỗ cần đến. Ở đấy người ta sẽ tra hỏi mày đã nghe được những luận điệu ấy ở đâu!
- Anh bắt tôi thì cứ bắt, còn giấy thì tôi không viết, và thóc tôi không nộp!
- Tao bảo mày viết!...
- Đợi tí đã…
- Tao yêu cầu tử tế…
Banhích bước ra cửa, nhưng xem chừng trong bụng tức sôi lên sùng sục, không nén được. Tay nắm lấy qủa đấm cửa, anh ta buông ra một câu:
- Về bây giờ, tôi sẽ đổ hết thóc ấy cho lợn! Cho chúng nó vỡ bụng ra còn hơn nộp cho các anh, những kẻ ăn không ăn hớt!...
- Thóc giống mà đem đổ cho lợn hả?
Nagunốp nhảy hai bước ra đến cửa, rút khẩu súng lục trong túi ra, đánh cho Banhích một báng súng vào thái dương. Banhích loạng choạng, tựa vào tường, miết lưng vào tường vôi gục xuống đất. Anh ta ngã lăn kềnh, máu đen từ vết thương ở thái dương rỉ ra, bết vào tóc. Nagunốp lúc này không còn tự chủ được nữa, đá phốc cho anh ta vài cái nữa, rồi quay đi. Banhích, như con cá trên cạn, ngáp ngáp một hai cái, rồi bám vào tường vôi lóp ngóp đứng dậy. Và anh ta vừa đứng thẳng người lên thì máu ộc ra. Anh ta lẳng lặng đưa cánh tay áo lên chùi. Phấn bụi trên lưng áo trắng xoá của anh ta rơi xuống. Nagunốp tu thẳng vào cái bình đựng nước ấm lờm lợm, răng va lạch cạch vào miệng bình. Lừ mắt nhìn Banhích lúc ấy đã đứng dậy, anh bước tới, nắm lấy hai khuỷu tay anh ta như kẹp vào hai gọng kìm, đẩy anh ta tới bàn, ấn cây bút chì vào tay:
- Viết đi!
- Tôi viết, nhưng chuyện này rồi sẽ tới tai ông công tố… Súng lục doạ thì cái gì tôi chẳng phải viết… Dưới chính quyền xôviết không được phép đánh người… Đảng cộng sản không cho phép anh thế đâu! – Banhích lẩm bẩm, giọng khàn khàn, buông phịch người xuống chiếc ghế đẩu.
Nagunốp đứng đối diện, ngón tay đặt sẵn lên cò súng.
- Hà, đồ phản cách mạng, còn nhớ đến chính quyền Xôviết, đến Đảng à! Mày thì sẽ không phải là toà án nhân dân xử, mà là tao xử ngay đây, theo lối của tao. Mày mà không viết, tao sẽ cho mày một phát chết tươi như giết một con rắn độc, rồi tao sẽ đi tù mười năm cũng được! Tao không cho phép mày nói láo lếu về Chính quyền Xôviết! Viết đi: “Giấy cam đoan”. Xong chưa? Viết: “Tôi nguyên là một tên lính bạch vệ, phần tử tích cực trong đội quân Mamôntốp đã từng cầm súng đánh lại Hồng quân, xin rút lui những lời…”. Xong chửa? Viết tiếp: “… những lời không tha thứ được của tôi thoá mạ Đảng Cộng sản toàn Liên bang (b)”. Chữ Đảng, Cộng và Liên viết hoa, xong chưa? “… và Chính quyền Xôviết. Tôi xin lỗi Đảng và Chính quyền, và xin hứa từ nay, mặc dù tôi đích thị là một tên phản cách mạng giấu mặt…”
- Tôi không viết. Sao mà ức hiếp tôi quá thế?
- Không, mày phải viết! Mày tưởng thế nào? Mày tưởng tao đây, tao bị thương, bị tàn phế vì bàn tay của bọn bạch vệ, tao sẽ bỏ qua cho mày lời lẽ của mày hả? Mày thoá mạ Chính quyền Xôviết trước mặt tao, tao lại ngậm miệng làm ngơ hả? Viết, không thì mày hết ngáp!...
Banhích bò soài xuống mặt bàn, và cây bút chì trong tay anh ta lại chậm chạp đưa đẩy trên trang giấy. Ngón tay vẫn đặt trên cò súng, Nagunốp đọc rành rọt từng tiếng:
- “… mặc dù tôi đích thị là một tên phản cách mạng giấu mặt, tôi sẽ không dám nói một điều gì, viết một điều gì, làm một điều gì có hại đến Chính quyền Xôviết thân yêu của mọi người cần lao và đã giành được nhờ bao nhiêu hy sinh xương máu của nhân dân lao động. Tôi sẽ không dám chửi bới, xúc phạm Chính quyền Xôviết, và sẽ kiên trì chờ đợi cách mạng thế giới sẽ đưa tất cả chúng tôi, những kẻ thù không đội trời chung của nó trên phạm vi toàn thế giới, đến ngày tận số. Tôi cũng xin cam đoan sẽ không cản đường Chính quyền Xôviết, không giấu diếm thóc giống, và ngày mai, mồng 3 tháng Ba năm 1930, sẽ mang đến nộp vào kho công cộng…”.
Vừa lúc đó, người thường trực bước vào phòng, có ba nông trang viên theo sau.
- Đợi tôi ngoài ấy một tí! – Nagunốp quát bảo họ, và quay lại phía Banhích, đọc tiếp: - “… bốn mươi hai pút hạt giống tiểu mạch. Tôi cam đoan và xin ký”. Ký đi!
Bannhích, mặt đã đỏ dừ, ký nguệch ngoạc và đứng dậy.
- Anh Maka Nagunốp, việc này anh sẽ chịu trách nhiệm!
- Tao với mày, đứa nào chịu trách nhiệm phần đứa đấy, mai mà mày không đem thóc đến, tao giết chết toi!
Nagunốp gấp tờ giấy, đút vào túi ngực áo kaki, ném khẩu súng lục xuống bàn, đưa Banhích ra tới cửa. Anh ở lại trụ sở Xôviết tới nửa đêm. Anh ra lệnh cho người thường trực không được vắng mặt, và với sự giúp sức của anh ta, tống giam khoá trái lại trong một gian phòng bỏ không ba nông trang viên nữa đã không chịu nộp thóc giống. Quá nửa đêm, lả người vì mệt và vì những cơn xúc động vừa qua, anh ngủ thiếp đi bên bàn trụ sở Xôviết, cái đầu rối bù gục xuống hai bàn tay dài nghêu. Gần sáng, anh nằm mơ thấy từng đoàn người lũ lượt mặc quần áo ngày hội, trùng trùng điệp điệp kéo nhau đi, như dòng nước lũ tràn ngập thảo nguyên. Xen quãng vào người là những đoàn ngựa. Những con ngựa đủ màu lông bước đi trên mặt đất mềm của thảo nguyên, nhưng không hiểu sao tiếng vó ngựa lại rền vang, rầm rập, cứ như có những đội kỵ binh đang diễu qua trên những lá tôn trải rộng. Bỗng, ngay sát bên Maka, kèn đồng bóng loáng của đoàn quân nhạc cử bài “Quốc tế ca” và, hệt như lúc thật, Maka cảm thấy nao nao xúc động, một cục gì nong nóng nghèn nghẹn trong cổ… Ở cuối đội kỵ binh đang diễu qua, Maka trông thấy Michia Lôbáts, một anh bạn đã hy sinh, bị bọn Vranghen chém chết năm 1920 trong trận Kakhốpka. Anh cũng chẳng ngạc nhiên, mà lại mừng và, chen lấn xô đẩy những người xung quanh, anh nhảy bổ tới chỗ đội kỵ binh đang tiến. “Michia! Michia! Đứng lại!”. Anh gọi, nhưng miệng gọi mà tai lại chẳng nghe thấy tiếng mình. Michia ngồi trên yên quay đầu lại, nhìn Maka một cái nhìn thản nhiên, như nhìn một người nào không quen biết, rồi phóng đi nước kiệu. Liền lúc đó, Maka trông thấy anh lính cần vụ cũ của mình là Chiulim, chết vì một viên đạn Ba Lan trong trận Brôđư cũng cùng năm ấy, phi ngựa đến chỗ anh. Chiulim mỉm cười, tay phải nắm lấy dây cương con ngựa của Maka. Còn con ngựa, vẫn cái con chân trắng mặt xương ấy, thì bước đi nghênh ngang, cao lớn, đầu ngẩng lên kiêu hãnh, cái cổ cong cong..
Gió xuân lay cánh cửa chớp cót két suốt đêm, Maka nằm mơ ngỡ là tiếng nhạc, còn tiếng mái tôn loảng xoảng thì là tiếng vó ngựa rầm rập… Radơmiốtnốp tới trụ sở Xôviết vào quãng sáu giờ sáng thấy Nagunốp vẫn còn đang ngủ. Trên cái má vàng vọt của Maka rọi ánh ban mai tím ngắt của một sáng tháng Ba, ngưng đọng một nụ cười căng thẳng, chờ đợi. Đôi lông mày rộng của anh dướn lên dướn xuống trong một vẻ kích động, đau khổ… Radơmiốtnốp huých Maka dậy mắng té tát:
- Làm lung tung beng ra đấy rồi ngủ khì à? Mơ cái gì thú lắm hay sao mà nhăn răng ra thế? Vì lý do gì mà cậu đánh đập Banhích? Sáng bảnh mắt hắn đã chở thóc giống đến giao, rồi đâm bổ ngay lên huyện. Cậu Liubiskin chạy đến tìm tôi, bảo là Banhích lên đồn dân cảnh kiện cậu. Đánh đã sướng tay chưa. Hôm nay Đavưđốp về, cậu ấy sẽ bảo sao? Ông Maka ơi là ông Maka…
Nagunốp đưa lòng bàn tay xoa xoa cái mặt phị ra vì kiểu ngủ gục không thoải mái, và mơ màng mỉm cười:
- Anđrây ạ! Mình vừa mới mê một giấc ra-a-a-a mê! Hay vô kể!
- Cậu dẹp cái chuyện mê mẩn đi! Trình bày mình nghe chuyện Banhích xem sao nào.
- Nói làm thèm vào chuyện cái giống sâu bọ ấy! Cậu bảo là nó chở thóc đến rồi à? Ồ, thế có nghĩa là có tác động đấy… Bốn mươi hai pút thóc giống, có phải tầm xoàng đâu. Nếu chỉ cần một báng súng lục để làm cho mỗi tên phản cách mạng chịu xuỳ ra bốn chục pút, thì suốt đời mình sẽ chỉ làm cái việc ấy: đi lùng, rồi choảng! Nó ăn nói như thế thì một đòn như vậy chưa đủ! Nó phải lấy làm mừng là mình chưa tháo cặp giò nó ra đấy! – Rồi điên tiết lên anh nói tiếp, mắt long sòng sọc: - Chính nó, thằng khốn nạn ấy, đã lẽo đẽo bám đít tên tướng Mamôntốp. Nó chống lại ta mãi đến khi bị cho tắm nước Hắc Hải mới thôi, thế mà bây giờ nó lại còn đứng chắn ngang đường, làm hại cách mạng thế giới! Nó nói với mình về Chính quyền Xôviết và về Đảng như thế nào cậu có biết không? Mình nghe ức đến hộc máu mồm!
- Chấp làm đếch gì! Mà cũng chẳng nên đánh, bắt thì hơn.
- Không, bắt làm gì, nó thì cứ phải bắn chết tươi! – Nagunốp giang tay ra, tiếc rẻ: - Sao lúc ấy mình lại không cho nó một phát nhỉ? Đầu óc mình lúc ấy thế nào ấy! Bây giờ mới tiếc!
- Bảo cậu là ngu ngốc thì cậu giận, nhưng ngớ ngẩn thì cậu không để đâu cho hết! Đợi Đavưđốp về, anh ta sẽ lý thuyết cho cậu một trận về cái lối ấy!
- Đavưđốp về sẽ tán thành mình, anh ta không ngang phè phè như cậu đâu.
Radơmiốtnốp cười, gập ngón tay gõ gõ lên bàn, rồi gõ vào trán Maka, nói:
- Cũng một tiếng kêu như vậy!
Nhưng Maka cáu kỉnh gạt tay anh ra, mặc áo varơi vào. Ra đến cửa rồi, tay nắm quả đấm cửa, anh mới làu bàu, đầu chẳng quay lại.
- Này, ông thông minh tài giỏi thế thì nhờ ông thả hộ mấy thằng tiểu tư sản ở phòng bên ra, và bảo chúng nó chở thóc đến ngay hôm nay, kẻo tôi đi rửa ráy về tôi tống cổ giam lại chúng nó vào đấy đấy.
Radơmiốtnốp trợn mắt lên sửng sốt… Anh nhảy bổ tới gian phòng bỏ không, chỗ để lưu trữ công văn giấy tờ của xôviết và những mẫu lúa trưng bày ở triển lãm nông nghiệp huyện năm ngoái. Anh mở cửa ra và thấy ba nông trang viên trong đó: Kraxnôkutốp, Anchíp Gráts, và anh chàng Apôlôn Pexkôvátxkốp oắt tì xà lai. Đêm qua họ đã rải những tập báo cũ xuống đất đánh một giấc ngon lành. Thấy Radơmiốtnốp vào, họ lóp ngóp đứng dậy.
- Bà con ạ, tất nhiên là tôi phải… - Radơmiốtnốp mào đầu định nói, thì một trong ba người bị bắt, ông lão kô-dắc Kraxnôkutốp nhanh nhẩu ngắt lời anh:
- Biết nói với anh thế nào, anh Anđrây Xtêpanưits ạ, chúng tôi có lỗi đứt đuôi đi rồi… Anh cho chúng tôi về, chúng tôi sẽ mang nộp thóc ngay… Đêm qua chúng tôi có trao đổi với nhau vài ba ý kiến và đã bảo nhau phải nộp thóc…Nói dối phải tội, đúng là chúng tôi muốn găm thóc giống…
Radơmiốtnốp đang định xin lỗi về hành động thiếu chín chắn của Nagunốp, trước tình hình đó đã tuỳ cơ ứng biến đổi luôn giọng:
- Đáng lẽ bà con phải nộp lâu lắm rồi mới phải! Bà con là nông trang viên cơ mà! Găm thóc giống là sai lắm đấy!
- Anh vui lòng thả cho chúng tôi về, và thôi, chuyện cũ bỏ qua… - Anchíp Gráts mỉm cười ngượng ngùng trong bộ râu đen như bồ hóng.
Radơmiốtnốp mở toang cửa ra, đi trở lại bàn giấy, và phải nói rằng lúc này, trong đầu anh luẩn quẩn một ý nghĩ: “Khéo cậu Maka đúng cũng nên? Già đòn non nhẽ, ép mạnh tí nữa khéo chỉ một ngày là thu xong!”.

Tập I - Chương 25

Đavưđốp lên trạm giống, mang về được mười hai pút hạt tiểu mạch loại chọn lọc, phấn khởi, hài lòng về chuyển đi thành công. Trong khi dọn cho anh ăn sáng, bà chủ nhà kể lại anh nghe trong thời gian anh đi vắng, Nagunốp đã đánh nhừ tử Grigori Banhích và bắt ba nông trang viên giam lại một đêm tại trụ sở Xôviết. Tin này rõ ràng là đã lan đi khắp Grêmiatsi Lốc. Đavưđốp ăn vội ăn vàng rồi đi lên trụ sở Xôviết, trong bụng lo ngay ngáy. Ở đó anh được nghe xác nhận câu chuyện bà chủ nhà kể, thêm vào đấy nhiều chi tiết cụ thể. Về hành động của Nagunốp, mỗi người đánh giá một phách: một số tán thành, một số khác phản đối, một số nữa im lặng dè dặt. Liubiskin chẳng hạn dứt khoát đứng về phía Nagunốp, còn Iakốp Lukits thì mồm giảu ra như cái tĩ gà, nom hậm hực ra mặt, cứ như chính lão đã bị Nagunốp mắng mỏ vậy. Lát sau, Maka tới trụ sở, nom vẻ lầm lì hơn thường lệ. Anh bắt tay Đavưđốp một cái dè dặt, liếc nhìn anh, chờ đợi và lo ngầm trong bụng. Còn lại hai người với nhau, Đavưđốp không nén được nữa, gay gắt hỏi:
- Nghe nói cậu có chuyện gì lạ lắm hả?
- Biết rồi còn hỏi làm gì…
- Bằng những phương pháp kiểu ấy cậu định tuyên truyền vận động thu thóc giống à?
- Ai bảo nó ăn nói láo xược như thế với tôi? Mình đã không thể tha thứ những lời phỉ báng của kẻ địch, của bọn chó má bạch vệ ấy!
- Nhưng cậu có nghĩ chuyện ấy sẽ tác động đến những người khác như thế nào không? Kết quả về mặt chính trị sẽ như thế nào?
- Lúc ấy còn thời giờ đâu mà nghĩ.
- Cậu trả lời thế mà nghe được à? Đáng lẽ cậu phải bắt giam hắn về cái tội lăng mạ chính quyền, chứ không đánh đập. Đó là một hành động đáng xấu hổ đối với một người cộng sản, thực tế thế! Ngay hôm nay, chúng tôi sẽ đặt vấn đề cậu ra trước chi bộ. Bằng hành động của cậu, cậu đem lại bao nhiêu tác hại! Chúng ta phải đem ra phê phán! Và mình sẽ nói về chuyện này ở đại hội nông trang viên, không cần xin ý kiến huyện uỷ, mình nói thật đấy! Vì nếu chúng mình im lặng thì bà con nông trang viên sẽ tưởng chúng mình với cậu là cùng một giuộc và bao che cậu trong việc này. Không, anh bạn ạ! Chúng tôi không về hùa với cậu, và sẽ phê phán cậu! Cậu là một người cộng sản nhưng cậu hành động như một thằng cảnh sát ngày xưa. Thật là nhục nhã! Làm ăn như thế, quỷ tha ma bắt cậu đi cho rồi!
Nhưng Nagunốp bướng bỉnh như một con bò đực. Đáp lại tất cả những lý lẽ Đavưđốp đưa ra để giải thích cho anh rằng một hành động như thế là không thể dung thứ được đối với người cộng sản và có hại về chính trị, anh trả lời:
- Tôi đánh nó là đúng! Mà tôi đã đánh gì nó đâu, chỉ mới gõ có một cái thôi, chưa thấm tháp gì. Thôi để tôi yên! Bây giờ uốn nắn tôi, thì muộn rồi; là chiến sĩ du kích, tự tôi thừa biết cách bảo vệ Đảng của mình chống lại sự tấn công của bất cứ quân chó má nào!
- Thì mình có bảo thằng cha Banhích ấy là người của ta đâu, trời đánh thánh vật nó! Mình chỉ bảo cậu không nên đánh nó. Bảo vệ Đảng chống lại những lời thoá mạ thì thiếu gì cách, thực tế thế! Để cho cái đầu của cậu nó nguội nguội đi, cậu nghĩ lại rồi tối nay ra hội nghị chi bộ thế nào cậu cũng bảo là tôi nói đúng, thực tế thế!
Đến tối, trước khi họp chi bộ, Maka vừa mới hầm hầm bước vào Đavưđốp đã hỏi luôn:
- Nghĩ chưa?
- Nghĩ rồi
- Thế nào?
- Quân chó đẻ ấy, tôi đánh nó thế chưa ăn thua gì. Giết chết tươi mới phải!
Tổ ba người của đội tuyên truyền hoàn toàn đứng về phía Đavưđốp và biểu quyết tán thành thi hành kỷ luật nghiêm khắc đối với Nagunốp. Anđrây Radơmiốtnốp không biểu quyết, suốt buổi chỉ nín thinh, nhưng đến lúc sắp ra về rồi thấy Maka vẫn bướng bỉnh làu bàu: “Quân điểm của tôi đúng, tôi bảo lưu”, thì Radơmiốtnốp đứng bật dậy, bỏ chạy ra ngoài, vừa khạc nhổ ầm ĩ vừa chửi vung lên.
Đứng dưới mái hiên tối om châm thuốc hút, dưới anh lửa que diêm nhìn khuôn mặt Nagunốp chỉ một ngày qua mà phờ phạc hẳn đi, Đavưđốp làm lành, nói:
- Này, Maka, cậu giận chúng mình là sai, thực tế thế!
- Giận gì đâu.
- Cậu làm việc theo lối du kích ngày xưa, nhưng bây giờ là một thời kỳ mới, không thể đánh đột kích được nữa, mà phải đánh trận địa… Tất cả chúng ta đều mắc cái bệnh du kích chủ nghĩa, đặc biệt là lính thuỷ chúng mình, và tất nhiên là cả mình nữa. Cậu có bị thần kinh thật, nhưng Maka thân mến ạ, ta phải… cầm cương được mình, có phải không? Này, cậu nhìn lứa trẻ mà xem: cậu đoàn viên Kômxômôn của đội tuyên truyền, Vanhiuska Naiđênốp, đã làm được những việc thật lỳ diệu! Khu vực cậu ấy phụ trách đã thu được nhiều thóc nhất, gần như nộp hết rồi. Nom thì không có vẻ tháo vát gì lắm, rỗ hoa, bé lũn cũn, ấy thế mà làm việc giỏi hơn mọi người chúng ta. Cái thằng ma mãnh ấy, hắn cứ đi từng nhà, chuyện trò vui vẻ, nghe nói hắn kể cho bà con mugích nhà ta nghe những chuyện trời đất gì chẳng biết… Thế rồi người ta cứ kìn kìn chở thóc đến cho hắn, chẳng cần đánh ai vỡ đầu và chẳng cần tống ai vào “nhà đá” cả, thực tế thế! – Trong giọng nói của Đavưđốp nghe có những âm hưởng ấm áp và như có ẩn một nụ cười khi anh nói về Naiđênốp. Và Nagunốp cảm thấy dâng lên trong lòng một cái gì đó giống như ghen với anh chàng thanh niên Kômxômôn tháo vát kia. Đavưđốp nói tiếp:
- Mai cậu thử đi tò mò với hắn một vòng các nhà xem xem hắn đạt được kết quả thế bằng cách nào. Làm như vậy thì chẳng có gì là mất thớ cho cậu cả. Cậu ạ, thanh niên đôi lúc có những cái đáng cho chúng mình học tập, thực tế thế! Họ lớn lên có những cái không giống như chúng ta, họ dễ thích nghi hơn…
Nagunốp nín thinh, và sáng hôm sau, vừa ngủ dậy đã mò đến tìm Naiđênốp, và như nhân tiện, nói:
- Hôm nay mình rỗi, mình định đi với cậu, đỡ cậu một tay. Ở đội hai các cậu còn nhiều người chưa nộp không?
- Chả còn mấy, đồng chí Nagunốp ạ! Ta đi đi, hai người càng vui.
Họ đi. Naiđênốp đi cái kiểu bước nhanh thoăn thoắt mà Nagunốp không quen, người lắc lư như con vịt. Tấm áo dạ của anh ta thơm mùi dầu quỳ để phanh ngực, và chiếc mũ kêpi kẻ ô vuông đội sụp xuống tận mắt. Nagunốp tò mò liếc nhìn khuôn mặt rất bình thường, lấm tấm tàn hương như mặt trẻ con của người thanh niên Kômxômôn mà hôm qua Đavưđốp đã gọi là “Vanhiuska” với một giọng trìu mến không phải thói thường của anh. Trên khuôn mặt ấy có một cái gì dễ gây thiện cảm, gần gũi với ta lạ thường: phải chăng đó là đôi mắt thao láo màu tro lấm tấm hay cái cằm nhô ra một cách bướng bỉnh chưa mất hết cái dáng của tuổi thiếu niên…
Họ đến nhà cụ Akim Bexkhlépnốp đã có hồi bị mệnh danh là “lão mò gà”, giữa lúc cả nhà đang ngồi quanh bàn ăn sáng. Ông lão ngồi ở góc phía ngoài, bên cạnh là ông con trai trạc tuổi bốn mươi, cũng tên là Akim, thường gọi là bác Hai, bên phải bác là bác gái và bà mẹ vợ già lụ khụ goá chồng. Hai cô con gái lớn ngồi phía cuối bàn, còn hai bên bàn thì bọn trẻ lúc nhúc bâu lại như ruồi.
Naiđênốp cất chiếc mũ kêpi thấm dầu quỳ trên đầu xuống, vuốt lại mớ tóc dựng ngược bờm xờm:
- Chào cả nhà!
- Xin chào các anh! Chắc là có việc đấy chứ, - anh Hai Akim vốn tính vui vẻ xởi lởi, khẽ nhếch mép cười, đáp.
Đáp lại câu chào đùa ấy, Nagunốp đã muốn cau mày lại và nói giọng nghiêm khắc nhất: “Chúng tôi không có thì giờ đùa với các người. Tại sao đến giờ chưa đem thóc đến nộp?”. Nhưng Naiđênốp làm như không thấy cái vẻ giữ ý hơi lạnh nhạt trên gương mặt của chủ nhà, mỉm cười nói:
- Mời cả nhà xơi cơm!
Anh Hai Akim không muốn mời khách, chưa kịp mở miệng buông ra một câu gọn lỏn “vâng” hoặc đùa một câu sỗ sàng: “Vâng, cơm ai người ấy ăn, mời các anh ngồi chơi” thì Naiđênốp đã nói tiếp luôn:
- Xin cứ tự nhiên! Mặc chúng tôi! Nhưng nếu mời thì cháu cũng chẳng làm khách đâu… Thú thật là sáng nay chưa có gì lót dạ. Đồng chí Nagunốp là người sở tại, tất nhiên đã ních đầy bụng rồi, nhưng anh em chúng cháu thì cả ngày mới được một bữa…
Anh Akim phì cười:
- Nghĩa là không gieo, không gặt, mà vẫn cứ no chứ gì?
- No hay đói thì đời vẫn cứ vui như thường.
Miệng nói, tay cởi cáo da thoắt một cái là xong, anh ngồi luôn vào bàn trước con mắt sửng sốt của Nagunốp.
Thấy khách tự nhiên như thế, cụ Akim đằng hắng một tiếng, còn anh Hai Akim thì cười ha hả:
- Thế mới đúng là ba cùng! May mà anh đã kịp cướp lời tôi đấy. Nghe anh mời cơm, tôi đã định nói: “Vâng, cơm ai người ấy ăn, mời các anh ngồi chơi!”. Con bé kia, lấy cho anh cái thìa!
Một trong hai cô gái đứng vụt dậy, chúi vào sau tấm màn phì cười, rồi chạy đi lấy thìa. Cô đưa cho Naiđênốp một cách trịnh trọng, đúng cung cách mời một người đàn ông. Không khí bàn ăn vui nhộn hẳn lên. Anh Hai Akim cũng mời cả Nagunốp, nhưng Nagunốp khước từ, ra ngồi xuống mặt hòm. Chị Akim, có đôi lông mày trắng, tủm tỉm đưa một khoanh bánh mì mời khách. Cô con gái đưa thìa xong, chạy vào buồng mang ra một tấm khăn sạch đặt vào lòng Naiđênốp. Anh Hai Akim nhìn khuôn mặt lốm đốm tàn nhang của anh chàng thanh niên “tự nhiên như người thành thị” với vẻ tò mò và hài lòng ra mặt, nói:
- Này, đồng chí ạ, anh làm thế nào mà con bé nhà tôi phải lòng anh rồi đấy: nó cấm bao giờ đưa cho bố được cái khăn sạch thế đâu, thế mà anh mới đặt đít ngồi đã có ngay. Anh ưng thì tôi cho luôn đấy!
Cô con gái bị bố trêu, đỏ dừ mặt; cô ta che mặt đứng dậy bỏ chạy, Naiđênốp đế thêm vào không khí vui vẻ ấy, cũng nói đùa:
- Chắc là cô ấy chẳng mê được bộ mặt lấm tấm gỉ này đâu. Cháu chỉ có thể đi hỏi vợ vào lúc nhá nhem thôi, lúc ấy thì cháu mới đẹp giai và mới được các cô ấy thích.
Họ dọn ra món chè lê. Chuyện trò tạm ngừng. Chỉ còn nghe thấy tiếng mồm nhai tóp tép và tiếng thìa gỗ khua đáy bát. Không khí im lặng chỉ chấm dứt khi thìa của một thằng nhãi bắt đầu ngoáy lộn bát lên tìm quả lê. Lúc ấy, cụ Akim liếm sạch cái thìa, cầm gõ đánh cộc một cái vào trán thằng bé háu ăn, mắng:
- Ngoáy vừa chứ!
- Sao tự nhiên lại ắng đi như ở nhà thờ ấy nhỉ! – Chị Akim lên tiếng:
Ivan đã ních đẫy món cháo mì và chè lê, nói:
- Nhà thờ không phải lúc nào cũng im lặng đâu, bác ạ. Đấy như ở quê cháu, lễ Phục sinh vừa rồi có một chuyện, cười đến vỡ bụng.
Chị Akim đang lau bàn, ngừng tay. Anh Hai Akim cuốn xong điếu thuốc lá, ra ngồi xuống tấm ghế dài, đón nghe chuyện, và cả cụ Akim nữa, vừa ợ vừa làm dấu phép, cũng vểnh tai nghe Naiđênốp. Nagunốp, nom sốt ruột ra mặt, nghĩ bụng: “Đến bao giờ hắn mới nói chuyện thóc giống? Xem chừng cũng khó nhá đây! Chuyển được cả hai bố con Akim chẳng phải dễ, hai tay cứng đầu cứng cổ nhất trong toàn Grêmiatsi này. Và đe thì đe làm sao được thằng Hai Akim kia, là đứa đã đi Hồng quân về, và nói chung là một anh kô-dắc tốt? Nhưng thóc thì hắn sẽ chẳng chịu nộp đâu, vì hắn bo bo của tư hữu, lại keo kiệt. Giữa mùa đông cũng đừng hòng xin được hắn nắm tuyết, còn lạ gì nó!”.
Trong khi đó thì Ivan Naiđênốp ngừng một tí, rồi tiếp:
- Cháu quê ở huyện Tátxinxki. Ở quê chúng cháu một lần, vào dịp lễ Phục sinh có xảy ra một chuyện như thế này ở nhà thờ: hôm ấy là buổi lễ lớn, con chiên tập hợp đông đủ tại nhà thờ, chen chúc đến ngốt người. Ông giáo trưởng và ông trợ tế ề à hát và đọc kinh, còn bên hàng rào chấn song thì bọn nhãi nô. Làng cháu có một con bò cái tơ một tuổi, nó dữ đến nỗi hơi đụng đến nó, nó đã lao đến như mũi tên, húc túi bụi. Con bò đang đứng gặm cỏ yên lành bên hàng rào, nhưng bọn nhãi trêu ghẹo nó thế nào mà nó lồng lên đuổi một thằng, và đuổi theo đã sát đít! Thằng bé chạy vào sân, còn bò chạy vào theo, thằng bé lên thềm, con bò bám gót luôn. Bên cửa nách, người đứng đông lèn. Con bò cái lấy đà, rồi chơi cho cu cậu một cú ra-a-a dáng vào đít nhá! Thằng nhóc lộn tùng phèo vào chân một bà lão. Bà lão ngã quay lơ, cộc đầu xuống đất, và tru tréo lên: “Ối làng nước ơi! Cứu tôi với! Ối đau quá!”. Ông chồng bà lão cầm nạng phang cho thằng nhãi một cái vào lưng: “Cho mày chết đi, con nhà ôn vật!...”. Còn ả bò cái thì: “Bê-ê-ê!”, rồi chĩa sừng tiến về phía ông lão. Thế là hoảng cả lên nhá! Đám ở sát bên bệ thờ, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, nghe thấy ngoài cửa ồn ào, ngừng đọc kinh, đứng ngẩn ra xôn xao người nọ hỏi người kia. “Ai làm gì ồn lên ngoài ấy thế nhỉ?”, “Có chuyện gì thế?”.
Ivan hứng lên, bắt chước điệu bộ của bà con dân làng ngơ ngác xì xào với nhau khéo đến nỗi bác Hai Akim không nhịn được nữa, và là người đầu tiên cười ha hả:
- Con bò đáo để nhỉ!
Ivan cũng cười, phô ra hai hàm răng trắng bóng, kể tiếp:
- Một anh chàng nào đó nói tếu: “Khéo có chó dại, chuồn đi thôi!”. Một bà bụng chửa phưỡn đứng bên hoảng quá, hét toáng cả nhà thờ lên: “Ối mẹ ơi! Nó cắn cho thì chết hết!”. Người đằng sau xô ép người đằng trước, đài nến đổ lăn kềnh, khói um lên.. Thế là tối sầm lại. Có tiếng ai hô hoán: “Cháy!”. Thế là mạnh ai người nấy kêu: “Chó dại!, “Cha-a-áy!”, “Chuyện gì thế?”, “Tận thế rồi!”, “Saaao?... Tận thế à? Nhà nó ơi! Đi về thôi!”. Người ta xô ra các cửa nách và ùn lại đến nỗi không ai ra lọt. Ngai thờ lộn nhào, những đồng năm kôpếch lăn lông lốc, lão trợ tế ngã dúi, kêu toáng: “Kẻ cướp!...”. Các bà các mẹ xô lại chỗ bệ thờ, như một đàn cừu. Lão trợ tế cầm lư trầm gõ vào đầu họ: “Ơ kìa, điên cả đấy à?... Đi đâu? Lũ phải gió này, không biết là cấm đàn bà con gái đến gần bệ thờ à?”. Còn lão lý trưởng, béo quay cu lơ, sợi giây chuyền lủng lẳng trước bụng thì chen lấn ra phía cửa, miệng quát tháo: “Tránh ra! Tránh ra! Tránh ra nào, đồ tử tiệt! Ông đây mà, ông là lý trưởng đây!”. Nhưng còn biết tránh đi đâu được nữa khi mà đã … “tận thế rồi!”.
Tiếng cười ha hả làm Ivan phải ngừng lại một lát, rồi kể nốt:
- Làng cháu có một gã ăn trộm ngựa tên là Arkhíp Tsôkhốp. Tuần nào hắn cũng kiếm chác được một con ngựa mà chẳng ai làm cách nào tóm được hắn. Hôm ấy hắn cũng đi nhà thờ rửa tội. Và khi nghe thấy tiếng hô hoán : “Tận thế rồi! Chết cả nút rồi, làng nước ơi!” Arkhíp lao ra cửa sổ, đạp tung cánh cửa, định nhảy ra ngoài, nhưng cửa sổ lại có chấn song! Dân làng xô bẹp nhau ở các cửa ra vào. Anh chàng Arkhíp chạy lồng lên trong nhà thờ, rồi đứng sững lại, chắp tay vái giời: “Sa bẫy rồi! Đúng là như con chuột sa bẫy!”.
Hai vợ chồng Akim và hai cô con gái cười chảy nước mắt nước mũi, cười đến phát sặc. Cụ Akim cũng lặng lẽ nhe hai hàm đã rụng tiệt răng. Riêng bà lão tai nghễnh ngãng nghe không thủng câu chuyện, chẳng rõ đầu cua tai nheo thế nào, không hiểu sao tự nhiên lại khóc thút thít. Bà lão lau đôi mắt đỏ hỏn ràn rụa nước mắt, lí nhí nói:
- Khổ thân, thế anh ta bị sa bẫy à? Lạy Đức Mẹ đồng trinh! Người ta có làm gì anh ta không?
- Làm gì ai hả cụ?
- Cái anh cháu vừa nói chuyện ấy…, cái anh ngoan đạo ấy.
- Anh ngoan đạo nào ạ?
- Nào bà có biết đâu, cháu ơi… Bà bị nặng tai, điếc đặc cháu ạ… Nghe có được câu gì đâu…
Chuyện bà lão lại gây nên một trận cười sặc sụa nữa. Bác Hai Akim lau nước mắt chảy ràn rụa vì cười, hỏi đến năm lần bảy lượt:
Thế nào, thằng ăn trộm ấy bảo sao? “Như chuột sa bẫy” à? Này, chú nó ạ, chú nó kể chuyện nghe đến chết cười! – Bác Hai Akim vỗ vai Ivan một cái, phục lăn một cách ngây thơ.
Nhưng Ivan đã chuyển ngay sang nói chuyện nghiêm trang chẳng ai để ý lúc nào. Anh thở dài:
- Chuyện ấy thì đúng là buồn cười thật, nhưng bây giờ có những chuyện thật là chẳng muốn cười tí nào… Hôm nay cháu đọc báo mà thấy xót cả ruột…
- Xót ruột à? – Bác Hai Akim hỏi, chắc mẩm sắp được nghe một chuyện vui khác.
- Vâng. Xót ruột vì thấy ở các nước tư bản con người đang bị rẻ rúng và hành hạ rất là dã man. Cháu đọc được một bài như thế này: ở Rumani, có hai thanh niên Kômxômôn đã đi tuyên truyền giác ngộ, mở mắt cho bà con nông dân, bảo họ phải tước lại ruộng đất của bọn địa chủ mà chia nhau. Dân cày Rumani sống rất là cực khổ…
- Khổ chết cha, tôi biết, chính mắt tôi trông thấy hồi năm mười bảy, khi trung đoàn tôi ở mặt trận Rumani. – Bác Hai Akim xác nhận.
- Vậy đấy! Hai anh thanh niên làm việc tuyên truyền lật đổ chế độ tư bản và xây dựng ở Rumani một Chính quyền xôviết. Nhưng bọn cảnh sát dã man bắt hai anh, đánh chết tươi một anh, còn anh kia thì chúng đem tra tấn. Chúng moi mắt anh, nhổ sạch tóc trên đầu. Rồi chúng nung đỏ một cái dùi, châm vào kẽ móng tay anh…
- Quân khô-ô-ốn kiếp! – Chị Akim kêu thốt lên, hai tay chắp lại. – Châm vào kẽ móng tay à?
- Vâng, vào kẽ móng tay… Chúng tra hỏi: “Chi bộ mày còn những ai thì khai ra, và phải ly khai đoàn Kômxômôn đi”. Anh thanh niên Kômxômôn kia trả lời kiên quyết: “Đừng hòng tao khai, quân quỷ hút máu, và tao cũng không ly khai gì cả!”. Thế là bọn cảnh binh lấy gươm cắt tai, xẻo mũi anh: “Có khai không?” Anh đáp: “Không! Tao thà chết vì bàn tay đẫm máu của mày chứ nhất định không khai! Chủ nghĩa cộng sản muôn năm!”. Chúng liền trói tay anh treo lên trần nhà, đốt lửa bên dưới…
- Cái quân khốn kiếp, trên đời này vẫn còn những kẻ uống máu người không tanh như vậy đấy! Khốn khổ! – Bác Hai Akim kêu lên phẫn nộ.
- … chúng nó thiêu anh, nhưng anh chỉ ứa máu mắt chứ nhất định không khai bất cứ một đồng chí thanh niên Kômxômôn nào, và trước sau chỉ một câu: “Cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản muôn năm!”.
- Không khai đồng chí của mình thì cái anh ấy giỏi đấy! Mà thế mới phải! Cắn răng mà chết, chứ phản bạn thì không được! Thánh kinh cũng dạy là “Hãy quên mình vì bằng hữu… .- Ông lão Akim đấm bàn một cái, giục kể nốt: - Sao, rồi sao nữa?
- … chúng nó tra tấn anh, hành hạ anh đủ tình đủ tội, nhưng anh cứ nín thinh. Suốt từ sáng đến chiều tối như vậy. Anh ngất đi, bọn cảnh binh dội nước lạnh lên người anh, rồi lại tái diễn. Đến khi thấy rõ là không moi được của anh cái gì, chúng liền bắt mẹ anh, điệu đến sở cảnh sát. Chúng bảo bà: “Chúng tôi sẽ tẩn con trai bà cho bà xem! Bà phải bảo nó quy phục đi, không thì chúng tôi giết chết, quẳng xác cho chó!”. Bà mẹ chết ngất đi, rồi khi tỉnh lại, bà lao tới hôn hai bàn tay máu me đầm đìa của anh…
Ivan mặt tái đi, ngừng kể và đưa đôi mắt mở to nhìn mọi người: hai cô con gái miệng há hốc, mắt rưng rưng. Chị Akim xỉ mũi vào tấm màn cửa, vừa sụt sịt vừa thều thào: “Tội nghiệp.. bà mẹ… con đẻ dứt ruột… lạy Chu-u-úa!...”. Anh Hai Akim thì bỗng đằng hắng một tiếng, vớ lấy túi thuốc lật đật cuốn vội điếu thuốc lá. Duy chỉ có Nagunốp ngồi trên chiếc giường hòm, là vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, nhưng ngay cả anh nữa, lúc này má cũng giần giật một cách khả nghi và mồm thì méo xệch sang một bên…
- “.. Con ơi! Mẹ chắp tay lạy con! Con khai đi, không thì bọn lòng lang dạ thú ấy giết chết con mất!”. Bà mẹ bảo anh như thế, nhưng anh nghe bà nói, chỉ đáp: “Không, mẹ ơi, con không phản bội anh em đồng chí, con sẽ chết cho lý tưởng của con, tốt hơn hết là trước khi con lìa đời mẹ hãy hôn con đi, con chết sẽ được thảnh thơi hơn…”
Ivan giọng run run, kết thúc câu chuyện về cái chết của anh thanh niên Kômxômôn Rumani bị bọn cảnh binh đao phủ tra tấn. Không khí lặng đi một phút, rồi chị Akim khóc khóc mếu mếu hỏi:
- Tội nghiệp, anh ấy bao nhiểu tuổi?
- Mười bảy, - Ivan đáp không chút lúng túng, đồng thời kéo sụp chiếc mũ cát két kẻ ô vuông xuống. – Vâng, người anh hùng ấy của giai cấp công nhân, người đồng chí thân yêu của chúng ta, người thanh niên Kômxômôn Rumani ấy đã chết. Anh chết để những người lao động có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp đỡ họ lật đổ chế độ tư bản, thành lập chính quyền công nông, và muốn thế phải xây dựng nông trang, củng cố nền kinh tế tập thể. Nhưng ở ta hiện nay còn có những bà con nông dân đã nối giáo một cách không tự giác cho những bọn cảnh binh ấy: họ không chịu nộp thóc giống… Chà, bữa cơm ngon quá, xin cám ơn cụ với hai bác đã mời! Bây giờ xin nói đến cái việc mà hôm nay chúng tôi đến nói với nhà ta: nhà ta nên mang thóc giống nộp ngay hôm nay đi thôi. Tính ra thì nhà ta phải nộp đúng bảy mươi bảy pút. Thế thì nộp đi thôi chứ!
- Để xem xem đã… Thóc thì nhà tôi gần như nhẵn.. – Anh Hai Akim cháng váng trước đòn tấn công bất ngờ, ngập ngừng đáp. Nhưng chị Hai trừng mắt nhìn anh, ngắt lời anh bằng một giọng gay gắt:
- Còn xem xem cái gì nữa! Đóng bao chở luôn đi cho xong!
Anh Akim chống đỡ một cách yếu ớt:
- Bảy mươi pút thì chả có… Vả lại cũng chưa sàng sảy.
Cụ Akim về hùa với con dâu:
- Nộp đi, anh Hai ạ. Đằng nào chẳng phải nộp, dây dưa làm gì.
Ivan xung phong ngay:
- Anh em chúng tôi chẳng nề hà gì đâu, chúng tôi sẽ sàng sảy giúp. Nhà ta có sàng chứ.
- Có… Nhưng không được tốt lắm…
- Không sao. Ta sẽ chữa. Thôi, nhanh nhẩu lên, hai bác! Anh em chúng tôi vui chuyện ngồi đây lâu quá rồi…
Nửa giờ sau, anh Hai Akim dắt trên trụ sở nông trang về hai chiếc xe bò, và Ivan, mặt lấm tấm những giọt mồ hôi li ti như nốt tàn nhang, lôi từ trong gian để trấu ra hiên kho lúa những bao tiểu mạch đã sàng sẩy kỹ, hạt chắc và mẩy, óng ánh như hạt vàng mười. Anh nháy mắt một cái hóm hỉnh hỏi một trong hai cô con gái bác Akim:
- Sao nhà ta lại cất thóc vào gian để trấu? Kho thóc rộng rãi thế không để, để đây thóc dễ hư.
Cô gái ngượng ngùng đáp:
- Chả hiểu bố em nghĩ sao…
Khi nhà Bexkhlépnốp đã chở bảy mươi bảy pút thóc của họ lên kho tập thể rồi, Ivan và Anđrây chào gia chủ, đi tiếp sang nhà khác. Anđrây hớn hở nhìn gương mặt mệt mỏi của Ivan, hỏi:
- Chuyện anh Kômxômôn, cậu bịa phải không?
Ivan lơ đãng đáp:
- Không. Tôi có đọc thấy trong một tờ tạp chí Cứu tế đỏ, lâu rồi.
- Thế mà cậu bảo mới đọc hôm nay…
- Thì cũng vậy chứ sao? Quan trọng là chuyện ấy có thật, kể cũng thương, đồng chí Nagunốp nhỉ?
- Nhưng cậu… chắc cậu cũng có giấm ớt một tí cho thêm lâm li chứ gì?
- Thế thì đã sao? – Ivan tự ái khoát tay một cái, và co ro rét, anh cài khuy áo da lại, nói tiếp: - Điều quan trọng là làm sao cho bà con căm thù bọn đao phủ và chế độ tư bản, và đồng tình với các chiến sĩ ta. Điều quan trọng là họ chịu nộp thóc giống… Vả lại tôi cũng chẳng giấm ớt thêm gì mấy. Cái món chè lê nhà ấy ngon không chê được! Đồng chí Nagunốp ạ, đồng chí không ăn là dại!

Nguồn: http://tusach.mobi/