Tập I - Chương 37
Đến rằm tháng Năm, toàn huyện về cơ bản đã gieo xong. Nông trang Grêmiatsi Lốc đã hoàn thành kế hoạch gieo. Trưa ngày mồng mười, đội ba đã gieo xong tám hécta mầu còn lại gồm ngô và hạt quỳ, và liền sau đó Đavưđốp cử giao thông hoả tốc phóng ngựa lên huyện uỷ đưa bản báo cáo về việc hoàn thành vụ gieo.
Lúa tiểu mạch gieo sớm đâm lá nom đến vui mắt, nhưng ở cánh đồng đội hai có gần một trăm hécta lúa Kuban gieo vào những ngày đầu tháng năm. Đavưđốp e rằng lúa Kuban gieo muộn không đâm chồi được; Liubiskin cũng e ngại như anh, còn Iakốp Lukits thì thẳng thừng tuyên bố dứt khoát:
- Hỏng! Nhất định hỏng! Các anh muốn gieo suốt mấy tháng hè mà lại mong ăn à? Trong sách có nói là ở Ai Cập một năm gieo hai vụ và gặt hai vụ, nhưng đồng chí Đavưđốp ạ, Grêmiatsi Lốc ta đâu phải Ai Cập cho đồng chí, ở ta là phải làm sít sao theo thời vụ!
Đavưđốp nổi xung lên:
- Này, ông ăn nói cái lối cơ hội chủ nghĩa gì vậy? Lúa ta bắt buộc phải nẩy! Và nếu cần, ta cũng sẽ thu hoạch hai vụ. Đất của ta là của ta: ta muốn khảo nó cái gì, nó cũng phải chịu, thực tế thế!
- Đồng chí nói cứ như trẻ con.
- Được, rồi xem. Này, ông bạn Ôxtơrốpnốp ạ, ông bạn ăn nói đặc giọng hữu khuynh. Cái khuynh hướng ấy Đảng không cần đến nó, nó có hại… Nó đã bị đả ra trò đấy, ông bạn nhớ cho điều đó.
- Tôi nói chuyện khuynh khiếc gì đây, tôi nói chuyện đất cát. Những chuyện khuynh khiếc thì tôi xin chịu.
Nhưng trong lúc hy vọng lúa Kuban sẽ mọc đều, Đavưđốp vẫn không sao xua tan được nỗi ngờ vực trong lòng, và ngày nào cũng thắng ngựa phóng ra thăm cánh đồng cháy nắng, thăm những thửa ruộng đã gieo xong xuôi nhưng vẫn đen sì một màu chết chóc đáng sợ.
Mặt ruộng khô đi rất mau. Hạt thóc gieo thiếu mầu không đủ sức đâm chồi lên. Chồi lá nhọn, mềm mại yếu ớt, cứ nằm rũ dưới những hòn đất bở hầm hập hơi nắng, muốn vươn lên ánh sáng nhưng không đủ sức chọc thủng lớp vỏ đất hanh cứng thiếu hơi ẩm. Đavưđốp xuống ngựa. Anh quỳ xuống, lấy tay bới đất, và trong khi xem xét trên lòng bàn tay hạt thóc đã nhú ngọn chồi non, cảm thấy xót xa cho hàng triệu hạt thóc nằm vùi dưới đất kia đang đau khổ vươn tới ánh sáng mặt trời vậy mà hầu như cầm chắc cái chết. Trời mà mưa cho một trận, lúa sẽ lên xanh cánh đồng ngay. Nhưng trời chẳng chịu mưa cho, và mặt ruộng cứ um lên giống cỏ dại sống dai, khoẻ và dễ tính.
Một buổi chiều một đoàn đại biểu phụ lão đến tìm Đavưđốp tại nhà.
- Chúng tôi có chút việc muốn phiền đồng chí. – Ông lão Akim Mò gà vừa chào vừa nói, và đưa mắt tìm hoài bức tượng thánh để làm dấu phép mà không thấy.
- Có việc gì vậy?... Không có tượng thánh đâu, cụ ạ, đừng tìm mất công.
- Không có à? Thì thôi… chẳng sao… Còn việc thì phụ lão chúng tôi đề nghị với đồng chí…
- Làm sao?
- Lúa tiểu mạch đội hai xem rõ ràng là không mọc nổi thì phải?
- Chưa có cái gì rõ ràng cả, cụ ạ.
- Chưa rõ ràng, nhưng có vẻ như vậy.
- Thì sao?
- Cần mưa.
- Đúng.
- Cho phép chúng tôi vời cụ đạo về làm lễ nước chứ đồng chí?
Đavưđốp mặt đã ửng lên:
- Để làm gì?
- Để Chúa làm mưa cho chứ để làm gì.
- Chà, lại còn thế nữa… Cụ ơi, thôi cụ về đi, và từ nay đừng có nói chuyện ấy với tôi nữa.
- Sao lại đừng nói? Lúa má có phải là của bà con chúng tôi không nhỉ?
- Của nông trang.
- Thế chúng tôi thì là cái gì? Chúng tôi là nông trang viên đây.
- Còn tôi thì là chủ tịch nông trang.
- Ai chả biết thế, đồng chí ơi, đồng chí không tin có Chúa, chúng tôi cũng chẳng dám yêu cầu đồng chí đi rước, nhưng đồng chí hãy cho phép chúng tôi: chúng tôi theo đạo má.
- Tôi không cho phép. Đại hội nông trang viên cử các cụ đến đây đấy hay sao?
- Thưa không. Đây là quyết định của các phụ lão chúng tôi.
- Đấy, thấy chưa: các cụ chỉ là thiểu số, và nếu có đưa ra đại hội bàn thì thế nào cũng bị bác. Này cụ ạ, muốn làm ăn thì ta phải vời đến khoa học, chứ đừng vời đến cụ đạo.
Đavưđốp nói một thôi dài, và nói thận trọng, cố không xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của các cụ. Các cụ nín thinh. Chuyện gần xong thì Maka Nagunốp xuất hiện. Anh nghe nói có các cụ đại biểu cho bà con đi đạo đến gặp Đavưđốp yêu cầu cho làm lễ nước, vội đến đây ngay.
- Vậy nghĩa là không được ạ? – Cụ Akim Mò gà thở dài đứng dậy.
- Không được, vả lại cũng vô ích. Chẳng cần rước trời cũng sẽ mưa.
Các cụ ra về. Nagunốp theo gót luôn ra phòng ngoài. Anh khép chặt cửa phòng Đavưđốp lại, thì thào bảo các cụ:
- Các cụ là giống người cổ lỗ sĩ lắm! Tôi còn lạ gì các cụ nữa: các cụ lúc nào cũng chỉ lăm le trở lại đời sống cũ; các cụ rắn mày rắn mặt như lũ quỷ. Cứ thả các cụ ra thì các cụ sẽ suốt ngày rước xách, tha ảnh thánh đi khắp thảo nguyên, xéo nát cả lúa má… Các cụ mà tự ý gọi cha đạo về đi riễu ngoài đồng thì tôi sẽ dẫn đội cứu hoả theo sau lấy vòi phun cho các cụ một trận ướt như chuột lột. Rõ chưa? Còn cái lão cụ đạo kia khôn hồn thì đừng vác mặt về đây. Cái giống ngựa đực lông lá bù xù ấy thì tôi cứ lấy kéo cắt lông cừu, tôi cắt trọc trước mặt bà con dân làng. Tôi làm cho ê mặt rồi thả ra. Các cụ rõ chưa? – Nói xong, anh trở vào phòng Đavưđốp, ngồi xuống chiếc hòm, mặt khó đăm đăm, bụng vẫn chưa hết hậm hực.
Đavưđốp hỏi, giọng ngờ vực:
- Cậu thì thào chuyện gì với các cụ thế?
Maka tỉnh bơ đi, đáp:
- Chuyện thời tiết.
- Thời tiết làm sao?
- Còn sao nữa, các cụ đã quyết định dứt khoát: không rước nữa.
- Các cụ bảo thế nào?
- Các cụ bảo: chúng tôi hiểu tôn giáo là thuốc phiện rồi. Nhưng việc gì cậu cứ phải vặn vẹo tôi thế? Cậu đúng là dai như đỉa, bám vào ai thì giẫy không ra! Nói gì, rồi lại nói sao?... Tôi nói chuyện gì thì mặc xác tôi chứ. Cậu chúa là hay giở cái trò dân chủ, thuyết phục, van xin. Với các lão ấy thì việc gì phải nói lôi thôi như vậy. Đầu óc họ tăm tối, đầy một cục ngu muội dốt nát. Nghĩa là đối với họ, hoài hơi mà dài dòng văn tự, cứ việc: một, hai, có nghe thì bảo. Thế là xong ngay!
Đavưđốp cười xoà, khoát tay, chịu thua. Anh chàng Maka này quả thật đánh chết cái nết không chừa. Maka làm dân ngoài Đảng mất hai tuần, thế rồi trên huyện có sự thay đổi lãnh đạo: **rghinxki và Khômutốp bị cách chức.
Bí thư huyện uỷ mới sau khi nhận được đơn khiếu nại của Nagunốp do ban thanh tra khu chuyển về, đã cử một uỷ viên thường vụ huyện uỷ về Grêmiatsi Lốc thẩm xét lại vụ này. Và sau đó huyện uỷ đã quyết định: huỷ bỏ quyết định cũ về việc khai trừ Nagunốp ra khỏi Đảng, với lý do hình thức kỷ luật quá nặng so với khuyết điểm. Hơn nữa một lô tội Nagunốp bị buộc cho hồi ấy (“đạo đức đồi bại”, “dâm ô hủ hoá”), sau khi được điều tra lại đã bị loại đi. Maka bị một án cảnh cáo và câu chuyện đến đấy là xong.
Đavưđốp thời gian qua tạm thời làm bí thư chi bộ, bàn giao trở lại công việc cho Maka, hỏi:
- Biết thân chưa? Từ nay còn quá khích nữa không?
- Biết quá đi rồi. Nhưng giữa mình với huyện uỷ thì biết ai quá khích?
- Cả hai. Mỗi bên một ít.
- Và mình cho là cả khu uỷ nữa cũng lệch lạc nốt.
- Thí dụ?
- Ví dụ thế này: tại sao không chỉ thị trả lại súc vật cho những người ra nông trang? Thế là tập thể hoá cưỡng bức rồi chứ còn gì? Đích thị là cưỡng bức! Người ta ra khỏi nông trang, thế mà súc vật lẫn nông cụ, chẳng trả lại cho người ta cái gì cả. Rõ rành rành họ lấy cóc gì mà sống, chẳng biết xoay xở ra sao, đành phải mò trở lại nông trang. Ức đấy, nhưng vẫn phải trở lại.
- Nhưng súc vật và nông cụ là tài sản không chia của nông trang!
- Thiết cha gì cái tài sản không chia ấy nếu như họ bất đắc dĩ mà quay trở lại nông trang? Quẳng mẹ nó trả lại cho họ!...”Này, nông cụ của các người đây, tọng đi, ngốn đi cho chết nghẹn!”. Mình thì mình sẽ cấm, không cho phép họ bén mảng tới gần nông trang nữa kia, thế mà cậu lại đi tiếp nhận cả một mớ những đứa quay quắt lật lọng ấy, cứ tưởng như sẽ biến họ thành được người nông trang viên tự giác! Tự giác cái con khir! Quân lật lọng ấy có ở trong nông trang đi nữa thì suốt đời cho đến ngày xuống lỗ chúng vẫn cứ ngấp nghé hướng về lối sống cá thể thôi… Mình lạ gì chúng nó! Và cái việc người ta không trả lại chúng nó súc vật và nông cụ thì đó là tả khuynh, còn như cậu nhận lại chúng nó vào nông trang thì đó là hữu khuynh. Anh bạn ạ, bây giờ tôi cũng chính trị cao ra phết rồi đấy, đừng hòng loè tôi nữa!
- Chính trị cao quái gì mà có mỗi một điều này cậu cũng không hiểu ra, là lúc này không thể thanh toán bất cứ khoản gì với những người xin ra được, mà phải đợi qua vụ đã!...
- Không, chuyện ấy tôi thừa hiểu.
- Chà, Maka ơi! Sống mà không ngang như cua thì hình như cậu không chịu nổi thì phải. Chuyện chẳng ra gì cậu cũng cứ làm lộn tùng phèo cả lên, thực tế thế!
Họ còn tranh cãi với nhau hồi lâu nữa, cuối cùng vặc nhau, rồi Đavưđốp bỏ ra về.
Trong hai tuần ấy ở Grêmiatsi Lốc đã có nhiều sự thay đổi: cả làng rất đỗi kinh ngạc thấy Marina Pôiarkôva tái giá với Đêmít Miệng hến. Anh đã dọn đến ở nhà mụ ta, nửa đêm tự mình đứng làm bò chở đến nhà mụ toàn bộ cái gia sản nghèo nàn của mình, còn túp lều nát của anh thì anh lấy ván đóng đinh chặn hết các cửa sổ và cửa ra vào lại.
Bà con dân làng nói: “Mụ Marina thật kéo kén chồng. Đôi ấy mà cùng làm thì khoẻ hơn cái máy kéo”.
Anđrây Radơmiốtnốp rụng rời chân tay khi nghe tin ả nhân ngãi bấy lâu nay đầu gối tay ấp của mình đi lấy chồng. Lúc đầu anh còn làm ra vẻ cứng, nhưng rồi không chịu nổi và bắt đầu uống rượu, giấu Đavưđốp. Nhưng Đavưđốp vẫn phát hiện ra, và cảnh cáo anh:
- Cậu vứt phéng chuyện con mụ ấy đi cho tôi. Vô nghĩa lý.
- Mình vứt rồi. Nhưng mình cay, cay không chịu được! Con chó cái ấy, nó bỏ mình đi lấy ai đã đành! Đi lấy cái của nợ ấy!
- Việc riêng của nó, kệ thây nó.
- Nhưng cậu bảo có cay không?
- Cậu muốn cay thì cứ cay, nhưng đừng uống rượu. Không phải lúc. Sắp phải làm cỏ rồi.
Và Marina lại cứ luôn luôn chạm chán với Anđrây, dường như cố tình, và nom mụ có vẻ hể hả mãn nguyện lắm.
Đêmít Miệng hến tung hoành trong cái cơ ngơi nhỏ xíu của mụ như một con bò mộng khoẻ: trong vòng có vài ngày, anh đã sửa sang dọn dẹp tất cả nhà trên nhà dưới ngăn nắp đâu vào đó, một ngày một đêm đào được một hầm chứa sâu một xagien rưỡi, vác trên lưng những chiếc dầm và bắp cày nặng hàng chục pút… Marina giặt rũ, khâu vá quần áo cho anh, và không ngớt lời ca ngợi với bà con hàng xóm là Đêmít làm khoẻ:
- Này các bà ạ, nhà tôi thật là được việc. Anh ấy khoẻ như vâm. Tay sờ vào cái gì là cái ấy sôi lên sùng sục. Còn như anh ấy ít nói thì cha mẹ sinh con, trời sinh tính… Càng đỡ ầm nhà ầm cửa…
Còn Anđrây thì nghe nói Marina mãn nguyện với anh chồng mới, buồn bã than thân:
- Ôi, em Marina yêu quý của anh! Anh đây đâu phải không chữa nổi nhà xe hoặc đào hầm chứa cho em? Em đã làm tan nát cuộc đời trai trẻ của anh!
Lão kulắc Gaiép bị đưa đi đày đã được trở về Grêmiatsi Lốc: Uỷ ban bầu cử của khu đã trả lại quyền công dân cho lão. Lão Gaiép con cái lúc nhúc này về tới làng thì Đavưđốp gọi ngay lên trụ sở nông trang.
- Công dân Gaiép, bây giờ ông định làm ăn sinh sống ra sao, làm cá thể hay vào nông trang?
- Thì cũng phải thế thôi, - Gaiép đáp, chưa hết ức vì đã bị tịch thu tài sản trái phép.
- Thế nào mới được chứ?
- Xem ra thì không thoát khỏi được nông trang.
- Vậy thì làm đơn đi.
- Thế còn tài sản của tôi?
- Gia súc của ông đã nhập vào nông trang cả, nông cụ cũng vậy. Còn cái món quần áo thì chia tẩu tán mất rồi. Chuyện này phức tạp đây. Trả được ông cái gì thì sẽ trả, còn lại sẽ thanh toán bằng tiền cho ông.
- Thóc lúa của tôi các anh cũng vét sạch cả…
- Chuyện này thì dễ. Ông đi gặp ông quản lý, ông ta sẽ bảo thủ kho cấp tạm cho ông mươi pút bột mỳ.
Nghe tin Đavưđốp định nhận Gaiép vào nông trang, Maka bực mình lắm, nói với Anđrây Radơmiốtnốp:
- Bây giờ người ta lại định biến nông trang thành cái sọt rác! Thế này thì Đavưđốp chỉ còn việc đăng quảng cáo lên báo “Cái búa” là nông trang sẽ nhận tất cả những bọn đi đày mãn hạn phát vãng…
Sau vụ gieo hạt, chi bộ Grêmiatsi đã phát triển lên gấp đôi; Paven Liubiskin, người đã ba năm đi ở cho Titốc, Nextor Lôsilin, đội viên đội ba, và Đemka Usakốp đã được kết nạp vào làm đảng viên dự bị. Hôm họp chi bộ kết nạp mấy người này, Nagunốp đã ngỏ ý với Kônđrát Maiđanhikốp:
- Vào Đảng đi Kônđrát ạ, mình sẵn sàng giới thiệu cậu. Ngày xưa cậu đã chiến đấu dưới quyền chỉ huy của mình, và hồi ấy cậu đã là một chiến sĩ kỵ binh dũng cảm. Và bây giờ cậu lại là một nông trang viên gương mẫu. Này, mình hỏi cậu, sao lại cứ đứng ngoài thế? Tình hình đã đi tới chỗ cách mạng thế giới có thể nổ ra bất kỳ lúc nào, có thể là hai chúng ta sẽ lại phải chiến đấu một lần nữa trong cùng một đội kỵ binh để bảo vệ Chính quyền xôviết, thế mà ngày tháng trôi qua, cậu cứ không đảng viên thế mãi sao? Không coi được, cậu ạ! Vào Đảng đi!
Kônđrát thở dài một tiếng, và tâm sự:
- Không, đồng chí Nagunốp ạ, lương tâm không cho phép tôi vào Đảng lúc này…Nếu cần tôi sẽ lại đi chiến đấu bảo vệ Chính quyền xôviết, và ở nông trang tôi sẽ làm việc toàn tâm toàn ý, còn như xin vào Đảng thì tôi không thể…
Maka cau mày hỏi:
- Sao thế vậy?
- Vì cái nỗi là bây giờ tôi ở nông trang thật đấy, nhưng nghĩ đến của cải của mình vẫn cứ héo ruột héo gan… - Đôi môi Kônđrát run run, giọng anh chuyển sang thều thào vội vã: - Nhớ mấy con bò mà phát ốm lên, thương chúng nó… Chúng nó chẳng được chăm nom tử tế. Akim Bexkhlépnốp để cho vòng cổ làm trầy da con ngựa của tôi, tôi trông thấy và mất ăn mất ngủ một ngày đấy… Con ngựa bé tẹo mà lại khoác cho nó cái vòng cổ như cái cùm thế bao giờ? Chính vì thế mà tôi không dám. Một đôi khi tôi chưa đoạn tuyệt được với đầu óc tư hữu thì lương tâm không cho phép tôi vào Đảng. Tôi nghĩ như vậy đấy.
Maka ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Cậu nghĩ thế cũng phải. Trước mắt cậu chưa nên vào. Chúng ta sẽ đấu tranh kịch liệt chống lại mọi cái làm ẩu trong công việc của nông trang, sẽ sửa lại các vòng cổ cho vừa với ngựa. Nhưng nếu như đêm ngủ cậu còn mơ thấy đàn bò ngày trước của cậu thì đúng là cậu chưa nên vào Đảng thật. Vào Đảng là trong lòng phải không còn chút tiếc rẻ gì của tư hữu cơ. Vào Đảng là phải trong sạch và chỉ có một điều tâm niệm thôi, là đi tới cách mạng thế giới. Ông cụ nhà mình ngày xưa cũng khá giả, và mình còn bé cụ đã dạy cho trông nom việc nhà. Nhưng mình không mê cái trò ấy tý nào, coi nó là cái trò vô nghĩa lý. Mình đã rời bỏ cuộc sống ấm no, bỏ lại bốn đôi bò đực, đi làm thuê nếm mùi gian khổ… Cho nên chừng nào cậu chưa tẩy sạch được cái thứ ghét bẩn bám trên người là đầu óc tư hữu thì cũng chưa nên vào Đảng thật.
Tin Liubiskin, Usakốp và Lôsilin vào Đảng lan truyền đi nhanh chóng khắp Grêmiatsi. Một anh chàng kô-dắc nào đó trêu bác Suka:
- Thế nào, bác còn đợi gì nữa mà không lao đơn vào Đảng đi? Phần tử cốt cán mà lị! Họ sẽ phong chức cho bác, bác sẽ tậu lấy cái cặp da cắp nách mà chạy nhông.
Bác Suka nghĩ đi nghĩ lại rồi chiều hôm ấy, vừa sẩm tối đã đến nhà tìm gặp Nagunốp.
- Chào chú Maka!
- Chào bác. Có việc gì đây?
- Thiên hạ vào Đảng ầm ầm…
- Thì sao?
- Cờ có đến tay thì mới phất được.
- Sao nữa?
- Nghĩa là có lẽ lão cũng muốn vào Đảng. Này anh ạ, đời lão đâu phải để loanh quanh với mấy ả ngựa cái. Lão có phải con ngựa đực đâu.
- Thế thì lão muốn gì?
- Lão đã nói hai năm rõ mười rồi: lão muốn vào Đảng. Lão đến hỏi anh xem lão sẽ giữ chức gì, và còn được cái gì nữa… Anh nói xí dụ cho lão biết: biên đơn thì biên thế nào?
- Lão nói lẩm cẩm cái gì thế?... Lão tưởng người ta vào Đảng để lấy chức à?
- Thì đảng viên ta đều có chức cả đấy thôi.
Maka cố nén lại, lái sang chuyện khác:
- Hôm Phục sinh cụ đạo đến tìm lão phải không?
- Đích thị.
- Lão cúng hắn cái gì không?
- Tất nhiên là có. Một đôi trứng và đương nhiên là khúc thịt mỡ nữa, độ nửa phuntơ.
- Nghĩa là đến bây giờ lão vẫn tin vào Chúa hả?
- Tất nhiên là cũng chẳng tin lắm, nhưng gặp lúc ốm đau, hoặc là có chuyện gì chẳng lành, hoặc là nói xí dụ, sấm sét đùng đùng thì đương nhiên là lão cũng cầu đến Chúa, đọc vài câu kinh.
Maka cũng định giải quyết với bác Suka một cách lễ độ, giải thích cho bác rõ đầu đuôi tại sao không thể kết nạp bác vào Đảng được, nhưng trong khi khơi chuyện cho bác ta nói, anh đã không chuẩn bị đầy đủ tinh thần kiên nhẫn, và thế là anh tuôn ra ngay cho một tràng:
- Xéo đi cho khuất mắt, đồ nỡm già! Đem trứng cúng cụ đạo, rẩy nước thánh, rồi lại mơ tưởng chức nọ chức kia, thế mà sờ đến việc thì trộn cho ngựa ăn cũng không nên thân. Hạng ba hoa xích đế như lão thì Đảng nhận vào làm cái khỉ gió gì? Lão định đùa dai tôi phỏng? Lão tưởng đồ ba bị nào cũng vào được Đảng à? Cái nghiệp của lão chỉ là khua môi múa mép, ăn nói quàng xiên thôi. Xéo đi, đừng có trêu ngươi tôi, tính tôi là tính nóng như lửa đây. Sức khoẻ tôi không để cho tôi ăn nói ôn tồn được với lão đâu. Xéo đi, đã bảo, có xéo đi không?
Ra đến ngoài, bác Suka vừa vội vã đóng sập cổng hàng rào lại vừa tiếng rẻ: “Mình xuất hành phải cái giờ xấu rồi! Đáng lẽ đợi hắn ăn cơm xong hẵng đến mới phải”.
Một tin cuối cùng làm cho cả làng và nhất là các cô gái Grêmiatsi Lốc xôn xao là tin thằng Đưmốc chết.
Ephim Tơrubatsép và Batansikốp bị toà án nhân dân kết án tù, viết thư về kể rằng trên đường ra ga, thằng Đưmốc nhớ quê hương, tiếc cuộc sống tự do, đã trốn chạy. Anh công an đi áp giải đã hô lên ba lần: “Đứng lại!”. Nhưng Đưmốc cứ lom khom chạy tắt cánh ruộng cày vào rừng. Chỉ còn độ mười lăm xagien nữa là hắn tới rừng thì anh công an quỳ xuống, giương súng, và bắn đến phát thứ ba thì Đưmốc gục.
Ngoài bà cô hắn ra thì cũng chẳng có ai khóc anh chàng không cha không mẹ ấy, và các cô gái đã được Đưmốc dìu dắt vào cái nghệ thuật không lấy gì làm phức tạp lắm của ái ân, nếu có buồn thương thì cũng chỉ sơ sơ vài bữa.
“Người chết hết chuyện…”. Và nước mắt con gái chẳng qua cũng chỉ là hạt sương buổi sớm mà thôi…
Tập I - Chương 38
Năm 1930 lần đầu tiên mất cái tục “những tháng ăn chơi”. Trước đây, khi người ta còn sống theo lối sống cũ, thì hai tháng này được gọi là “những tháng ăn chơi” quả cũng không sai. Gieo xong, bà con nông dân đủng đỉnh chuẩn bị cho mùa cắt cỏ gia súc: bò, ngựa tha thẩn trên các bãi cỏ lấy lại sức, còn nam giới kô-dắc ngồi đóng cái sào, sửa cái xe, chữa cái liềm hái… Hiếm có ai ra đồng vào cái nắng tháng Năm này. Xóm làng thiêm thiếp trong không khí im lặng nặng trĩu. Giữa trưa đi trên đường làng cấm thấy một bóng người. Đàn ông hoặc là phóng đi chơi đâu xa, hoặc nằm khểnh trong nhà, hoặc uể oải bổ củi; đàn bà thì ngồi ngái ngủ đâu đó trong bóng mát, bắt chấy cho nhau. Sự trống rỗng và cái im lặng thiu thiu ngự trị xóm làng.
Nhưng ngay trong năm đầu của đời sống làm ăn tập thể Grêmiatsi Lốc đã bỏ cái lệ “những tháng ăn chơi”. Lúa vừa mới lên, người ta đã bắt tay vào làm cỏ. Đavưđốp tuyên bố trong một cuộc họp:
- Ta sẽ làm cỏ ba lần, sao cho không còn một ngọn cỏ dại trên ruộng lúa nông trang.
Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp khoái lắm. Vốn tính hoạt động và nhanh nhẹn tháo vát, lão rất thích cái lối làm ăn cả làng sôi động, người nào việc nấy tíu tít bận rộn ấy. “Chính quyền xôviết bay cao đấy, nhưng để rồi xem nó hạ cánh đậu xuống như thế nào! Nào xới cỏ lúa, nào cày ải, nào chăn nuôi, nào sửa chữa nông cụ… Nhưng dân có chịu làm không cơ chứ! Vả lại bắt đàn bà con gái đi làm cỏ lúa ư? Khắp Quân khu Sông Đông này xưa kia chẳng ai làm cỏ lúa cả. Mà không làm cỏ là sai. Nếu có làm cỏ thì hẳn lúa đã tốt hơn rồi. Mình đúng là già mà dại, đáng lẽ mình cũng nên làm cỏ mới phải. Mùa hè đám đàn bà chỉ “chơi rông chơi dài”, lão nghĩ bụng như vậy, và tiếc ngẩn tiếc ngơ xưa kia thời còn cá thể đã không biết làm cỏ lúa của mình.
Chuyện trò với Đavưđốp, lão nói:
- Chuyến này thì tha hồ mà hốt lúa, đồng chí Đavưđốp hề! Trước kia có cái lối người ta ném hạt thóc giống xuống, rồi khoanh tay ngồi chờ kết quả. Và kết quả là cùng với cây lúa là cỏ gai, là cỏ gà, là cỏ sữa và đủ các thứ cỏ chết tiệt khác. Mang ra đập, nom bó lúa thì cũng có vẻ hay đấy, nhưng đem thóc ra cân thì mỗi đêxiachin được bốn chục pút, thậm chí còn ít hơn.
Sau chuyện dân làng cướp thóc giống trong kho nông trang, Đavưđốp đã có ý định cắt chức quản lý của Ôxtơrốpnốp. Anh nghi ghê lắm… Anh nhớ khi trông thấy Ôxtơrốpnốp trong đám đông không phải chỉ là vẻ hoang mang mà có cả một nụ cười hằn học, chờ đợi… Ít ra thì cũng là Đavưđốp lúc ấy thấy như thế.
Ngay hôm sau anh gọi Iakốp Lukits đến buồng mình, bảo mọi người ra ngoài, rồi hai người chuyện trò nho nhỏ với nhau.
- Hôm qua ông đứng làm gì ở sân kho?
- Tôi giải thích cho người ta mà, đồng chí Đavưđốp ạ. Tôi khuyên cái bọn địch ấy phải tỉnh ngộ lại, không được tự ý lấy thóc nông trang. – Iakốp Lukits đáp lại ráo hoảnh.
- Ông nói gì với bọn các bà ấy… Sao ông lại bảo họ tôi giữ chìa khoá kho?
- Đâu có chuyện! Lạy Chúa! Tôi nói thế với ai? Tôi chẳng nói với ai bao giờ…
- Chính các bà ấy khi lôi tôi đi đã bảo như vậy…
- Điêu quá! Tôi xin thề độc. Họ chỉ đặt điều… Họ ghét tôi họ nói thế thôi.
Thế là quyết tâm của Đavưđốp bị lung lay. Và tiếp ngay sau chuyện đó, Iakốp Lukits hoạt động sôi lên sùng sục, chuẩn bị cho vụ làm cỏ, thu thập các phương tiện tổ chức nhà ăn tập thể, đưa tới tấp ra ban quản trị những phương án làm ăn hợp lý đến nỗi một lần nữa Đavưđốp phải chịu lão quản lý xốc vác của mình.
Iakốp Lukits đề nghị với ban quản trị cho đào ở khu đồng của các đội một số hồ mới. Lão còn ấn định cả vị trí đào ở dưới các lòng trũng là nơi thuận tiện hơn cả cho việc giữ con nước xuân. Theo ý lão thì việc xây dựng các hồ mới phải làm quá nửa kilômét. Đavưđốp và tất cả các uỷ viên quản trị đều buộc phải thừa nhận phương án của Ôxtơrốpnốp rất hay, bởi vì các hồ đầm cũ hình thành hoàn toàn không phải trên cơ sở nhu cầu của nông trang. Chúng nằm rải rác lung tung trên thảo nguyên, và mùa xuân bò ngựa của các đội đi uống nước phải kéo nhau đi tới hai cây số rưỡi, hoặc ba cây. Thời gian lãng phí khá nhiều. Bò cày mệt, đi ra được chỗ uống nước rồi trở về mất gần hai tiếng đồng hồ, thời gian ấy để cày bừa thì chúng có thể làm được không phải chỉ một hécta mà thôi. Ban quản trị đã đồng ý cho xây dựng một số hồ mới, và Iakốp Lukits tranh thủ lúc công việc đồng áng rảnh rỗi, được phép của Đavưđốp, cho tiến hành chuẩn bị gỗ lạt đóng kè.
Chưa hết, Iakốp Lukits lại còn đề xuất nên xây dựng một lò gạch, và đã chứng minh được một cách dễ dàng cho Akaska Mênốc – anh chàng này không tin vào tính chất kinh tế của công trình ấy, - thấy rằng xây chuồng ngựa trung tâm và chuồng bò thì nung gạch lấy sẽ rẻ hơn rất nhiều so với mua mất bốn rúp rưỡi một trăm viên, mà lại còn phải chuyên chở một quãng đường hai mươi tám kilômét từ trên huyện về. Và cũng vẫn lại Iakốp Lukits đã thuyết phục được bà con nông trang viên đội ba nên kè lại Đầm Dữ, vì năm này qua năm khác nó cứ xói mòn những khoảnh đất màu mỡ quanh làng mà ở đó trồng kê lên rất tốt, còn dưa bở thì quả to và ngọt tuyệt trần. Dưới sự chỉ huy của lão, bà con đóng cọc, rấp cành, trát phân khô, đổ đá, và trồng lên bãi lầy những cây con giống bạch dương và liễu để chúng ăn lan ra giữ đất. Một diện tích không nhỏ đã được cứu khỏi bị xói mòn.
Tất cả những chuyện ấy góp lại đã củng cố được địa vị bị lung lay của Iakốp Lukits trong nông trang. Đavưđốp quyết định dứt khoát: không vì lý do gì để mất lão quản lý và tìm mọi cách khuyến khích óc sáng kiến quả là vô tận của lão. Đến ngay cả Nagunốp cũng thấy xuôi xuôi đối với Iakốp Lukits. Trong một hội nghị chi bộ anh đã phát biểu:
- Mặc dầu theo bụng dạ lão thì lão chẳng phải người của ta đâu, nhưng lão là một tay làm ăn sắc sảo. Chừng nào ta chưa đào tạo được người mình cũng thạo việc như lão thì ta cứ giữ lão làm quản lý. Đảng ta rất chi là thông minh. Đảng có hàng triệu khối óc, do đó mà sáng suốt. Có tên kỹ sư là một quân chó má ruột gan phản cách mạng. Căn cứ vào bụng dạ nó thì phải đem nó đặt dựa lưng vào tường mà bắn chết quách đi, nhưng người ta không đặt, mà bảo nó: “Mày là một người có học. Này, tiền đây, đi mà nốc cho trương bụng lên, mua cho con vợ mày đôi bít tất cho nó thích, nhưng hãy vắt óc, trổ hết nghề kỹ sư của mày ra mà phục vụ cách mạng thế giới!”. Thế là nó làm đấy. Mắt nó thì vẫn ngoái lại cuộc sống ngày xưa, nhưng tay nó làm. Đem bắn nó thì được cái gì? Tước được cái quần cũ, và có thể là cái đồng hồ quả quýt có dây đeo nữa, thế thôi. Đằng này, để nó làm việc, nó đem lại cho ta trăm nghìn cái lợi. Đối với lão Ôxtơrốpnốp của ta cũng vậy: cứ để lão đắp kè, đào ao. Tất cả những cái đó đều có lợi cho Chính quyền xôviết và thúc đẩy cách mạng thế giới!
Cuộc sống Iakốp Lukits đã trở lại một trạng thái thăng bằng nào đó. Lão hiểu rằng tất cả những lực lượng đứng đằng sau Pôlốptxép và cầm đầu cuộc chuẩn bị nổi loạn, lần này đã thất bại; lão tin chắc bây giờ thì sẽ không có loạn lạc nữa gì hết, vì thời cơ đã bỏ lỡ mất rồi và trong tư tưởng những người kô-dắc thù ghét nhất Chính quyền xôviết cũng đã có một chuyển hướng nhất định. “Xem ra có vẻ như là Pôlốptxép và Liachépxki đã vượt biên chuồn rồi” - Iakốp Lukits nghĩ bụng như vậy, mà lòng thì đôi ngả, nửa tiếc cay tiếc đắng đã không có dịp lật nhào được Chính quyền xôviết, nửa vui mừng thảnh thơi: từ nay sẽ không có gì đe doạ cuộc sống yên ấm của lão nữa. Từ nay trông thấy anh công an trên huyện xuống Grêmiatsi Lốc, lão sẽ không nôn nao sợ hãi nữa; chứ cứ như trước kia thì chỉ độc nhìn thấy tấm áo capốt đen của anh ta lão đã run bắn, hãi không tưởng tượng được.
Một lần, chỉ có hai mẹ con với nhau, bà già lão hỏi lão:
- Thế nào, chính quyền của bọn vô đạo sắp xuống lỗ chưa con?
Iakốp Lukits bực mình không chịu được với câu hỏi không đúng lúc ấy, cau có đáp lại bằng một giọng chua chát:
- Bà ơi, chuyện ấy thì có can hệ gì đến bà?
- Can hệ chứ sao lại không? Chúng nó đóng cửa nhà thờ, đấu tố cụ đạo… Có đúng vậy không?
- Bà tuổi già sức yếu rồi, ngồi mà cầu Chúa thôi… Còn chuyện đời thì đừng dây vào nữa. Bà rắc rối lắm!
Mụ già không thôi. Mụ chẳng hiểu sao thằng con Iakốp của mụ lại không chịu “thay đổi chính quyền” đi.
- Thế các ông sỹ quan, các ông ấy xéo đâu cả rồi? Cái ông chột mắt ỉa ra khói cứ ngồi ru rú ấy, ông ta đã chuồn đi đâu mất tăm thế? Và anh nữa!... Mới lúc nào anh còn xin tôi ban phúc lành cho, thế mà bây giờ lại đi hầu hạ chính quyền kia!
- Ối bà ơi, bà làm con cứ lạnh cả gáy! Thôi bà đừng lảm nhảm nữa cho con nhờ! Bà còn lôi thôi những chuyện ấy ra làm gì nữa hả? Rồi lại sắp đi kể vung tứ linh lên đây!... Bà muốn con mất đầu hay sao, hả bà ơi! Bà vẫn bảo: “Chúa làm gì đi nữa cũng chẳng qua sự lành”. Thế thì bà cứ ngồi sống cho khoẻ. Mũi bà có hai cái lỗ đấy, bà dùng mà hít ra hít vào chứ đừng bép xép nữa… Người ta không muốn cướp mất miếng ăn của bà đâu mà lo… Bà còn muốn gì nữa, lạy Chúa!...
Lời đi tiếng lại xong, Iakốp Lukits nhảy bổ ra đường, như bị bỏng nước sôi, và hồi lâu sau vẫn không sao trấn tĩnh trở lại được. Và lão hạ lệnh cho vợ, con giai và con dâu với một vẻ mười phần nghiêm khắc:
- Mở to mắt ra mà trông coi bà! Bà đến làm tao chết cháy mất thôi! Hễ có ai lạ đặt chân vào nhà thì lập tức nhốt ngay bà vào trong buồng.
Và thế là ngày đêm mụ già bị nhốt chặt. Nhưng chủ nhật thì mụ được thả cho tự do. Mụ đến chơi đám bạn già, cũng khọm như mụ, rồi khóc lóc, than thở:
- Ối các bà chị ơi! Hai vợ chồng thằng Iakốp Lukits nhà tôi cứ nhốt chặt tôi trong buồng khoá trái… Tôi chỉ còn được ăn có độc thứ bánh khô thôi, bánh khô chấm nước mắt. Trước, hồi mùa chay, khi trong nhà tôi có các ông sỹ quan đến ở - là tôi nói ông chỉ huy của thằng Iakốp nhà tôi và người bạn của ông ta đấy, và có khi lại cho tôi xúp thịt nữa…, thế mà bây giờ chả hiểu sao tự nhiên chúng nó làm tội làm tình tôi thế… Cả thằng chồng lẫn con vợ… Hu hu hu hu!... Tôi chết mất thôi, các bà chị ơi: con mình rứt ruột đẻ ra, thế mà không hiểu sao nó thù oán mình cái gì chẳng rõ. Trước, nó đến xin tôi ban phước cho nó để nó đi diệt cái chính quyền vô đạo này, thế mà bây giờ tôi cứ động mở miệng nói một câu chống lại chính quyền là nó lại chửi rủa tôi…
… Cuộc sống yên ổn của Iakốp Lukits, chỉ bị u ám đi vì những cuộc cãi vã giữa hai mẹ con thôi, - chẳng bao lâu nữa sẽ chấm dứt một cách bất ngờ.
Tập I - Chương 39
Ngay hồi còn đang vụ gieo, Luska, cô vợ cũ của Nagunốp, một gái chồng bỏ, một cô ả vui vẻ trẻ trung và đĩ thoã, đã bắt đầu ra đồng làm. Ả được phân về đội ba, và rất vui lòng đến ăn ở tại lán của đội. Ban ngày ả dong bò cho Aphanaxi Kraxnôcutốp, còn đêm đến thì quanh túp lều cỏ dã chiến ả ở, lại vang lên tiếng đàn balalaika ríu rít, tiếng thở dài của những cây đàn trầm, tiếng phím trầm thánh thót của phong cầm, trai gái đàn hát nhảy múa thâu đêm đến sáng; và cầm đầu cái hội ăn chơi tưng bừng ấy là Luska.
Đối với ả, thế gian bao giờ cũng tươi sáng và đơn giản, không có một vết nhăn lo âu hoặc ưu phiền nào trên gương mặt vô tư lự của Luska. Ả đi qua cuộc đời chân bước nhẹ tênh tênh, tin tưởng, đôi lông mày tình tứ dướn lên chờ đợi, cứ như ả đang mong mỗi phút lại gặp được một điều gì vui sướng. Về Maka thì hôm trước li dị hôm sau ả đã quên phắt, chẳng nghĩ đến anh nữa. Chimôphây Mũi toác đang ở xa xôi phương nào, nhưng Luska đâu phải là người để mà thương tiếc người thân đã thất tán? “Đời tôi thì giống chó dái ấy lúc nào cũng có cả đàn”, - ả khinh khỉnh nói với các bà các cô nào nhắc đến cảnh dở dang của ả.
Và quả là ả có cả một đàn thật. Các anh kô-dắc đã có vợ và các cậu đội ba thi nhau lăn xả vào tranh đoạt tình yêu của Luska. Đêm đêm bên lều ả ở, dưới ánh trăng mờ xanh, đế giày đế ủng của các cô cậu kô-dắc cứ long răng rắc, bay vèo đi, trong các điệu vũ “kracôviác” và ponka nện gót”. Nhưng giữa đám anh em thợ cày, thợ bừa, thợ gieo đến nhảy nhót và ve vãn Luska đã luôn luôn xảy ra những vụ to tiếng dẫn đến những trận ẩu đả quyết liệt. Và tất cả vì Luska. Số là ả xem có vẻ dễ lơn quá, hơn nữa cả làng ai cũng biết chuyện tằng tịu dơ dáng của ả với thằng Chimôphây con lão Mũi toác. Cho nên anh chàng nào cũng hí hửng muốn được thay cái chân mà thằng Chimôphây bị bắt buộc phải từ bỏ và Nagunốp đã tự nguyện từ bỏ.
Agaphôn Đúpxốp đã lựa lời khuyên nhủ Luska, nhưng anh đã bị một cú thảm hại:
- Tôi làm việc không ai chê trách được, còn chuyện yêu đương nhảy múa thì không ai cấm được tôi. Này, bác Agaphôn ạ, bác đừng rắc rối nữa, trùm kín áo dipun lên, và đi ngủ đi. Còn nếu như bác thèm và muốn tham gia tí tỉnh với chúng tôi thì cứ đến. Rỗ hoa chúng tôi cũng nhận. Nghe nói, dân rỗ hoa yêu rất ác! – Luska vừa nói nỡm như vậy vừa cười khanh khách.
Có dịp về Grêmiatsi Lốc, Agaphôn đã đến gặp ngay Đavưđốp, phàn nàn hậm hực:
- Đồng chí Đavưđốp ạ, đồng chí có cái lối sắp đặt đến là lạ đời! Tống xuống đội của Liubiskin lão Suka, rồi lại tống cho tôi cô ả Luska… Đồng chí cho họ xuống đội để làm gì, để họ phá phách hả? Bữa nào tối khuya, đồng chí hãy xuống đội tôi mà xem. Con Luska đã làm các cậu đội tôi hoá rồ hoá dại ráo cả rồi. Cậu nào nó cũng cười tình, hứa trời hứa đất, và thế là các cu cậu choảng nhau vì nó, như gà chọi vậy. Và đêm đêm chúng nó nhảy nhót đến rung cả đất, rụng cả bánh chè: chúng nó phí hoài cả cuộc đời, không biết tiếc! Khoảnh đất quanh lều như bị chúng nó lấy vồ nện chặt. Chòm sao Kim ngưu tàn rồi mà lán chúng tôi vẫn cứ ầm ầm, như chợ vỡ… Hồi chiến tranh Nga – Đức, tôi bị thương có nằm nhà thương Kharkốp. Để động viên chúng tôi, chị em y tá có dẫn chúng tôi đi xem opêra… Và ở rạp đã diễn ra một cuộc điên loạn kinh khủng: người thì rống lên như bò, kẻ thì nhảy cẫng, kẻ thì kéo đàn như điên! Đàn hát gì mà đến nỗi phải bịt chặt hai lỗ tai lại! Bây giờ ở chỗ chúng tôi cũng rứa: hát gào lên, đàn địch loạn xị, múa may quay cuồng… Như một đám cưới chó vậy! Họ lồng lộn cho đến thanh thiên bạch nhật thế thì ban ngày còn làm lụng được cái gì nữa! Vừa đi vừa ngủ gật, rồi thì lăn kềnh dưới bụng bò mà ngủ… Đồng chí Đavưđốp ạ, hoặc là đồng chí hãy cho con Luska chết dẫm ấy cút đâu khỏi đội tôi, hoặc là đồng chí hãy bảo nó phải đứng đắn, cho ra là một người đàn bà có chồng chứ.
Đavưđốp nổi khùng lên:
- Anh coi tôi là cái gì? Dễ tôi là vú già cho con bé ấy đấy phỏng?... Xéo ngay cho khuất mắt!... Chuyện thối thây gì cũng dẫn xác đến đây là thế nào? .. Dễ tôi phải đi lên lớp cho nó cách ăn ở ý nhị đấy phỏng? Nó làm việc không ra gì thì cứ đuổi cổ nó đi, có thế thôi! Lối đâu như vậy: hơi tí lại chạy lên ban quản trị! “Báo cáo đồng chí Đavưđốp, lưỡi cày gẫy!”, “Báo cáo đồng chí Đavưđốp, con ngựa cái ốm!”. Bây giờ lại đến chuyện này. Một con mụ nó ngứa trôn thì theo anh cũng lại đến tôi đi dạy bảo nó phỏng? Đừng hòng! Cày hỏng à? Mang ra lò rèn! Ngựa ốm á? Đi tìm thú y! Bao giờ các anh mới rèn được tinh thần chủ động? Tôi cứ còn phải làm hộ các anh cho đến bao giờ nữa? Thôi, xéo đi!
Agaphôn ra về, tức Đavưđốp anh ách. Anh ta ra về rồi, Đavưđốp đóng sầm cửa lại, cài then chặt, rồi hút liền một lúc hai điếu thuốc lá.
Câu chuyện Đúpxốp kể đã làm Đavưđốp hậm hực. Anh nổi khùng lên và quát tháo không phải vì các đội trưởng không làm tròn chức trách cứ quấy rầy anh, chuyện lặt vặt gì cũng đến yêu cầu anh giải quyết, mà là vì Luska, theo lời Đúpxốp, “với cậu nào cũng cười tình, hứa trời hứa đất”.
Sau lần anh chạm trán với Luska ở gần trụ sở nông trang, chuyện trò ỡm ờ vài câu với ả, và ả giấu một nụ cười ranh mãnh dưới đôi hàng mi rủ xuống đề nghị anh tìm giúp hộ “một anh chàng nào ế xưng ế xỉa”, rồi sau đó gạ anh lấy ả, Đavưđốp đã thay đổi thái độ với ả lúc nào anh cũng chẳng biết. Thời gian gần đây, càng ngày anh càng thấy mình cứ hay tơ tưởng đến người đàn bà bản chất đĩ thoã và quá đỗi tầm phơ tầm phào ấy. Nếu như trước đây anh nhìn ả bằng con mắt thờ ơ và thương hại pha chút ghê tởm thì bây giờ đây, anh cảm thấy hoàn toàn khác hẳn… Và Đúpxốp đến phàn nàn vớ vẩn về chuyện Luska chỉ là cái cớ đơn thuần bề ngoài cho Đavưđốp văng ra mà thôi.
Anh đã phải lòng Luska, và vào lúc nào chẳng phải, lại đúng vào lúc thời vụ gieo căng thẳng nhất. “Cảnh đi tu”, - như Anđrây Radơmiốtnốp vẫn nói đùa, - mà Đavưđốp đã sống trong suốt một mùa đông chắc hẳn đã là mảnh đất thuận lợi cho cái tình cảm mới nẩy nòi ấy. Và có thể là mùa xuân nữa cũng kích thích trái tim đã chai lại của ông chủ tịch nông trang Grêmiatsi, người chủ tịch gương mẫu, không ai chê trách được điều gì, và đã hoàn thành băng băng mọi cuộc vận động chính trị và sản xuất.
Càng ngày anh càng hay nửa đêm vô cớ tỉnh dậy, giở thuốc ra hút, trán cau lại một cách đau khổ, tai lắng nghe tiếng hót líu lo và tiếng vỗ cánh rộn ràng của hoạ mi. Rồi anh giận dữ đóng sập cánh cửa sổ lại, kéo chăn trùm kín đầu, nằm cho đến sáng bạch không chợp được mắt, đè sấp lên gối bộ ngực nở nang trổ xăm của mình.
Và mùa xuân 1930, một mùa xuân rạo rực và đến sớm, đã đưa về các vườn tược và lùm cây lắm chim hoạ mi đến nỗi tiếng hót vang vang của chúng không những làm nhộn nhạo cả đêm trường thanh vắng mà đến sáng ngày vẫn chẳng chịu lắng đi. Đêm xuân ngắn ngủi không đủ thoả mãn xuân tình của đám hoạ mi kia. “Lũ ôn vật, chúng nó thay nhau hót chắc!”, sáng ra, Đavưđốp lầm bầm như vậy, người mệt rũ sau một đêm đánh vật với cái mất ngủ.
Luska sinh hoạt ở đội hết vụ gieo, nhưng đội vừa gieo xong thì ả đã trở về làng, và ngay tối hôm ấy đến chơi Đavưđốp.
Ăn tối xong, anh đang nằm khoèo trong gian buồng nhỏ của mình đọc báo “Sự thật”. Có tiếng ai ở phòng ngoài khẽ cào cào vào cửa, như tiếng chuột lạo xạo, rồi một giọng nữ nhỏ nhẹ:
- Em vào được không ạ?
- Cứ vào!
Đavưđốp nhảy tót trên giường xuống đất, khoác vội chiếc áo.
Luska bước vào, nhẹ nhàng khép cửa lại. Tấm khăn vuông đen làm khuôn mặt rám gió của ả nom già đi. Những nốt tàn nhang dày li ti hiện lên càng rõ trên đôi má sạm nắng của ả. Nhưng dưới bóng mái khăn vuông úp sụp, đôi mắt ả cười và nom càng long lanh hơn.
- Em đến thăm anh…
- Cô ngồi.
Ả đến, Đavưđốp trong lòng vừa ngạc nhiên vừa mừng. Anh kéo chiếc ghế đẩu, cài khuy áo lại, ngồi xuống tấm phản.
Anh ngồi nín thinh, chờ đợi, ngượng ngịu và trong bụng hơi lo lo. Còn Luska thì thoải mái bước tới bên bàn, kín đáo khép vạt váy lại (cho khỏi nhàu mà), và ngồi xuống.
- Anh chủ tịch nông trang khoẻ chứ?
- Cũng khá.
- Có buồn không?
- Thì giờ đâu, và buồn cái quái gì mới được?
- Thế không nhớ em à?
Đavưđốp, con người không bối rối bao giờ, lúc này đỏ dừ mặt và sa sầm xuống. Luska làm ra vẻ khép nép cụp hai hàng mi xuống, nhưng khoé miệng ả mấp máy một nụ cười không nén được.
- Cô này ăn nói đến hay, - Đavưđốp đáp lại bằng một giọng không lấy gì làm vững dạ lắm.
- Thực anh không buồn à?
- Buồn gì mà buốn! Cô đến có việc gì?
- Có tí việc… Báo chí có gì mới không anh? Cách mạng thế giới nghe ra sao rồi? – Luska chống khuỷu tay lên bàn, làm ra bộ mặt nghiêm trang cho hợp với câu chuyện đang nói. Cứ dường như trên đôi môi kia không hề thoáng bóng cái nụ cười ranh ma vừa rồi.
Đavưđốp lên gân:
- Báo viết thiếu gì chuyện… Cô cần việc gì?
Chuyện trò của họ, hẳn là bà chủ nhà đang rình nghe lỏm đây. Đavưđốp như ngồi trên đống than hồng. Tình thế của anh thật là kẹt, ớn không tả được! Mai bà chủ nhà sẽ đi kể vung tứ linh khắp làng là cô vợ cũ của Maka đêm nào cũng thì thụt đến phòng anh, và thế là đi tong cái tiếng thơm không chút gợn của Đavưđốp! Các mụ chuyên môn ngồi lê đôi mách đứng đầu đường cạnh giếng sẽ đơm ra lắm chuyện, và bà con nông trang viên gặp anh sẽ cười kháy. Radơmiốtnốp sẽ giở giọng châm chọc anh bạn ăn phải bùa mê của cô nàng Luska, rồi lại đến tai huyện, và trên nông hội huyện người ta sẽ lại đặt điều ra, nói: “Hắn để mãi đến mồng mười mới gieo xong là vì gái cứ mò đến nhà hắn luôn. Rõ rành rành hắn lo tiếp gái hơn là lo việc gieo hạt!”. Và không phải vô cớ mà đồng chí bí thư khu uỷ trước khi cho anh em đoàn Hai vạn rưởi về huyện, đã dặn dò: “Về nông thôn, các đồng chí cần phải giữ cho uy tín của giai cấp công nhân, đội tiên phong của cách mạng, được trong như ngọc trắng như ngà. Phải hết sức cảnh giác. Không phải chỉ trong những việc lớn mà thôi đâu, mà ngay cả trong sinh hoạt lặt vặt hàng ngày cũng phải thận trọng. Ở nông thôn anh uống một xu rượu thì chuyện sẽ thành nhậu nhẹt ăn hối lộ một bữa trăm rúp…”.
Đavưđốp thậm chí còn toát mồ hôi hột ra khi thoáng nghĩ đến tất cả những hậu quả của chuyện Luska đến chơi anh và ăn nói dấm dớ với anh. Rõ ràng trước mắt, anh có nguy cơ bị tai tiếng. Luska cứ ngồi đó, và hoàn toàn chẳng để ý gì đến những dằn vặt của Đavưđốp. Và anh chàng, giọng hơi khàn đi vì xúc động, hỏi lại, lần này thì với một vẻ nghiêm nghị:
- Cô đến có việc gì? Nói đi, rồi về đi, tôi không thì giờ đâu ngồi nói chuyện vớ vẩn với cô, thực tế thế!
- Thế anh có nhớ hôm nào anh đã bảo gì em không? Em đã chẳng xin phép anh Maka, nhưng em thừa biết, anh ấy phản đối…
Đavưđốp đứng bật dậy, xua quầy quậy:
- Tôi đang bận! Để khi khác! Để khi khác!
Lúc này anh chỉ muốn lấy tay bịt chặt cái miệng đang nhoẻn nụ cười kia, sao cho ả im đi.
Ả hiểu và khinh khỉnh nheo nheo đôi lông mày:
- Ôi giào, thế mà lại còn… Thôi được. Cho tôi mượn tờ báo, tờ nào hay hay ấy. Ngoài ra thì tôi cũng chả có việc gì khác cần hỏi anh. Xin lỗi đã đến quấy rầy anh…
Ả ra về, và Đavưđốp thở dài nhẹ nhõm. Nhưng một phút sau anh đã ngồi bên bàn, vò đầu bứt tai: “Mình lố bịch không để đâu hết, chán cái mớ đời! Thiên hạ nói gì thì đã quan trọng thế cơ à! Sao, phụ nữ đến chơi mình không được sao? Dễ mình là thầy tu hẳn? Và lôi thôi gì đến ai? Mình thích cô ta, vậy thì mình có thể ngồi nói chuyện gẫu với cô ta được lắm chứ… Miễn sao không ảnh hưởng đến công tác là được rồi, còn chuyện gì gì nữa cũng cần đếch gì! Giờ thì cô ta sẽ chẳng đến nữa đâu, thực tế thế! Mình ăn nói với cô ta thô bỉ quá, và cô ta thừa thấy mình cũng hơi hoảng… Chà! Cha tiên nhân anh, anh thật là thối không tả được!”.
Nhưng anh đã lo hão: Luska hoàn toàn không phải là loại người dễ dàng từ bỏ mưu đồ của mình. Và mưu đồ của ả là chinh phục Đavưđốp. Thực tế thì ả tội gì đem cuộc đời của mình ràng buộc với cuộc đời một gã dân Grêmiatsi Lốc? Để làm gì cơ chứ? Để chết già chết héo bên bếp lò và suốt đời luẩn quẩn ngoài thảo nguyên với con bò đi trước cái cày đi sau hay sao? Mà Đavưđốp lại là một anh chàng giản dị, lưng dài vai rộng, có duyên, khác hẳn với Maka là người đã cằn cỗi đi trong công tác và trong sự chờ đợi cách mạng thế giới, khác hẳn với Chimôphây… Anh ta chỉ có một khuyết nho nhỏ: anh sứt, mà lại sứt ở chỗ lộ liễu nhất, sứt cái răng cửa. Nhưng Luska cũng tự an ủi được ngay về cái khuyết nho nhỏ trong vẻ ngoài của người ả đã chọn. Với kinh nghiệm của cuộc đời còn ngắn ngủi nhưng dạn dày từng trải của mình, ả hiểu rằng trong việc đánh giá một người đàn ông thì cái răng cái tóc không phải là góc con người.
Hôm sau, trời sẩm tối ả lại đến, lần này thì diện ác và điệu bộ càng khêu gợi tợn. Cớ để đến chơi là chuyện báo chí.
- Tôi mang trả anh tờ báo… Mượn nữa có được không? À, anh có quyển sách nào đọc được nhỉ? Tôi muốn mượn quyển hay hay, về chuyện yêu đương ấy.
- Báo đấy, nhưng sách thì không có, tôi đâu phải thủ thư.
Luska chẳng đợi mời, ngồi xuống và nghiêm trang gợi nói đến chuyện gieo hạt ở đội ba, chuyện những thiếu sót ả phát hiện thấy ở trại chăn nuôi bò sữa mới thành lập tại Grêmiatsi Lốc. Với một vẻ ngây thơ thật thà, ả tìm cách ăn giọng với Đavưđốp, nói về những chuyện ả cảm thấy nó là cuộc sống của anh.
Đavưđốp lúc đầu còn nghi nghi hoặc hoặc ngồi im nghe ả nói. Nhưng rồi anh bốc lên theo câu chuyện, kể lể với ả những dự định của mình về tổ chức trại bò sữa, tiện mồm nói sang những thành tựu mới ở nước ngoài trong kỹ thuật chế biến sản phẩm sữa. Và cuối cùng nói bằng một giọng có chút nào ngao ngán:
- Ta cần một món tiền khá lớn. Ta phải mua một số bò cái tơ thuộc giống cho nhiều sữa, phải tậu một con bò đực giống… Tất cả những cái đó cần thực hiện càng sớm càng hay. Vì việc nuôi bò sữa làm được tốt sẽ đem lại thu nhập lớn! Chính là bằng cách này mà nông trang sẽ giải quyết được vấn đề quỹ. Thế mà hiện tại nông trang ta có cái gì? Độc một chiếc máy đánh kem cũ rích không đáng ba xu, không tài thánh nào thanh toán được lứa sữa xuân. Biđông cũng chẳng có lấy một chiếc, và sữa thì cứ đổ vào bình theo lối ngày xưa. Làm ăn thế thì còn ra cái gì? Đấy, cô bảo là sữa bị chua. Vậy vì sao nó chua? Chắc là vì họ trút sữa vào bình bẩn chứ sao.
- Các bà ấy sấy bình không khô, do đó sữa bị chua.
- Tôi cũng bảo thế: đồ đựng không sạch. Cô phụ trách lấy việc này đi, và chấn chỉnh nó lại. Cần làm thế nào, cô cứ làm, ban quản trị sẽ giúp cô. Còn cứ cái kiểu này thì sẽ ra sao? Sữa sẽ hỏng mãi nếu không kiểm tra cẩn thận đồ đựng, nếu chị em vắt sữa cứ vắt sữa theo kiểu tôi thấy hôm nọ: ngồi dưới bụng bò, vú bò chẳng rửa ráy gì cả, đầu vú dính toàn những bùn, những phân… và chính tay người vắt cũng chẳng rửa. Có trời biết, trước khi vắt sữa các bà ấy đã sờ mó cái gì mà ngồi dưới bụng bò tay bẩn đến thế. Tôi không có thì giờ lo đến việc này. Nhưng thế nào tôi cũng phải lo! Còn cô, cái thì giờ đánh phấn bôi son làm đỏm giá cô để mà chăm lo cái trại sữa ấy thì có hơn không nhỉ? Chúng tôi sẽ chỉ định cô là phụ trách, cử cô đi học, cô sẽ học cho biết cách quản lý công việc một cách khoa học, và sẽ trở thành một nữ cán bộ chuyên môn.
Luska thở dài:
- Tôi chịu thôi, cứ để các bà ấy làm. Chẳng có tôi thì trại cũng chẳng thiếu người để chấn chỉnh. Mà tôi cũng chẳng thích làm phụ trách. Và cũng chẳng thích đi học. Lấn bấn lắm. Tôi muốn làm việc nhẹ, sống cho thoải mái vung vinh, tội gì!.. Ai ngốc thì mới ham công tiếc việc.
- Cô lại ăn nói linh tinh rồi! – Đavưđốp hậm hực nói, nhưng cũng chẳng thuyết phục nữa làm gì.
Lát sau Luska đứng dậy ra về. Đavưđốp tiễn chân ả. Họ đi bên nhau trong ngõ tối, chẳng nói chẳng rằng một quãng dài, rồi Luska đoán biết được một cách nhạy bén lạ lùng tất cả những điều bận tâm của Đavưđốp, hỏi:
- Hôm nay anh có ra xem lúa Kuban không?
- Có.
- Lúa thế nào?
- Xấu! Nếu trong tuần này không mưa… tôi e sẽ hỏng mất. Và mả mẹ nó, cô có biết rồi sẽ ra cái nông nỗi nào không? Mấy bố già bữa nọ đến xin phép tôi cho làm lễ cầu đảo, sẽ tha hồ đắc chí, thực tế thế! Họ sẽ bảo: “Đấy, hắn không cho làm lễ, thế là Chúa phạt, không làm mưa!”. Ông Chúa của các bố ấy thì hoàn toàn bất lực trong chuyện này một khi phong vũ biểu vẫn đứng chết ở điểm “thời tiết bất thường”. Nhưng họ thì cứ bám khư khư lấy cái mê tín hủ lậu của họ. Khổ thật cơ, thực tế thế! Và chính bọn tôi phần nào cũng có sai… Đáng lẽ phải mặc mẹ nó những ruông dưa bở và một phần ruộng mầu đấy để gieo lúa mạch cho được sớm thì mới phải. Sai là ở chỗ ấy đấy ! Về chuyện lúa “mêliônôpux” cũng như vậy: tôi đã chứng minh rõ ràng cho cái cậu ba bị Liubiskin ấy thấy rằng theo những thông số nông học thì giống lúa ấy thích hợp với điều kiện hoàn cảnh của ta nhất…
Đavưđốp lại bốc lên và, được gãi đúng chỗ ngứa, đáng lẽ anh còn nói nhiều, nói sôi nổi, nhưng Luska ngắt lời anh, sốt ruột ra mặt:
- Thôi đi, anh ơi, thôi cái chuyện lúa má ấy đi! Ngồi xuống kia chơi một tí còn thích hơn, - và ả trỏ bờ một con rãnh mờ mờ xanh dưới ánh trăng.
Họ đi tới. Luska khép vạt váy lại, đề nghị một cách thiết thực:
- Hay là anh trải cái áo ngoài của anh ra, không em sợ nhàu mất cái váy. Váy diện của em đấy…
Và khi họ ngồi bên nhau trên tấm áo trải rộng, ả ghé sát vào bộ mặt thoáng vẻ giễu cợt của Đavưđốp gương mặt trở thành nghiêm trang và xinh đẹp lạ thường của ả, và nói:
- Chuyện lúa má và chuyện nông trang thế là đủ rồi! Bây giờ chả nên nói chuyện ấy nữa… Anh có ngửi thấy mùi lá non trên cây dương kia không?...
… Thế là tiêu tan hết mọi sự do dự của Đavưđốp trong lòng vừa chết mê chết mệt Luska vừa sợ đi lại với ả sẽ mất uy tín…
Một lát sau, khi anh đứng dậy và dưới chân anh mấy cục đất sét khô lạo xạo lăn xuống rãnh, Luska vẫn nằm ngửa đo, hai tay dang rộng, mệt mỏi lim dim mắt. Họ lẳng lặng một phút. Rồi bỗng ả ngồi phắt dậy, hai tay bó gối, toàn thân rung lên trong một trận cười không ra tiếng. Ả cười như bị ai cù.
Đavưđốp hoang mang đẫy, tự ái hỏi;
- Em… sao thế?
Nhưng Luska đã nín bặt một cách cũng đột ngột như thế, ruỗi thẳng chân ra, rồi lấy tay xoa hai bên hông, xoa bụng, mơ màng nói, giọng hơi khản lại và sung sướng:
- Lúc này em thấy người cứ nhẹ tênh tênh!...
- Chắp cánh vào khéo bay được đấy nhỉ? – Đavưđốp nói kháy.
- Khô-ô-ô-ông. Anh kháy em… làm quái gì. Lúc này bụng em tự nhiên cứ nhẹ bỗng… rông rỗng thế nào ấy, nhẹ như bấc. Vì thế mà em cười. Thế dễ thường em phải khóc sao, vớ vẩn anh lắm! Ngồi xuống đây đã, nhẩy cẫng lên đi đâu?
Đavưđốp miễn cưỡng ngồi xuống. “Giải quyết ra sao với cô nàng bâygiờ đây? Đến phải chính thức hoá cách nào đó, kẻo bất tiện, cả đối với Maka, cả đối với chung… Đang bình yên vô sự, tự nhiên mua thêm chuyện!” - anh nghĩ bụng và đưa mắt liếc nhìn gương mặt Luska biêng biếc ánh trăng xanh.
Ả uyển chuyển đứng dậy, tay không đụng đến đất, và đôi mắt lim dim, mỉm cười hỏi:
- Em xinh không? Hả?
- Biết nói thế nào…- Đavưđốp trả lời lơ mơ, ôm quàng lấy đôi vai mảnh dẻ của Luska.
Tập I - Chương 40
Hôm sau, trận mưa tầm tã trút xuống Grêmiatsi Lốc, Iakốp Lukits lên ngựa ra khu Rừng sồi đỏ. Lão phải thân chinh đi đánh dấu những cây sồi cần ngả, vì ngày mai gần như toàn đội sẽ phải vào rừng đẵn gỗ chuẩn bị đóng kè.
Iakốp Lukits ra đi từ sáng. Con ngựa ve vẩy cái đuôi đã buộc cẩn thận, bước đi lững thững. Hai chân trước bị long móng sắt của nó cứ xoạc ra trên con đường bùn nhẫy trơn tuột. Iakốp Lukits cũng chẳng lần nào giơ roi lên: lão chẳng đi đâu mà vội. Lão hút thuốc phì phèo, thả cương thõng xuống mỏ yên, đưa mắt ngắm nhìn thảo nguyên trải ra xung quanh Grêmiatsi Lốc, ở đó mỗi cái hố, mỗi khe rãnh, mỗi hang cầy cáo đều quen thuộc và thân thiết với lão từ thuở còn thơ. Lão ngắm nhìn những luống cày đất tơi no nước, nhìn những ngọn lúa mưa đã rửa sạch sẽ tinh tươm xối ngả xuống, và nghĩ bụng, trong lòng hậm hực cay cú: “Thằng sứt nói mưa, thế mà mưa thật! Lúa Kuban sẽ tốt! Cứ như Chúa cũng ủng hộ cái chính quyền khốn kiếp này không bằng! Trước kia chỉ toàn là thất bát với mất mùa, thế mà từ năm hăm mốt đến nay đúng là lúa cứ trĩu bông! Trời đất đứng cả về phe Chính quyền xôviết, vậy thì chờ đến bao giờ cho nó mòn mỏi rệu rã được? Chà, nếu đồng minh không giúp ta lật nhào bọn cộng sản, một mình ta thì ta cũng đến khoanh tay thôi. Không một cha Pôlốptxép nào đứng vững nổi, dù cho có thông minh tài giỏi thế nào chăng nữa. Sức mạnh cứ như nước lũ, đương đầu sao nổi? Lại thêm nỗi dân thì đốn mạt, tồi tệ đi… Đứa nọ tố giác đứa kia, cái đếch gì cũng báo cáo. Quân chó đẻ, nó chỉ lo thân nó, còn sống chết mặc bay. Ngán cho cái thời buổi! Và một hai năm nữa sẽ ra sao, có lẽ đến trời cũng chẳng biết… Còn mình ấy à, xem ra mình đã sinh vào giờ lành tháng tốt đấy, chứ nếu không thì việc mình dính vào Pôlốptxép đã chẳng kết thúc êm đẹp như thế đâu. Rồi lại cứ như cá chui vào lờ! Thôi thì cũng ơn Chúa là mọi việc đã xong xuôi yên ổn, trơn tru. Ta hẵng cứ đợi xem rồi sẽ xoay vần ra sao. Lần này chưa đoạn tuyệt được với chính quyền xôviết, biết đâu lần sau chẳng may mắn hơn!”.
Trên những ngọn cỏ sum suê dưới ánh nắng và trên những mầm lúa đã cứng cáp, hạt sương rung rinh như hạt ngọc xâu chuỗi. Gió đằng Tây lay động, và hạt sương rời cành, long lanh màu ngũ sắc, rơi xuống mặt đất thân yêu, dịu hiền và ngát hơi mưa.
Nước mưa chưa thấm hết xuống đất còn đọng vũng ở những vết xe trên đường, nhưng trên đầu Grêmiatsi Lốc đã bốc lên một làn sương mai hồng hồng, cao hơn ngọn cây dương. Và trên nền trời xanh đục, mảnh trăng lưỡi liềm bạc, nom như được nước mưa rửa sạch, đang mờ dần trong ánh bình minh đến bất chợt.
Trăng lưỡi liềm nằm nghiêng nghiêng, cong vút mảnh khảnh hứa hẹn những trận mưa lắm nước, và Iakốp Lukits nhìn trăng, trong bụng dứt khoát không còn một chút nghi ngờ: “Được mùa!”.
Gần trưa thì lão tới rừng sồi. Lão buộc ngựa cho nó ăn cỏ, rồi rút chiếc rìu thợ mộc nhỏ cài ở thắt lưng ra, đi đánh dấu những cây sồi ở khoảnh kiểm lâm dành cho nông trang Grêmiatsi.
Lão đã đánh dấu được sáu cây sồi ở bìa rừng và đi tiếp sang cây sau. Một cây sồi to, cao như cái cột cờ và thẳng tắp hiếm thấy, kiêu hãnh vươn mình trên đám cây che thấp loè xoè. Cao tít trên ngọn cây, một tổ quạ chấm một nét đen khắc khổ giữa vòm lá xanh sẫm bóng loáng. Cây sồi thân to như vậy thì có thể đoán là cũng trạc tuổi Iakốp Lukits. Lão nhổ một bãi vào lòng bàn tay, đứng nhìn cái cây xấu số, trong lòng bùi ngùi thương hại.
Lão đẽo một miếng, lấy bút chì tìm ghi lên quãng thân cây đã lột vỏ hai chữ “G.K” (*), đưa chân đá đi mảnh vỏ cây âm ẩm ứa nhựa như ứa máu, rồi ngồi xuống giở thuốc ra hút.
“Anh bạn già ơi, anh sống thế là đã bao nhiêu năm rồi nhỉ! Đã chẳng có ai cầm đầu cưỡi cổ được anh, và bây giờ thế là sắp đến lúc anh bạn phải chết. Người ta sẽ quật anh xuống, lột vỏ anh ra, chặt trụi bộ cành lá xum xuê của anh, rồi lôi anh xuống đầm, chôn chân anh xuống làm kè đắp đập!... – Iakốp Lukits ngửa đầu nhìn lên ngọn cao rung rinh của cây sồi, nghĩ bụng. – Anh bạn sẽ đứng chết dí dưới đầm nông trang cho đến lúc toàn thân anh mục rữa. Rồi nước lũ xuân sẽ cuốn anh đi, tới quãng nào đó ngoài cửa khe…, và thế là đời anh bạn tàn!”.
Nghĩ đến đấy, Iakốp Lukits bỗng có một cảm giác đau đớn, buồn và lo âu thế nào đó, khó hiểu. Lão áy náy băn khoăn. “Hay là tha chết cho anh bạn, không chặt? Nông trang thì thiếu gì cây… - Và trong lòng nhẹ hẳn đi, lão hớn hở quyết định: - Thôi, anh bạn cứ sống đi! Cứ mọc cao lên cho đẹp! Sống thế mới sướng chứ! Chẳng thuế má, chẳng đảm phụ, chẳng phải vào nông trang… Anh bạn cứ việc sống như Chúa đã an bài!”.
Lão lật đật đứng dậy, bốc một nắm bùn sét, trát lại cẩn thận quãng lão đã bổ ra đánh dấu. Lão bước đi khỏi khoảnh rừng, và yên tâm…
Iakốp Lukits bồi hồi đi đánh dấu tất cả là sáu mươi bảy cây, rồi lên ngựa, đi men theo bìa rừng. Ở cửa rừng, có tiếng ai réo lão:
- Bác Iakốp Lukits ơi, dừng lại tí!
Rồi từ sau bụi sơn trà nhô ra một người đội mũ lông đen, mặc chiếc áo bludông dày bằng dạ nhà binh cởi phanh khuy. Mặt người ấy đen sạm, da mặt căng lên trên đôi gò má gầy, mắt trũng sâu, và trên đôi môi nhợt nứt nẻ của hắn bộ ria mép lông măng nổi lên đen đen, nom như vẽ bằng than.
- Không nhận ra cháu à?
Tên ấy trật mũ ra; hắn nhớn nhác nhìn quanh, bước tới chỗ trống, và đến lúc ấy Iakốp Lukits mới nhận ra thằng Chimôphây, con lão Mũi toác.
- Mày ở đâu ra thế? – lão hỏi, sửng sốt trước cuộc gặp gỡ bất ngờ, trước tất cả cái bộ dạng của thằng Chimôphây nom gầy kinh khủng, khác đến nỗi không nhận ra nữa.
- Ở chỗ một đi là không trở về… Ở trại đi đày… Kôtlax.
- Trốn được à?
- Vâng, trốn… Có mang gì ăn đấy không, Iakốp Lukits? Có mẩu bánh nào không?
- Có!
- Cho cháu xin, lạy Chúa! Bốn ngày đêm nay rồi ăn toàn quả nạc thối…
Và cổ họng hắn giần giật như đang nuốt.
Môi hắn run run, mắt hắn long sòng sọc như mắt chó sói khi thấy bàn tay Iakốp Lukits rút trong bụng ra một góc bánh mì.
Hắn sà vào miếng bánh như người chết đói, làm cho Iakốp Lukits nhìn thấy cũng phải nghẹn thở. Hắn lấy răng giằng cái cùi bánh cháy đã khô cứng, đưa mấy ngón tay co quắp xé ruột bánh, và nuốt chửng, gần như không nhai, cái hầu nhọn hoắt ở cổ đưa lên đưa xuống một cách khó khăn vất vả. Và chỉ đến khi nuốt trôi miếng bánh cuối cùng, vừa nuốt vừa nghẹn, hắn mới ngẩng lên nhìn Iakốp Lukits bằng đôi mắt lờ đờ say đã mất đâu cái ánh long lanh mừng rỡ ban nãy.
Iakốp Lukits ái ngại nói:
- Cậu đói lắm nhỉ…
- Cháu đã bảo là năm hôm nay đói quá, lúc thì cháu ăn quả nạc thối, lúc thì kiếm quả dâu héo khô từ năm ngoái… Rạc người đi.
- Nhưng làm thế nào mà mò được về đến đây?
Chimôphây mệt nhọc đáp:
- Cháu đi bộ trên ga về. Đi đêm.
Hắn tái mét đi trông thấy, dường như còn bao nhiêu sức lực hắn đã dốc hết vào việc ăn vừa rồi. Một cơn nấc không kìm được làm người hắn nẩy bắn lên, mặt cau lại đau đớn.
- Thế thầy còn sống không? Cả nhà thế nào, khoẻ chứ? – Iakốp Lukits hỏi tiếp. Lão vẫn ngồi trên lưng ngựa, và chốc chốc lại đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh.
- Thầy cháu sưng phổi chết rồi, mẹ và con em cháu thì vẫn đấy. Làng xóm thế nào hả bác? Luska vẫn thường chứ?
- Nó bỏ chồng rồi, cháu ạ…
Chimôphây tỉnh lên;
- Cô ấy bây giờ ở đâu?
- Ở nhà bà cô, tự kiếm lấy ăn.
- Này, bác Iakốp ơi, thế này bác nhá… Về đến làng, bác hộ cháu, bảo cô ấy mang ngay hôm nay cái gì ăn đến đây cho cháu. Cháu lả lắm rồi, không lê được nữa, phải nằm nghỉ, lấy lại tí sức đã. Một trăm bảy mươi dặm, mà lại đi đêm, và đi đêm nơi đất lạ thì bác biết đi như thế nào không? Cứ nhắm mắt đi mò… Bảo cô ấy thế nào cũng mang đến. Khoẻ lên một tí, cháu sẽ lần về làng… Nhớ quê hương làng xóm muốn chết!
Và hắn mỉm cười ngượng nghịu. Iakốp Lukits không lấy gì làm thú vị về cuộc gặp gỡ này, dò hỏi;
- Thế rồi cậu lấy gì mà sống?
Chimôphây nét mặt rắn đanh lại, đáp;
- Lấy gì à? Cháu bây giờ đã lâm vào cảnh một con chó sói. Cháu nghỉ lấy sức một tí, rồi đêm sẽ về làng, đào lấy khẩu súng… Cháu chôn nó trong kho thóc… Rồi cháu sẽ bắt đầu làm ăn! Cháu chỉ có độc một con đường. Chúng định bắn giết cháu, cháu sẽ bắn giết lại chúng nó. Cháu sẽ cho một thằng nào đó xơi kẹo đồng… Chậc, cháu sẽ ở rừng sồi hết hè này cho đến sang thu, bắt đầu băng tuyết cháu sẽ tếch sang Kuban, hoặc đi đâu đó. Gầm trời thênh thang, và những người như cháu thì thiếu giống, chẳng phải chỉ một vài trăm mà thôi đâu.
Iakốp Lukits đã nhiều lần để ý thấy Luska chạy đến nhà Đavưđốp, ngập ngừng báo cho Chimôphây:
- Con Luska, con vợ thằng Maka bây giờ có vẻ bám thằng chủ tịch nông trang.
Chimôphây chui vào một bụi cây nằm. Một cơn đau dữ dội ở quãng dạ dày vật hắn xuống. Nhưng hắn vẫn nói léo nhéo, mặc dầu cứ ngắt từng câu:
- Đavưđốp, thằng chó đểu ấy sẽ là thằng đầu tiên… Cho nó về chầu trời… Luska vẫn chung tình với cháu… Tình xưa nghĩa cũ quên sao được… Đâu phải chuyện sớm nắng chiều mưa… Cháu vẫn có cách đốt cháy được trái tim cô ta… Lòng cô ta chưa chai lại đâu, cháu chắc chắn… Ối bác ơi, miếng bánh mì của bác giết cháu… bụng cháu đau như xé... Bác bảo hộ Luska thế… mang bánh mì và thịt mỡ cho cháu… Nhiều bánh vào!
Iakốp Lukits báo cho Chimôphây đề phòng mai người ta sẽ bắt đầu vào đẵn cây ở cánh rừng sồi này. Rời rừng ra về, lão đi tới khu đồng đội hai, thăm khoảnh gieo lúa Kuban. Trên toàn bộ diện tích đất cày mới đây còn đen ngòm màu than, mầm non của lúa rốt cuộc đã vươn lên, mơn mởn như một tấm thảm xanh…
Tối mịt Iakốp Lukits mới về làng. Từ chuồng ngựa nông trang đi bách bộ về nhà, lão vẫn không trút được cái ấn tượng nặng nề đã đeo đẳng lão suốt ngày hôm nay về cuộc gặp gỡ thằng Chimôphây. Và ở nhà lão, một chuyện khó chịu khác còn cay đắng hơn hàng trăm lần đang chờ lão…
Lão vừa mới bước vào tới nhà ngoài thì cô con dâu đã từ trong bếp chạy bổ ra, thì thào báo tin:
- Thày ơi, có khách…
- Ai thế?...
- Ông Pôlốptxép và cái ông… ông chột. Họ đến lúc mới xẩm tối… hai mẹ con đang vắt sữa bò… Các ông ấy đang ngồi trong phòng xép. Ông Pôlốptxép sặc mùi rượu, còn cái ông kia, thật chả hiểu thế nào… Cả hai rách tả tơi, đến phát khiếp! Rận nhung nhúc… Nom thấy bò lổm ngổm trên quần áo!
… Trong phòng nghe có tiếng chuyện trò; Liachépxki vừa ho húng hắng vừa nói giọng đay nghiến, giễu cợt:
- … Tất nhiên rồi! Ngài là ai, hả thưa ngài? Tôi xin hỏi ngài thế, thưa ngài Pôlốptxép đáng kính. Và tôi cũng xin nói ngài rõ ngài là ai… Có được không ạ? Xin phép ngài, ngài là một nhà ái quốc không tổ quốc, một ông tướng không quân, và nếu ngài thấy so sánh như thế cao siêu và trừu tượng quá thì ngài là một dân cờ gian bạc lận không xu dính túi.
Nghe tiếng nói ồm ồm của Pôlốptxép cất lên, Iakốp Lukits rụng rời, đổ ngả lưng vào tường, hai tay ôm lấy đầu…
Trò xưa lại tái diễn.
---------------------------------
(*) G.K. – Hai chữ đầu của “Nông trang Grêmiatsi” viết bằng tiếng Nga. – ND.
Nguồn: http://tusach.mobi/