Tập II - Chương 17
Ít lâu nay, - vả lại xưa nay bao giờ chẳng thế - bác Suka quả thực không may tí nào. Nhưng riêng cái ngày hôm nay thì dù là chuyện to hay chuyện nhỏ bác toàn gặp những chuyện xúi quẩy, tai vạ nữa là khác, đến nỗi về cuối ngày, chán đời trước một lô xúc xích những tai bay vạ gió nó trút xuống đầu bác, bác đâm ra càng mê tín hơn bao giờ hết… Không, lẽ ra bác không nên hấp tấp nhận lời Đavưđốp mà đánh xe lên phố như thế, khi mà sáng nay đã có những điềm rõ ràng là gở…
Lái xe từ sân trụ sở ra, bác Suka cho ngựa lững thững bước một qua được đúng hai phố ngang thì dừng xe lại giữa đường, và cứ ngồi nguyên trên xe như thế, bác ủ rũ cúi đầu, tư lự… Quả là bác có điều phải trầm ngâm suy nghĩ: "Lúc sắp sáng mình nằm mê thấy một con sói đen lang trắng nó đuổi theo mình. Tại sao lại là một con lang? Và tại sao nó lại nhè mình mà đuổi? Cứ làm như ngoài mình ra thì trần gian không có lấy một người nào khác nữa vậy! Ấy giá như là nó đuổi theo một anh nào trẻ trẻ một tí, chân cẳng khoẻ, còn mình cứ đứng ngoài mà nhìn thì cũng hay đấy, nhưng cái số mình là ngay cả nằm mê cũng cứ phải è cổ ra ăn đòn thay cho xiên hạ! Và những cái trò ấy đối với mình thật là chả được cái tích sự gì cả. Tỉnh dậy tim cứ đập thình thình, chỉ chực nhảy ra ngoài, nằm mê thế thì sướng cái nỗi gì, tiên sư nó! Vả lại còn cái nỗi là tại sao con sói ấy lại đen lang trắng, mà không xám như mọi con sói khác? May mắn gì cái chuyện ấy! Rành rành là chẳng may mắn gì cả. Điềm gỡ toét đi rồi, thành thử đi hôm nay thế nào cũng gặp chuyện thối tha gì đây, không thoát được. Và thực tế thì thế nào? Tìm mãi không thấy cái mũ, rồi lại đến cái túi thuốc, rồi lại đến cái áo dipun… Những cái đó là điềm gở hết sức… Lẽ ra mình không nên nghe Đavưđốp, không đi đâu sất!". Bác Suka buồn rầu nghĩ như vậy và lơ đãng nhìn con đường làng vắng tanh vắng ngắt, nhìn những con bê lông đủ màu đang nằm ẩn trong bóng râm các hàng rào, nhìn đám chim sẻ đang quần nhau trên mặt đường bụi bậm.
Bác đã dứt khoát có ý định quay trở về, nhưng chợt nhớ lại một cuộc va chạm mới đây với Đavưđốp, bèn thay đổi ý định. Lần ấy, cũng y hệt hôm nay đây, gặp những điềm gở đáng ngại, bác đã từ chối phắt, không chịu đi xuống đội một, vin cớ là đêm qua chiêm bao thấy một cơn mộng dữ. Và thế là đôi mắt Đavưđốp thường ngày hiền thế, dịu dàng nữa là khác, bỗng tối sầm lại, nom lạnh và sắc như gai. Bác Suka phát hoảng lên, chớp chớp mắt van lơn nói: "Anh Xêmiôn đáng thương ơi! Anh hãy bỏ những cái gai kia trong mắt anh đi! Mắt anh tự nhiên sao nom dữ và sắc như mắt con chó xích vậy! Mà anh biết rồi đấy, lão là chúa ghét cái giống sâu bọ ghê tởm ấy mà thường bị người ta xích lại và hay xồ vào cắn những người tử tế. Hai chúng mình lủng củng với nhau làm quái gì nhỉ? Nào, đi thì đi, nếu như anh đã cương quyết chống lại như thế. Có điều là nếu dọc đường gặp phải chuyện gì thì lão không chịu trách nhiệm đâu đấy!".
Đavưđốp nghe bác nói xong, cười ha hả, và lập tức đôi mắt anh lại trở lại như cũ, hiền và hóm hỉnh. Anh đưa đôi bàn tay nặng như cái cùm vỗ vào tấm lưng khô ngẳng và kêu bồm bộp của bác Suka và nói: "Thế mới gọi là biết ăn nói chứ, thực tế thế! Ta đi thôi, ông ơi, tôi xin đảm bảo sẽ trả lại ông nguyên xi cho bà lão, còn về tôi thì ông khỏi lo".
Nhớ lại chuyện ấy, bác Suka nhoẻn miệng cười, không do dự gì nữa giật cương thúc ngựa chạy: "Nào, lên huyện! Thây cha mấy cái điềm gở ấy, và nếu xảy ra chuyện gì thì mặc cho Đavưđốp chịu trách nhiệm. Chứ lão thì chả dại gì mà lại đi nhận trách nhiệm về những chuyện thối tha lão có thể gặp phải dọc đường! Vả lại anh Đavưđốp đối với mình cũng tốt, chả nên làm cho anh ta bực mình".
Sau bữa nấu ăn sáng, những bếp lò vẫn còn toả lên trên xóm làng một làn khói hăng hắc của than lửa phân khô; gió nhẹ lùa đi trên đường mùi hương lờn lợt của cây rau lê đang độ ra hoa và từ trong chuồng bò mà bác Suka lái xe đi qua phả ra cái mùi phân bò lẫn với mùi sữa tươi mà bác Suka đã quen lắm từ thuở còn bé tí. Hấp háy đôi mắt cận thị, bác Suka quen tay vuốt vuốt bộ râu dê rối bù, đưa mắt vòng quanh ngắm nhìn quang cảnh mộc mạc của thôn xóm biết bao thân tình đối với bác; một lần bác rũ cơn uể oải, thậm chí còn vung roi xua cái bọn chim sẻ đang quẩn dưới bánh xe bác mà ẩu nhau chí choé bậy. Nhưng khi xe đi qua cửa nhà Anchíp Gráts thì có cái mùi bánh mì mới nướng, cái mùi cháy sém rất hấp dẫn của lá bắp cải mà các bà nội trợ Grêmiatsi thường lót bánh đặt vào lò, xộc vào mũi lão. Và đến lúc ấy bác mới sực nhớ ra rằng từ trưa hôm qua bác chưa có miếng gì lót bụng. Bác cảm thấy đói cào đói cấu đến nỗi nước bọt lập tức ứa ra đầy cái miệng trụi hết răng của bác và dạ dày bác đau quặn.
Quay ngắt vào cái ngõ, bác đánh xe trở về nhà, định bụng kiếm cái gì lót dạ đã rồi mới lên huyện. Từ xa bác đã để ý thấy ống khói nhà bác chả có tí khói nào toả ra; và mìm cười hể hả, bác nghĩ bụng: "Bà lão nhà mình đã bếp núc xong rồi rồi đây, bây giờ chắc đang kềnh cang nằm nghỉ. Từ ngày về ở với lão, bà ấy sống thật cứ như bà quận chúa vậy, vô lo vô nghĩ…".
Bác Suka chả cần phải cái gì nhiều nhặn lắm để có thể chuyển ngay tắp lự từ một tâm trạng buồn rầu chán ngán sang một trạng thái phấn khởi hể hả. Cái tinh thần bác vẫn bồng bột như tính trẻ con thế đấy. Hững hờ lắc lắc dây cương, bác lại miên man nghĩ: "Nhưng nhờ đâu mà bà ấy lại có thể sống như con chim trời thế được? Rõ ràng là nhờ lão! Hồi mùa đông lão thịt con bò cái tơ thật là đúng quá, lạy Chúa chứng giám, rất chi là đúng! Bây giờ bò chẳng còn nữa, bà nhà lão tha hồ vung vinh nhàn nhã! Bếp núc xong là kềnh cang luôn. Chứ nếu không thì con bò cái tơ đã thành bò sữa, và xin mời bà cứ dậy cho từ bảnh mắt, đâm đầu vào vắt sữa cái con khốn kiếp ấy, rồi dắt nó đi nhập đàn, nhưng đến trưa nó động cỡn lên, rồi bị mòng cắn nó lại lẻn về nhà, và thế là lại phải dắt nó đi. Rồi lại phải lo cái ăn cho nó mùa đông, rồi lại phải cọ cho nó cái chuồng, rồi lại phải kiếm cói kiếm rạ lợp cho nó cái mái… Trăm thứ tội nợ! Lại nói sang chuyện cừu: lão rũ đi hết cũng là rất phải! Cái giống tội giống nợ ấy, thả nó đi ăn là bụng cứ lo ngay ngáy: ngộ nhỡ nó lạc đàn, ngộ nhỡ chó sói cõng đi mất? Lão chả tội gì để đầu óc bị căng thẳng vì cái giống bẩn thỉu ấy nữa, một cuộc đời dài đằng đẵng của lão căng thẳng như thế là đã quá đủ rồi, cái đầu óc lão bây giờ nó tã lắm rồi, như chiếc bít tất rách vậy. Lợn lão cũng chẳng nuôi nữa, thế cũng là rất phải! Lão xin hỏi: con lợn thì được cái tích sự mẹ gì cho lão? Cái sự trước hết là thịt mỡ mà lão cứ chén đẫy vào thì y như rằng bụng đau quặn, thứ nữa là bây giờ lão biết lấy gì mà vỗ nó khi cái thùng bột của lão chỉ còn được độ hai vốc nắm tay? Còn đến bây giờ thì khéo nó đói nó kêu la làm mình rối ruột rối gan mất… Và con lợn là cái giống yểu tướng: hết toi dịch lại đến đủ các thứ bệnh giun sán. Rước cái của ấy về thì chỉ có nơm nớp chẳng nay toi thì mai toi. Thêm nữa cái mùi nó hôi thối khắp nhà, chịu sao nổi. Mà không có nó thì xung quanh không khí trong lành, thơm mùi cỏ này, thơm mùi rau quả ngoài vườn này, rồi cả thứ cây dại nữa. Cái tính lão lại cứ thích không khí trong lành! Thế thì lợn bột, hay lợn choai đi chăng nữa, cũng cho chết mẹ nó đi, để khỏi khổ cái lỗ mũi lão! Hai ả gà mái sạch sẽ đi tha thẩn ngoài sân cùng với một chú gà sống nom tươm tươm một tí, về phương diện gia súc thế là đủ để hai ông bà vui cho đến ngày về chầu tổ. Chuyện làm giàu xin nhường cho cánh trẻ, chứ cánh già chúng mình thì thiết gì tích của. Mà anh Maka cũng đồng ý với lão như vậy, anh ấy bảo: "Này, ông bây giờ chính cống là giai cấp vô sản rồi đấy, ông quẳng cha nó cái tiểu tư hữu đi thế là rất đúng". Nhưng nghe anh ấy nói thế, lão không khỏi thở dài từ ruột gan thở ra mà đáp: "Kể ra được liệt vào giai cấp vô sản thì cũng thích đấy, có điều là suốt đời chỉ chén độc có bắp cải luộc và uống nước lã thì lão chả đồng ý tí nào. Cầu Chúa phù hộ cho giai cấp vô sản, nhưng nếu công điểm mà không đem lại cho lão được tí thịt, hoặc tí mỡ chẳng hạn, để thả vào nồi xúp thì đến mùa đông này, lão cũng đến phải nằm thẳng cẳng nhắm mắt xuôi tay thôi. Lúc ấy được cái tiếng là giai cấp vô sản thì ăn bàn ăn giải quái gì nhỉ? Đợi đến sang thu lão xem công điểm có được khơ khớ không, nếu chẳng ra gì thì lão cứ xin là quay đầu trở lại ngay với cái tiểu tư hữu".
Bác Suka cau mày lại đăm chiêu, và lần này thì nói ra miệng:
- Sống mà cứ khốn khổ khốn nạn thế này thì đúng là tội nợ! Ta đang xây dựng đời sống mới đây, nhưng có những cái chả hiểu ra là thế nào cả, rối như mớ bòng bong…
Bác buộc ngựa vào hàng rào, đẩy cái cánh cổng xiêu vẹo, rồi thong thả, chững chạc, đúng như một ông chủ, bác đi theo lối mòn rậm rạp cây mã đề, bước tới hè.
Trong bếp tối nhá nhem, phòng giữa thì cửa đóng kín mít. Bác Suka đặt xuống tấm ghế dài cái mũ cáu bẩn, bẹp dúm như một chiếc bánh tráng, và cái roi mà nhờ con Tơrôphim đã trở thành vật bất ly thân của bác. Bác nhìn quanh, rồi réo lên đánh tiếng:
- Bà lão ơi! Chết dí đâu rồi?
Từ trong phòng vọng ra một tiếng nói yếu ớt:
- Đang chết đây… Liệt giường từ tối hôm qua, không ngóc đầu dậy được. Đau dần cả người, chân tay bải hoải, lại thêm cái rét nữa, đắp tấm da cừu mà chả ấm lên được tí nào… Đúng là ngã nước rồi, cấm sai đâu… Còn ông về làm gì thế?
Bác Suka mở toang cửa buồng, dừng lại trên ngưỡng:
- Tôi lên huyện bây giờ, tạt qua về xem có gì lót dạ tí đỡ đói dọc đường.
- Có việc gì cần thế mà phải lên huyện?
Bác Suka làm ra vẻ quan trọng, vuốt râu và dường như miễn cưỡng đáp lại:
- Công tác đặc biệt: triệu ông cán bộ trắc địa về. Đồng chí Đavưđốp bảo: "Này bác ơi, ngoài bác ra thì chả ai triệu nổi ông ta về đây đâu!". Trắc địa thì cả huyện có mỗi một ông, mà ông ta thì tôi lại quen, ông ta là ông Sportnôi, ông ta kính trọng tôi cho nên tôi đi mời thì thế nào ông ta cũng về, - bác Suka giải thích, và chuyển luôn sang cái giọng khẩn trương. - Nào, lấy cái gì cho tôi ăn đi, vội lắm.
Bà lão càng rên khoẻ:
- Ôi, khổ thân tôi! Biết lấy gì cho ông ăn bây giờ? Hôm nay có thổi nấu gì đâu, và lò tôi cũng chẳng nhóm. Hay ông ra vườn vặt mấy quả dưa chuột vậy, có sữa chua ở dưới hầm đấy, bà hàng xóm mới đem qua.
Bác Suka nghe bà phu nhân nói, tỏ vẻ coi khinh ra mặt, và cuối cùng nổi khùng lên:
- Dưa chuột xanh ăn với sữa chua à? Này, bà hoá rồ rồi hay sao ấy, hả cái đồ thiên văn? Có phải bà định làm tôi mất hết uy tín hay không thì bảo! Bà thừa biết bụng dạ tôi yếu, bà bảo tôi ăn thế để giữa đường nó giở quẻ à? Rồi lên đến huyện biết làm thế nào? Cứ khư khư ôm lấy quần ư? Mà ngựa lại là ngựa giống, không rời chúng nó đi đâu được một bước, lúc ấy biết xoay xở làm sao? Tháo luôn cái uy tín của mình ra giữa phố chắc? Xin cảm ơn bà cả nón! Dưa chuột của bà xin để mời bà mang ra mà chén với sữa chua, còn tôi thì đâu dám chơi dại! Chức vụ tôi đâu phải xoàng, tôi lái xe ngựa cho đích thân đồng chí Đavưđốp, tôi chả dại gì xơi liều cái món dưa chuột của bà. Rõ chưa, hả cái đồ trừu tượng?
Cái giường gỗ ọp ẹp bà lão đang nằm kêu cót két lên một cách đáng ngờ, và bác Suka lập tức cảnh giác. Bác chưa kịp kết thúc bài phát biểu của mình thì bỗng xảy ra một sự thay đổi rất ư là kỳ lạ cho bà già nhà lão: bà nhảy tót trên giường xuống, hai tay chống nạnh, nom đằng đằng sát khí. Bà kéo tấm khăn vuông nhầu nát trên đầu lệch sang một bên một cách ngang tàng, và giọng bà vừa mới rồi yếu ớt là thế, cất lên lanh lảnh:
- Thế ông muốn cái gì, đồ khỉ già, ông muốn tôi nấu cháo thịt cho ông ăn hả? Hay là mời ông xơi bánh tráng kem? Tôi bói đâu ra những của ấy, khi mà chạn nhà ông chỉ có độc chuột, mà ngay cả chuột cũng chết đói nhăn răng cả! Ông còn bôi bác tôi bằng những cái tiếng khốn nạn ấy đến bao giờ nữa mới thôi? Thế nào là đồ thiên văn, thế nào là đồ ruột tượng? Thằng Maka Nagunốp xui ông đọc những sách vớ sách vẩn, ông lấy thế làm hãnh diện lắm hả, đồ khọm già? Tôi là người phụ nữ tử tế, ăn ở với ông tử tế, suốt đời tôi chung thuỷ với ông, thế mà bây giờ đến lúc gần đất xa trời rồi, ông không biết gọi tôi bằng cái gì khác sao, hả cái đồ thò lò mũi kia?
Câu chuyện đã chuyển sang một hướng bất ngờ và tai hại đối với bác Suka, cho nên bác quyết định rút lui có trật tự vào góc bếp, và vừa lấm lét lùi, bác vừa tìm cách giảng hoà:
- Ô hay, làm sao thế hả bà! Đó đâu phải những tiếng bôi bác bà, mà là cách gọi âu yếm của người có học đấy! "Bà nó nhà tôi" với "thiên văn" chẳng qua cũng là một thôi… Bình thường ta nói "mẹ đĩ nó" thì trong sách người ta gọi là "trừu tượng" mà. Lạy Chúa, tôi cấm có nói điêu đâu, trong quyển sách to tướng mà anh Maka cho tôi mượn đọc có cắt nghĩa như vậy đấy, chính mắt tôi đọc đấy, thế mà bà cứ nghĩ thiên nghĩ thẹo. Chán mớ đời cái thanh toán tai nạn mù chữ của bà! Phải học đi, bà ơi, như tôi học ấy, rồi thì bà cũng vắt khẩu thành chương chả kém gì tôi đâu, thực tế thế!
Giọng nói bác Suka đầy sức thuyết phục đến nỗi bà lão dịu hẳn đi, nhưng mắt bà vẫn còn nhìn ông chồng với vẻ nghi ngại thăm dò. Rồi bà thở dài:
- Tôi học bây giờ thì muộn rồi, vả lại ích gì mà học? Và cả ông nữa, ông khọm già ạ, ông cũng nên ăn nói bằng cái tiếng của ông bà ông vải để lại thôi, chứ nói năng giọng ấy thì người ta cười cho thối mũi đấy.
- Cười hở mười cái răng, - bác Suka tự cao tự đại đáp lại, nhưng bác chẳng hơi đâu mà tranh luận tiếp nữa.
Bác thong thả và cẩn thận bẻ vụn một khoanh bánh mì ôi, thả vào bát sữa chua con con, ngồi nhai từ tốn, chăm chỉ, mắt nhìn ra cửa sổ và bụng nghĩ: "Mình đi đâu mà phải vội nhỉ! Ấy giả sử như là có cái người nào nó định ngoẻo và cần chịu lễ thì vội đã đành. Nhưng Sportnôi là anh đạc điền, chứ đâu phải cha đạo, và Đavưđốp thì cũng chả định ngoẻo tí nào, thế thì việc gì mình phải ba chân bốn cẳng cho mệt? Còn việc đi sang thế giới bên kia thì lão đủ thời gian chán, và cho tới nay cũng chưa có ai lại đi xếp hàng trước cửa Thiên đường cả… Thành thử là bây giờ ra khỏi làng, lão sẽ cho xe rẽ vào khe nào đó, để khỏi ma nào trông thấy lão, rồi lão khò khò một giấc đã mắt, còn ngựa thì trong khi đó cứ thả cỏ. Đến chiều lão sẽ tới đội của Đúpxốp, mẹ Kuprianốpna nhất định sẽ chiêu đãi lão bữa chiều, và tối mát mẻ lão lên huyện cũng vừa. Và nếu Chúa chẳng phù hộ, để cho Đavưđốp biết chuyện, lão sẽ nói toạc móng heo với anh ta thế này: "Anh cứ tiêu diệt cái con Tơrôphim ba lần trời đánh kia đi, khắc lão sẽ không ngủ dọc đường nữa. Suốt đêm nó cứ lục sục bới rơm quanh lão thì anh bảo có tài thánh nào mà ngủ được! Đến phát điên với nó!".
Phấn khởi trước viễn cảnh sắp được làm thượng khách của Đúpxốp, bác Suka nhoẻn miệng cười, nhưng bà lão đến lúc này vẫn còn tìm được cách làm lão cụt hứng:
- Ông nhai gì mà cứ như cái thằng liệt mồm thế hả? Người ta phái ông đi công tác, thế mà ông cứ loanh quanh như con bọ hung trong đống cứt vậy, có đi mau lên không? Và ông hãy vứt mẹ nó những tiếng vớ vẩn lôi trong sách ra ấy đi, và từ rày đừng có mở miệng nói những tiếng ấy với tôi, kẻo cái que cời nó gõ vào lưng đấy, tôi nói ông biết thế, đồ khọm già!
- Que nào thì cũng có hai đầu. - Bác Suka lẩm bẩm trong mồm.
Nhưng khi nhìn thấy trên mặt bà nội tướng hiện ra những đường nhăn nheo giận dữ, bác vội húp hết bát sữa, và cáo từ bà:
- Thôi, mình đi nằm nghỉ đi, chả có việc gì thì đừng dậy, cố mà nghỉ cho chóng khoẻ. Tôi đi đây.
Thay cho lời tiễn, bà lão buông ra một câu "Lạy Chúa!" không lấy gì làm dịu dàng lắm, và quay ngoắt đi.
* * *
Trên quãng đường sáu cây số từ làng đến khe Tservlenaia, bác Suka cho ngựa đi lững thững bước một. Bác thiu thiu đi một cách khoan khoái, thỉnh thoảng đầu lại gật một cái, rồi bã cả người vì cái nóng giữa trưa, có một lần bác suýt ngã lộn nhào xuống đất. "Cái kiểu này thì chả mấy chốc mà gãy cổ", bác lo lắng nghĩ bụng thế và lái xe rẽ vào khe.
Trong lòng khe, cỏ chưa cắt mọc cao đến thắt lưng và thơm man mát. Từ đâu đó phía trên, một mạch nước suối róc rách chảy dọc theo lòng đất sét. Nước mạch trong vắt và mát lạnh đến nỗi ngựa cũng phải uống từ từ từng hớp nhỏ, thận trọng chắt nước qua kẽ răng. Bên mạch nước suối rất râm mát và mặt trời lên cao trên đỉnh đầu cũng không đủ sức xuyên qua. "Thật là Chúa ban cho!" - bác Suka vừa tháo ngựa vừa thì thào như vậy. Bác tròng chân ngựa, thả cho gặm cỏ, trải tấm áo dipun tàng tàng của bác dưới bóng một bụi cây gai, ngả lưng nằm xuống, rồi ngửa mặt nhìn bầu trời xanh nhạt bạc phếch đi vì nắng cũng như đôi đồng tử xanh xanh của bác đã bạc phếch đi vì tuổi già, bác thả hồn mơ mộng:
"Tuyệt diệu thế này thì có lấy dùi chọc vào đít lão cũng chẳng cậy nổi lão ra khỏi đây trước chiều tối. Lão sẽ đánh một giấc thoải mái, sưởi nắng cái bộ khung già cỗi của lão, rồi đến thăm cậu Đúpxốp, chén món cháo của hắn. Lão sẽ bảo là lão đi vội chả kịp ăn uống gì thì thế nào hắn cũng thết lão, gì chứ cái ấy thì lão nắm chắc như cua gạch. Nói thực ra thì sao lại bảo dưới đội chuyên môn chỉ có món cháo suông hoặc món canh lõng bõng phải lấy thìa ngoáy tận đáy nồi mới kiếm được một miếng? Cậu Đúpxốp đâu phải hạng người đi làm vụ cỏ mà lại ăn khem. Cái thằng ma tịt rỗ hoa ấy một ngày không có thịt thì hắn chả sống nổi đâu. Bắt trộm một con trong đàn cừu hàng xóm, thế là có thịt cho thợ hắn chén rồi!... Bữa ăn mà được một khúc thịt cừu độ bốn phuntơ chẳng hạn mà quất thì cũng hay đấy! Đặc biệt là nếu đem quay mỡ! Hoặc xoàng ra thì món trứng tráng cũng được, nhưng phải cho đẫy mỡ vào… Bánh bột rán phết kem cũng là một món bánh thánh làm cho con người ta chắc dạ hơn mọi thứ lễ ban thánh thể đấy bà con ạ, nhất là khi người ta lại múc cho bà con một muôi tướng vào địa, rồi lại một muôi tướng nữa, nom cứ lù lù một đống, rồi người ta lắc nhẹ nhẹ tay, để cho kem lắng xuống đáy đĩa mà, và để cho mỗi cái bánh chìm ngập trong kem. Và tuyệt cú hơn nữa là người ta lại không múc cho bà con vào đĩa mà múc vào một cái bát đáy sâu nào đó để thìa của bà con có chỗ mà khoắng!".
Bác Suka không phải là người phàm ăn; chẳng qua chỉ là bác đói. Suốt cuộc đời dài đằng đẵng không chút sướng vui của bác, chả mấy khi bác được một bữa no và chỉ có trong chiêm bao bác mới được ăn thoả thích những món bác cho là ngon. Lần thì bác mê thấy mình chén lòng cừu luộc, lần thì là bánh tráng bác cuộn lại, chấm vào kem và cả cái bánh to tướng rỗ lỗ chỗ như thế bác tọng đầy mồm làm một miếng, lần thì mì thanh nấu với lòng ngỗng bác cứ xơi mãi không chán, nhồm nhoàm bỏng rộp cả mồm… Còn thiếu gì thứ bác không chiêm bao trong những đêm dài đằng đẵng, nhưng tỉnh dậy sau những giấc mơ ấy bao giờ bác cũng thấy buồn bã, đôi lúc cay cú hậm hực nữa, và nghĩ bụng: "Mơ cái đếch gì mà toàn những của ngon của lạ! Trêu ngươi nhau thế thì sống thế chó nào được; nằm mê thì mì ống chén đã miệng, bằng chán thì thôi, mở mắt tỉnh dậy thì bà lão dúi cho vào mũi cùi bánh hẩm trộn sữa chua, mả cha cái món bánh hẩm ba lần trời đánh ấy!".
Sau những giấc mơ như vậy, bác Suka cứ liếm hoài đôi môi khô khốc cho đến bữa ăn sáng, và ngồi vào ăn bữa sáng đạm bạc, bác thở dài não nuột, uể oải cầm cái thìa mẻ lơ đãng vớt mấy mẩu khoai tây nổi lềnh bềnh trong bát.
Nằm khểnh dưới bụi cây, bác Suka còn ngẫm nghĩ mãi hồi lâu, đoán xem xuống đội sẽ được thết món gì. Rồi bác nhớ lại một cách chả đúng lúc tí nào đến bữa cỗ đám ma mẹ Iakốp Lukits bác đã được chén lu bù, và lao theo mãi những kỷ niệm đánh chén ấy, bác bỗng lại cảm thấy lên cơn đói cào đói cấu đến nỗi cái buồn ngủ biến đâu mất, như có phép thần vậy. Bác hậm hực nhổ toẹt một bãi, đưa tay lên lau chòm râu lưa thưa, sờ nắn cái bụng lép kẹp, và nói bật lên thành tiếng:
- Một cùi bánh mốc với một bát sữa chua, thế mà dám gọi là nuôi sống một đấng nam nhi truyền chủng chính cống? Ăn thế thì khác nào ăn gió? Một giờ trước bụng mình còn căng như cái trống của thằng hát rong digan, vậy mà bây giờ? Bây giờ thì nó lép dính vào xương sống! Lạy Chúa tôi! Sao mà cả đời lão cứ phải nghĩ đến miếng ăn hàng ngày, đến những cái nhồi cho chặt dạ dày thế này, trong khi đời cứ trôi đi như nước chảy qua kẽ ngón tay và cái già xồng xộc đến lúc nào chẳng biết… Mình đến cái khe này lần trước cách đây đã lâu la gì đâu! Hồi ấy hoa mận gai đang nở rộ, trắng xoá cả khe! Hồi ấy có gió thổi, và hoa trắng thơm phức bay khắp khe, quay cuồng như bão tuyết. Con đường kia phủ toàn một màu trắng, và thơm hơn mọi thứ nước hoa đàn bà. Thế mà bây giờ cái màu mùa xuân ấy biến đâu mất rồi, nó đã biến thành màu đen, nó đã tiêu ma đi không quay trở lại nữa! Cuộc đời vô vị của lão về già nó cũng tối đen như vậy, và chẳng mấy nỗi nữa đâu mà lão Suka khốn khổ sẽ phải gửi lại nắm xương tàn bên vệ đường, mà chuyện ấy thì cũng phải đành chứ chả làm thế nào được…
Đến đây dòng triết lý đa sầu đa cảm của bác Suka chấm dứt. Bác thấy thương thân quá, thút thít khóc, khịt mũi, đưa ống tay áo lên lau đôi mắt đỏ hoe, rồi ngủ thiếp đi. Bao giờ cũng vậy, cứ nghĩ đến chuyện buồn là bác buồn ngủ.
Ngủ thiêm thiếp, và ngay cả trong giấc ngủ cũng vẫn trung thành với bản chất của bác, bác Suka nhoẻn miệng cười, hấp háy đôi mắt với vẻ sung sướng, và nghĩ bụng trong mơ: "Bữa chiều nay đội Đúpxốp thế nào cũng có thịt cừu tươi, những chuyện ấy thì dạ dày lão thính lắm! Nói chén một lúc hết bốn phuntơ thì tất nhiên là lão bốc lên nói hơi quá một tí, nhưng ba phuntơ, hoặc cứ cho là ba phuntơ rưỡi đi thì lão chỉ chép miệng làm một lèo! Cứ thử có thịt cừu trên bàn xem, Suka này sẽ múa thìa đưa lên miệng cấm trượt miếng nào đâu, bà con cứ yên chí!".
Khoảng ba giờ chiều thì trời nóng lên đến cực độ. Ngọn gió hanh nóng bỏng nổi lên từ đằng đông, lùa vào khe một luồng không khí hừng hực, và cái mát mẻ vừa mới đó đã biến mất tăm. Lại thêm cái anh mặt trời ngả xuống đằng tây cứ như bám riết lấy bác Suka: bác nằm sấp bụng ngủ, mặt úp vào chiếc áo dipun cuộn trọn, và khi tia nắng mặt trời bắt đầu cù cù vào bác, rồi xuyên qua cái áo sơmi rách mà nướng rát tấm lưng gầy guộc của bác thì bác mơ mơ màng màng cựa mình nhích tránh vào chỗ râm. Nhưng vài phút sau, cái ông mặt trời rắc rối kia lại bắt đầu nướng tấm lưng già của bác một cách không thương xót, và một lần nữa bác Suka lại phải sấp bụng bò trườn sang bên. Và sau ba tiếng đồng hồ thể dục bò lê, bác đã làm nửa vòng bụi cây mà không hề thức giấc. Cuối cùng nóng điên người lên, da bỏng rộp, và mồ hôi vã ra như tắm, bác Suka thức giấc, ngồi dậy, đưa tay lên che mắt ngó ông mặt trời, và hậm hực nghĩ bụng: "Quả thật là con mắt của Chúa, lạy Chúa xin tha tội cho con, rúc vào bụi mà cũng không thoát được nó! Nó bắt người ta suốt cả nửa buổi cứ nhảy choi choi quanh cái bụi như con thỏ rừng vậy. Ngủ nghê gì mà lại thế? Không phải là ngủ, mà là tra tấn! Lẽ ra mình nên chui xuống gầm xe mới phải, nhưng chui đấy thì con mắt khỉ gió kia của Chúa nó vẫn cứ tìm thấy mình. Trên thảo nguyên trụi thùi lụi này thì chạy đâu cho thoát con quỷ sục sạo ấy!".
Thở dài rền rĩ, bác thong thả cởi đôi giày tã mướp ra, xắn quần lên, và ngắm nghía hồi lâu đôi chân cẳng khô ngẳng của mình, miệng mỉm một nụ cười dè bỉu, đồng thời lắc đầu ngán ngẩm. Rồi bác ra suối để rửa ráy và lấy nước suối vỗ mát cái mặt đang nóng bừng bừng.
Từ đây bắt đầu trút xuống đầu bác một lô xúc xích những chuyện xúi quẩy…
Nhấc cao chân rẽ đám cỏ lác lúp xúp để lội ra giữa dòng, bác vừa mới bước được hai bước thì bỗng cảm thấy chân trái mình dẫm phải một cái gì ngọ ngoậy, nhầy nhầy và lành lạnh, rồi liền sau đó thấy phía trên mắt cá một tí khẽ nhói lên như kiến đốt. Bác vội co phắt cẳng trái lên khỏi mặt nước, và cứ đứng lò cò một chân như thế, chẳng khác gì con sếu đậu trong đầm. Nhưng khi bác trông thấy phía bên trái bác một vết ngoằn ngoèo lướt nhanh lộ ra, cỏ lác rung rinh thì mặt bác tái đi, xanh như màu cỏ lác kia, và đôi mắt bác, bắc đầu từ từ trợn lồi lên…
Và chẳng biết bác đã moi được ở đâu ra cái nhanh như cắt ấy! Tưởng đâu như cái tuổi son trẻ đã trôi đi từ đời nảo đời nào lại quay trở lại với bác vậy: chỉ nhảy hai bước là bác đã đứng trên bờ rồi, và sau khi ngồi phệt xuống một mô đất sét bác mới bắt đầu chăm chú xem xét hai cái chấm đỏ nhỏ xíu ở chân, trong khi mắt chốc chốc lại sợ sệt liếc ra phía dòng suối tai ác kia.
Qua khỏi cơn sợ lúc đầu, bác dần dần hoàn hồn lại, và khẽ lẩm bẩm:
- Lạy Chúa, thế là bắt đầu đây… Những cái điềm khốn kiếp kia thì ra nó nghĩa là như vậy đấy! Lão đã bảo thằng cha Đavưđốp ương bướng ấy là chớ nên liều lĩnh xuất hành lên huyện hôm nay mà dại. Nhưng cái hắn ấy chuyên môn vội, làm cái gì cũng muốn ngay, đi cũng đi ngay! Thì đấy lão đi, và đến cái nông nỗi này đây. Hắn ta lúc nào mồm cũng nói: “Tôi là giai cấp công nhân”. Nhưng cái giai cấp công nhân của hắn ấy sao mà nó hắc xì dầu thế? Nó mà nảy ra ý định làm cái gì thì bà con cứ yên chí, sống chết nó cũng đạt bằng được ý của nó! Anh đã đạt được ý anh rồi đấy, mẹ cha anh, nhưng lão đây, lão biết làm thế nào bây giờ?
Đến đây bác Suka bỗng nảy ra ý kiến: “Bây giờ ta phải hút máu chỗ vết thương ấy đi chứ nhỉ! Vì đúng là con rắn độc nó cắn ta rồi, cứ xem nó lượn ngoằn ngoèo trên cỏ lác thế thì biết! Con rắn thường, nói xí dụ là con rắn nước, nó bò từ từ cơ, chẳng vội chẳng vàng, đâu có như cái giống thổ tả kia nó lao vút như một tia chớp, ngoằn ngoằn ngoèo ngoèo nom gớm khiếp! Có khi là nó sợ lão nó chạy cũng nên! Vấn đề là ở chỗ ai sợ hơn ai: lão sợ hơn hay là nó?”.
Lúc này gấp lắm rồi, chả có thời giờ đâu giải đáp câu hỏi phức tạp ấy. Không chậm trễ một giây, bác Suka cúi gập người xuống, cong như con tôm, nhưng cố thế nào thì cố vẫn không làm sao với mồm tới chỗ vết thương được. Thế là, một tay nắm gót một tay nắm bàn chân, bác kéo giật thật mạnh lên mồm trong một cố gắng tuyệt vọng, thế nào mà đến nỗi trong mắt cá chân có cái gì kêu đánh rắc một tiếng, và đau điếng, bác ngã chổng kềnh. Năm phút bác nằm không động đậy. Hoàn hồn được rồi, bác khe khẽ ngọ ngoậy mấy ngón chân trái, hoang mang nghĩ bụng: “Tiền đầu là rắn cắn, rồi bây giờ là tiếp tục đây… Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ lão mới thấy một người lại tự tay vặn ngoéo chân mình đi thế này. Kể chuyện sẽ chả ai tin đâu, họ sẽ bảo: “Lão Suka lại bịa rồi!”. Đấy, cứ bảo là không tin điềm đi! Không tin thì khốn nạn thế này đây… Chà, tiên sư cái anh Đavưđốp! Lão đã nói điều hay lẽ phải với anh ta mà anh ta chả chịu nghe. Lão biết làm sao bây giờ? Đóng ngựa thế nào được đây?”
Nhưng không thể chậm trễ phút nào nữa. Bác Suka rón rén đứng dậy, thận trọng chống chân trái lên. Bác mừng rơn thấy té ra là cũng không đến nỗi đau lắm, đi được, tuy hơi khó một tí. Bác bóp vụn một cục đất sét nhỏ, nhào với nước bọt, rịt cẩn thận lên vết thương. Bác rón rén tập tễnh cái chân sái đi tìm ngựa thì bỗng trông thấy phía bên kia suối, cách bác độ bốn thước, một cái nó làm cho mắt bác nẩy lửa và đôi môi bác run lên trong một cơn giận dữ không kìm nổi: bên kia suối một con rắn nước nhỏ đang nằm cuộn tròn sưởi nắng thiêm thiếp giấc nồng. Nó là một con rắn nước, cái đó không còn chút gì nghi ngờ cả: chứng cớ là đôi “kính” vàng da cam nom ánh lên một cách hiền lành trên đầu nó…
Và thế là bác Suka nổi giận lôi đình. Chưa bao giờ lời ăn tiếng nói của bác nghe lại giận dữ, thống thiết xúc động đến thế. Cái chân đau tiến lên một bước, tay trịnh trọng giơ ra trước mặt, bác sang sảng cất giọng run run:
- Quân bò lê khốn kiếp kia! Quân máu lạnh đểu cáng kia! Quân đốn mạt đeo mục kỉnh kia! Có phải mày, đồ sâu bọ độc hại, vừa rồi đã làm ông đấy, nghĩa là một đáng nam nhi truyền chủng bị một phen hết hồn hết vía đấy không?! Thế mà tao ngớ ngẩn, cứ tưởng mày không phải là cái đồ mày, mà là chính cống rắn độc! Vậy mà phân tích vấn đề ra thì mày là cái gì? Hừ, một giống bò lê bò lết tanh tưởi, có thế thôi! Giẫm cho mày một cái thì mày sẽ thành cát thành bụi, không còn mảy may tí ti gì cả. Nếu không bị trẹo chân vì mày, thì ông sẽ cho mày biết tay ông, mày nên biết như thế, đồ quái vật!
Bác Suka dừng lại lấy hơi và nuốt nước bọt đánh ực một cái. Con rắn ngước cái đầu bé tí màu đen cẩm thạch của nó lên như lắng nghe: quả thực đây là lần đầu tiên nó được nghe người diễn thuyết cho nó. Nghĩ đã đỡ mệt, bác Su, tiếp tục:
- Mày trợn hai con mắt nhâng nháo nhìn ông không chớp hả, đồ ma bờ ma bụi?! Mày tưởng như thế là mày thoát hả? Không đâu, con ơi ông sẽ cho mày nhận ngay bây giờ đủ phần công điểm hôm nay của mày. Nom cái đồ pích cớp kìa! Ông sẽ xé xác mày ra, cho lục phủ ngũ tạng mày không còn một tí gì, thực tế thế!
Bác Suka cúi đôi mắt long lanh giận dữ xuống và trông thấy trong lớp sỏi do lũ xuân cuốn từ sườn cao thung lũng xuống có một hòn đá cuội to, mòn nhẵn. Quên cái chân đau, bác bước dấn lên. Mắt cá chân đau nhói dữ dội làm bác ngã vật xuống đất, miệng chửi rủa om sòm nhưng tay vẫn không buông hòn đá.
Trong khi bác ì ạch, rền rĩ lổm ngổm dậy thì con rắn nước đã biến mất tăm. Như là trước đây chẳng hề thấy nó. Cứ như là nó đã chui tọt vào ruột trái đất vậy! Bác Suka buông rơi hòn đá, ngơ ngác dang tay:
- Ố hay thật, cái số lão đen ơi là đen! Nhưng cái tên phản Chúa ấy nó rúc đâu nhanh thế nhỉ? Đúng là lại lỉnh xuống nước rồi. Đã xúi thì cứ xúi mãi, cho nên không phải đến đây đã hết đâu… Lão thật già mà dại, lẽ ra chả nên phát biểu ý kiến với nó làm gì mà cứ lẳng lặng nhặt hòn đá choang luôn cho một quả vào đầu, vì đánh rắn phải đánh dập đầu mà, vì có thể từ quả thứ hai lão sẽ ném trượt, thực tế thế. Nhưng cái quân ma mò ấy nó lỉnh mất rồi thì ta ném ai bây giờ đây? Vấn đề là thế đấy!
Bác Suka còn đứng lại bên suối gãi gáy một lát nữa, rồi khoát tay một cái chán đời, bác bỏ đi đóng ngựa. Khi còn chưa đi khỏi suối một quãng khá khá thì chốc chốc bác lại ngoái đầu lại nhìn, nói của đáng tội cũng chỉ vài lần thôi… Quân tử phòng thân, tội gì!
… Dưới làn gió thảo nguyên thở ra nhịp nhàng và mạnh mẽ từ lồng ngực bao la của nó cái hương ngây ngất và bao giờ cũng hơi buồn buồn của cỏ khô. Từ những khóm rừng sồi mà con đường chạy men qua, toả ra luồng khí mát rượi và cái mùi nhạt nhẽo những vẫn kích thích lòng người của lá sồi úa, và đây lá tần bì năm ngoái thì không hiểu sao vẫn thơm ngát hương tươi trẻ và hương xuân, và có lẽ cả chút hương viôlét nữa. Những mùi hương khác loại nhau ấy làm cho người ta thường là bao giờ cũng cảm thấy buồn buồn, nao nao thế nào đó, đặc biệt khi người ấy chỉ có độc riêng một mình mình mà thôi… Nhưng bác Suka thì đâu phải là người như vậy. Khi bác đã gác một cách thoải mái bàn chân đau lên cái áo dipun cuộn tròn lại và buông thõng chân phải ra ngoài xe, thì cái miệng móm mém của bác đã toe toét cười, đôi đồng tử bạc thếch vì năm tháng của bác lim dim mãn nguyện, và cái mũi nhỏ xíu đỏ hỏn và nứt nẻ của bác cứ đưa ngang đưa ngửa như cái đu, hít lấy hít để những mùi hương thân tình của thảo nguyên quê hương.
Làm sao bác lại không yêu đời được nhỉ? Cái chân sái của bác đã đỡ đau rồi; gió đưa mây đen từ một nơi xa xôi nào phía đằng đông tới che khuất mặt trời một lúc lâu, làm cho đồng bằng, gò đống, các ngôi mộ cổ, các khe hẻm rợp một bóng râm tim tím, và thở đã dễ chịu hơn; và trước mắt chẳng gì thì cũng là một bữa chén thịnh soạn đang đợi bác… Không, bà con thế nào thì tuỳ, nhưng bác Suka thì tạm thời cảm thấy cuộc sống cũng không đến nỗi khó nhọc lắm!
Tới một đỉnh gò, vừa trông thấy hiện lên xa xa bóng chiếc xe lều và cái lán đội hai, bác Suka đã cho dừng đôi ngựa đang lừng khừng đi bước một lại, và xuống xe. Mắt cá chân bác vẫn còn đau âm ỉ, nhưng bác đã có thể tàm tạm đứng vững bằng cả hai chân. Và bác quyết định: “Lão sẽ cho họ thấy đến với họ đây không phải là một anh đánh xe thồ, mà chẳng gì thì cũng là cụ xà ích của ban quản trị nông trang. Một khi đã lái xe cho đồng chí Đavưđốp, cho anh Maka và các đồng chí lãnh đạo quan trọng khác thì phải đến bằng một kiểu làm cho thiên hạ từ xa đã phải lác mắt!”.
Vừa chửi rủa và rền rĩ xuýt xoa, bác vừa kìm đôi ngựa đã đánh hơi thấy chuồng, rồi đứng thẳng ưỡn người trên xe, hai cẳng xoạc rộng, bác giật mạnh dây cương, miệng “huỳ” lên một tiếng can trường. Đôi ngựa lao đi theo nước kiệu rảo. Trên đà xuống dốc chúng phóngnhư bay, và chiếc áo sơmi không dây thắt của bác bị gió lùa vào căng phồng lên như một quả bóng tướng sau lưng bác. Nhưng bác vẫn thúc ngựa chạy nhanh hơn và, cắn răng chịu đau, bác vui vẻ vung roi, hét lên the thé: “Các con ơi, xung pho-o-ong!”.
Người trông thấy bác đầu tiên là Agaphôn Đúpxốp lúc ấy đang đứng bên lán:
- Thằng cha nào mà lại lái xe đứng, kiểu dân Tavria thế kia nhỉ? Prianhisnhikốp ơi, ra mà xem này, ai đến thăm anh em ta thế không biết?
Đứng trên đống cỏ đang đánh dở, Prianhisnhikốp vui vẻ reo lên:
- Đội tuyên truyền! Bác Suka đấy mà!
- Hay quá! – Đúpxốp cười khoái trí, nói. – Anh em đang buồn! Bố già sẽ ăn cơm tối với chúng ta, thế thì anh em ơi, thống nhất với nhau thế này nhá: ta giữ dịt bố ấy ở lại đến sáng…
Rồi tự tay anh lôi cái xắc của anh dưới gầm xe lều ra, hí húi lục lọi, rồi đút vào trong túi áo một chai vốtka phần tư lít đã uống vơi rồi.
Tập II - Chương 18
Thanh toán hai bát cháo kê loãng đuểnh đoảng chạy qua hàng mỡ, bác Suka đã tới cái trạng thái hoàn toàn thoả mãn và buồn ngủ thiu thiu. Đưa mắt cảm tạ bà cấp dưỡng hậu hĩnh, bác phát biểu:
- Xin cám ơn tất cả các cô các chú về bữa rượu hôm nay, và riêng bác Kúprianốpna thì lão xin là một sự kính chào. Nếu bác muốn biết thì lão xin nói bác không phải là một chị phụ nữ đâu, mà là một hòm vàng, thực tế thế. Với cái tài nấu cháo của bác thì lẽ ra bác không phải nấu cho bọn dân ngu khu đen chúng tôi ăn đâu, mà nấu cho đích thân đồng chí Mikhain Ivanôvits Kanilin mới phải. Cứ đem đầu lão ra mà chặt nếu sau một năm phục vụ, trên ngực bác lại không lủng lẳng một chiếc huy chương nào đó do sự chuyên cần giỏi giang của bác, và biết đâu chẳng có cái dải danh dự gì đeo vào tay áo, lạy Chúa, lão không nói điêu đâu, thực tế thế! Lão thì cứ biết tới chân tơ kẽ tóc rằng ở đời cái gì là quan trọng nhất…
- Cái gì nào? – Đúpxốp ngồi cạnh bác hỏi luôn. – Theo như bác, cái gì là quan trọng nhất?
- Cái chén vào bụng! Lão nói thực đấy, không có gì quan trọng hơn cái chén vào bụng.
- Nhầm rồi, bác ơi, - Đúpxốp buồn rầu nói với một vẻ hết sức nghiêm trang, trong khi mắt thì liếc nhìn anh em. – Bác nhầm to rồi, và đó là vì cái óc của bác về già đã vữa ra như món cháo ta vừa ăn. Óc bác loãng toẹt, thế cho nên bác mới nhầm…
Bác Suka mỉm một nụ cười kẻ cả:
- Chưa biết óc anh với óc lão, óc ai loãng. Thế theo anh, ở đời cái gì quan trọng nhất.
- Tình yêu! – Đúpxốp không phải nói mà là thở dài ra tiếng ấy, và ngước đôi mắt mê ly lên.
Khuôn mặt rỗ nhằng rỗ nhịt của anh lúc này nom buồn cười đến nỗi bác Kúprianốpna là người đầu tiên không nén được nữa. Bác cười phá lên, sặc sụa như con ngựa đánh hơi thấy mưa, cười rung cả người, cười đỏ mặt tía tai phải đưa cánh tay áo lên che.
- Hà! Tình yêu! – Bác Suka khinh khỉnh cười ruồi. – Nhưng cái tình yêu của anh thì giá trị gì khi không có đếch gì lót vào bụng? Không bằng đồng xu! Anh cứ thử nhịn một tuần lễ xem, rồi không phải bà Kúprianốpna này, mà ngay cả vợ anh nữa cũng đấm thèm vào anh.
- Cái đó còn phải xem đã, - Đúpxốp cãi đến cùng.
- Trong chuyện này chả có gì phải xem cả. Lão biết hai năm rõ mười rồi. – Bác Suka cắt đứt lời anh, và trịnh trọng giơ ngón tay trỏ lên trời. – Lão sẽ kể bà con nghe một chuyện này, rồi thì mọi việc sẽ rõ như ban ngày, chả cần bàn cãi xem xiếc gì nữa.
Hiếm khi bác Suka vớ được một đám thính giả chăm chú hơn ba mươi con người này. Họ ngồi quanh đống lửa, và ai cũng chỉ lo bỏ sót mất một lời bác nói. Ít ra thì cũng là bác Suka cảm thấy vậy. Và cũng nên tha thứ cho bác. Trong các cuộc họp chả bao giờ người ta cho bác phát biểu cả; ngồi xe với bác, Đavưđốp cứ nín thinh, lúc nào cũng mải suy nghĩ những gì chẳng biết; bà lão thì ngay hồi còn trẻ cũng không phải là người thích chuyện. Vậy thì ông lão còn biết dốc bầu tâm sự với ai? Bởi thế cho nên bây giờ vớ được một đám thính giả vàng ngọc, và ăn uống no nê xong đang ở một tâm trạng phấn khởi cao độ, bác quyết định nói một bữa thoả can tràng. Bác co cẳng ngồi một cách thoải mái, đầu gối tới mang tai, đưa tay lên vuốt râu, nhưng vừa há miệng để ề à kể lể con cà con kê thì Đúpxốp cướp lời. Anh làm ra vẻ nghiêm khắc, nói:
- Bác kể đi, nhưng cấm nói khoác! Đội chúng tôi có cái lệ: anh nào nói khoác thì cứ roi ngựa đét đít.
Bác Suka thở dài đau khổ, tay xoa xoa bàn chân trái:
- Anh Agaphôn ơi, anh đừng doạ lão thế. Hôm nay lão đã bị mấy phen sợ gần chết rồi… Số là câu chuyện thế này. Mùa xuân vừa rồi, anh Đavưđốp một hôm gọi lão đến, bảo: “Bác Suka ơi, bác vào kho lấy hai bì lúa mạch, lĩnh lương ăn đường của bác, rồi dẫn đôi ngựa giống phóng thẳng một mạch tới cuối Lũng khô, chỗ ta đang thả đàn ngựa cái. Bác phải dẫn hai chú rể ngựa đến đấy an toàn. Chăm đàn ngựa cái là ông điếc Vaxili Bápkin. Hai ông sẽ chia đàn ngựa làm hai tốp, ông Vaxili trông một, và bác trông một. Nhưng hai cái con truyền chủng thì bác phải chịu trách nhiệm, vỗ chúng no bằng lúa mạch”. Thú thật lão chưa hề nghe thấy cái tiếng truyền chủng bao giờ, chả biết nó là cái gì. Vấn đề khó hiểu quá. Ngựa giống thì lão biết, ngựa cái lão cũng biết, và cả ngựa thiến là gì lão cũng biết thừa. Lão liền hỏi: “Truyền chủng là cái gì hả anh?”. Anh ta trả lời: “Là vật để làm ra con, thế gọi là truyền chủng”. Lão lại hỏi: “Thế con bò mộng cũng là truyền chủng à”. Anh ta nhăn mặt lại như khỉ, bảo: “Dĩ nhiên”. Lão lại hỏi nữa: “Thế anh với lão cũng là truyền chủng à?”. Anh ta cười, bảo: “Cái ấy thì ông ơi, còn tuỳ tài lẻ từng người”. Nói tóm lại thì ra là thế này: dù anh là con người, dù anh là con chim sẻ, hoặc bất cứ con vật gì, nhưng hễ anh là con đực thì đứt đuôi con nòng nọc anh là con truyền chủng. Lão nghĩ bụng: “Tốt lắm!”. Nhưng nó lại đẻ ra một vấn đề khác: “Thế người làm ra thóc lúa thì là gì? Có phải là truyền chủng không?”. Lão hỏi anh ta như vậy, và anh ta thở dài, nói: “Ông ơi, đầu óc ông chậm lắm!”. Lão đối đáp lại ngay: “Anh chậm thì có, anh Xêmiôn ạ, vì lão sinh ra đời trước anh bốn mươi năm cơ, thế nghĩa là anh chậm hơn lão”. Chuyện lão với anh ấy đến đây là chấm dứt.
Bác Kúprianốpna thều thào hỏi:
- Thế nghĩa là cụ cũng là truyền chủng đấy hả cụ nội?
- Thế theo nhà chị, không truyền chủng thì là cái gì? – Bác Suka đáp lại, đầy vẻ tự hào.
- Lạy Chúa tôi! – Bác Kúprianốpna rền rĩ thốt lên, rồi tuyệt không nói được tiếng nào nữa, vì mặt đã úp vào tạp dề, và giữa không khí im lặng chỉ còn nghe thấy một tiếng ằng ặc như ngạt thở.
- Ông nội ơi, để ý làm gì chị ấy, cứ kể tiếp đi nào, - Kônđrát Maiđanhikốp quay mặt tránh hơi lửa, ngọt ngào nói.
- Cái giống đàn bà ấy thì cả đời lão có bao giờ thèm để ý! Để ý thì lão đừng hòng thọ cao đến như bây giiờ, - bác Suka đáp bằng một giọng quả quyết, rồi nói tiếp:
- Lại nói chuyện lão đến bãi thả ngựa, lão đưa mắt nhìn quanh, rồi lão cứ mê ly đi! Bốn bề xung quanh toàn là một cảnh hưng phấn đến nỗi không còn muốn tếch đi đâu nữa! Hoa thơm khắp cánh đồng này, cỏ non này, đàn ngựa tha thẩn gặm cỏ này, trời nắng ấm này, tóm lại toàn là một cảnh hưng phấn!
- Bác nói cái tiếng ấy nó nghĩa là gì? – Bexklépnốp thắc mắc hỏi.
- Hưng phấn ấy hả? À, nó nghĩa là xung quanh rất chi là đẹp. “Phấn” là son phấn, tức là rất đẹp, cảnh đẹp như là tô son vẽ phấn. Nó là cách nói của những nhà thông thái đấy. – Bác Suka nói chắc như đinh đóng cột.
- Thế những cái tiếng ấy bác kiếm ở đâu ra vậy? - Bexklépnốp muốn biết cặn kẽ, tò mò hỏi tiếp.
- Kiếm ở chỗ anh Maka Nagunốp đấy. Lão với anh ấy là đôi bạn lớn mà, đêm nào anh ấy cũng ngâm cứu tiếng Anh, còn lão thì ngồi cạnh. Anh ấy đưa cho lão một quyển sách to như chị Kúprianốpna đây này, gọi là quyển tờ điển. Quyển tờ điển chứ không phải quyển i tờ đâu. I tờ là của trẻ con, còn tờ điển là của người lớn. Anh ấy đưa cho lão và bảo: “Bác học đi, tác dụng cho tuổi già lắm đây!”. Thế là lão cứ từ từ lão học. Nhưng, anh Akim ơi, anh đừng có ngắt lời lão như thế, kẻo mà lão quên mất, không nhớ đang nói chuyện gì. Còn chuyện quyển tờ điển thì lão sẽ kể các anh nghe sau. Thế có nghĩa là lão đến cái nơi lão được bổ nhiệm cùng với đôi ngựa truyền chủng. Nhưng ngựa truyền chủng đấy, rồi lại hưng phấn đấy, thế mà rốt cuộc cũng chẳng mùi mẽ gì… Số là thế này, bà con ạ: cái lão Vaxili điếc đặc ấy mà, ai không phải va chạm với hắn, người đó sẽ thọ thêm được mười năm để hưởng mùi đời.
Nghĩa là hắn cứ im như thóc, đến nỗi so với hắn thì anh chàng Đêmít Miệng hến còn là người bẻm mép nhất cái làng này. Lão đã phải chịu trăm bề cực khổ vì cái im thin thít của hắn giữa thảo nguyên. Chẳng lẽ lão lại đi nói chuyện với ngựa cái? Chứ lão Vaxili thì suốt ngày nọ sang ngày kia không lúc nào hắn mở miệng, trừ phi để chén; thời gian còn lại thì hoặc là hắn ngủ im thin thít, hoặc là hắn nằm đắp chăn nom như một cái gốc cây mục, và cũng lại im thin thít. Năm thì mười hoạ hắn mới hé hé mắt ra một tí, rồi lại im thin thít. Đó, hắn đã đặt ra cho lão một vấn đề không sao giải quyết nổi. Nói tóm lại, lão sống ở đấy ba ngày ba đêm mà cứ ngỡ mình ngồi ở bãi tha ma thăm người chết vậy, và có lúc đã lẩn thẩn nói chuyện một mình. Lão nghĩ bụng: “Chà, cơ sự này thì gay đây! Một người thích chuyện trò như mình mà phải sống thế này thì chả mấy chốc mà loạn óc mất!”…
Trong những ngày lễ, nghĩa là ngày mồng một tháng Năm và ngày mồng bảy tháng Mười một, khi phải nghe anh Maka Nagunốp nhà ta phát biểu dai như giẻ rách về cách mạng thế giới, tuôn ra hàng tràng những tiếng nghe chẳng hiểu là cái chết tiệt gì cả, sao mà lão khổ tai thế. Vậy mà trong mấy ngày ở đấy, lão chỉ ước gì được nghe anh ta nói suốt từ sáng đến tối, rồi lại suốt từ tối đến sáng, như nghe con sơn ca hót trong vườn, như nghe gà gáy nửa đêm vậy. Ờ mà bà con ơi, bà con thấy tiếng gà gáy nó thế nào? Lão thì thấy là nó nghe chẳng kém gì hát ở nhà thờ trong những buổi lễ cầu hồn cho kẻ chết đâu…
- Nói chuyện yêu không cần ăn đi chứ, cụ nội, chuyện gà gáy thì nói làm gì! – Anh chấm công đội sốt ruột ngắt lời bác.
- Bà con cứ bình tĩnh, đâu sẽ có đó, muốn chuyện yêu hay chuyện gì rồi cũng xong, không thành vấn đề. Nhưng lão đang nói chuyện Vaxili điếc đặc. Nếu hắn chỉ giở cái trò im thin thít thôi thì còn đỡ, nhưng hắn thêm cái tội ăn tham nữa mới hại lão chứ! Nấu được nồi cháo hoặc nồi bánh bột nặn thì rồi thế nào, bà con có biết không? Lão múc được một thìa thì hắn đã làm tới năm thìa. Mà cái thìa của hắn to tổ bố, nom cứ như cái càng xe lửa. Và cứ thoăn thoắt từ nồi lên mồm, rồi từ mồm xuống nồi, nom cứ chóng cả mặt, rồi đến khi mình nhìn xuống thì đã trơ cái đáy nồi ra rồi! Ăn xong lão đứng dậy cứ đói meo, còn hắn thì bụng trương phềnh, như cái bong bóng bò, hắn nằm phơi rốn ra và bắt đầu ợ nhá, ầm cả thảo nguyên! Hắn ợ hai tiếng đồng hồ liền, cái quân ôn dịch ấy, rồi chuyển sang ngáy. Mẹ cha hắn, chứ hắn ngáy khiếp đến nỗi ngựa ở quanh lều hết vía chạy bán xới cung mây cả. Hắn ngủ đến tận tối, về khoa ngủ thì hắn thật chả thua gì con cu ly ngủ mùa đông. Mấy ngày sống ở đấy, lão chết cay chết đắng như thế đó. Và đói rạc, như con chó hoang, và thèm nói chuyện, nhưng có đếch ai mà nói… Đến ngày thứ hai, lão đến ngồi bên hắn, khum hai tay làm loa, hét thật lực vào giữa lỗ tai hắn: “Đằng ấy vì sao điếc đấy? Vì chiến tranh, hay hồi bé bị tràng nhạc?”. Hắn gào trả lại to hơn: “Vì chiến tranh! Năm mười chín, xe lửa bọc sắt của Hồng quân bắn đại bác, nổ một quả cạnh chỗ tôi, con ngựa tôi cưỡi chết tươi, còn tôi thì bị chấn thương sinh ra điếc đặc”. Lão hỏi tiếp câu nữa: “Này, Vaxili ơi, tại sao đằng ấy chén như điên thế?”. Và hắn trả lời lão: “Ồ, mây kéo về thế là tốt đấy! Đang mong mưa!”. Đấy, bà con đi mà nói chuyện với một tên dấm dớ như vậy…
- Thế bao giờ mới nói sang cái tiết mục yêu đấy hả ông ơi? – Đến lượt Đúpxốp sốt ruột hỏi.
Bác Suka khó chịu cau mày lại:
- Yêu với chả đương, các anh chỉ được cái thế! Cái trò yêu đương ấy thì cả đời lão, cứ xin là tránh xa. Giá mà mồ ma ông cụ lão không ép thì mãn đời lão cũng chẳng thèm lấy vợ, thế mà bây giờ lại bảo lão nói chuyện yêu đương. Các anh thật là nhiễu sự!… Nhưng néu các anh muốn biết thì đây, lão kể các anh nghe yêu không cần ăn thì sẽ nên cơ sự gì…
Lão đến cái nơi lão được bổ nhiệm. Thế rồi đàn ngựa được chia làm hai tốp, nhưng mả mẹ nó, hai anh chú rể ngựa của lão chẳng thèm nhòm ngó gì đến các ả ngựa cái cả, độc suốt ngày gặm cỏ không biết mỏi răng… Không một mảy may ngó ngàng gì đến đám cô dâu! Lão nghĩ bụng: vấn đề rắc rối đây! Lão thật là khốn khổ nhục nhã vì hai cái con truyền chủng của lão. Lão cho chúng nó chén đầy đủ tiêu chuẩn lúa mạch đấy, nhưng mả mẹ chúng nó, chúng nó không đoái hoài gì đến lũ ngựa cái sất…
Ngày hôm sau cũng vẫn phớt lờ như thế. Lão đâm ra lúng túng ngượng nghiụ khi đi ngang qua chỗ bọn ngựa cái tội nghiệp kia, sượng mặt phải quay đi, không dám nhìn vào mắt chúng nữa, xin chịu thôi! Đời lão có bao giờ đỏ mặt đâu, nhưng ở đấy thì đã biết đỏ mặt là thế nào rồi: mỗi lần đến xua chúng ra đầm uống nước là y như rằng lão cứ đỏ dừ mặt như cô gái đồng trinh…
Lạy Chúa! Trong ba ngày đêm ấy, nhục nhã của lão vì hai con truyền chủng kia thì không sao kể xiết! Vấn đề hoàn toàn không giải quyết được. Sang ngày thứ ba đã diễn ra trước mắt lão cái cảnh như thế này: một ả ngựa cái tơ xán đến chàng màng con ngựa tía truyền chủng có sao trắng ở trán và cái vòng trắng ở cổ chân trái sau, mà lão gọi là con Hoa. Ả ngựa cái cứ ưỡn a ưỡn ẹo lượn quanh nó, đưa răng gặm gặm cù nó, giở đủ trò tán tỉnh. Cuối cùng, con Hoa ghếch đầu đặt lên lưng cô ả, lim dim mắt, rồi thở dài một tiếng nghe đến là não nuột… Ối Hoa ơi là Hoa, sao mà lại đến cái nông nỗi này! Lão giận phát run lên, nghĩ bụng: mấy con ngựa cái kia nó nghĩ về mình thế nào nhỉ? Chắc chúng nó bảo: “Cái lão già khỉ gió này dẫn đến cho chúng mình đúng là hai của nỡm”, và biết đâu chúng chả nói tệ hơn thế nữa ấy chứ…
Thế rồi ả ngựa cái khốn khổ kia mất hết kiên nhẫn, quay đít vào con Hoa của lão, phóng hai chân sau đạp cho cu cậu một qủa trời giáng vào mạng mỡ, đến nỗi nghe kêu đánh rắc một tiếng bên trong. Lão cũng chạy tới, vừa chạy vừa cay đắng vãi nước mắt ra, rồi quật cho con Hoa một roi ngựa vào lưng, quát ầm lên: “Mày mang danh là con truyền chủng sao lại bôi gio trát trấu vào mặt mày, và cả mặt tao nữa là người già lão!”.
Tội nghiệp cho nó, nó co cẳng bỏ chạy độ mươi xagien, rồi đứng lại, hí lên nghe thật là não nùng, làm lão đứt ruột, đứt gan, và thương nó quá, lão khóc. Lão quẳng cái roi đi, bước đến vuốt ve mũi nó, còn nó thì ghếch đầu lên vai lão mà thở dài.
Lão nắm lấy bờm nó dắt về lều, và bảo: “Thôi, Hoa ơi, thày trò ta về thôi, láng cháng ở đây chẳng được cái tích sự gì, lại chỉ chuốc thêm nhục vào thân…”. Nói xong lão thắng nó vào xe, lên đường quay về làng. Còn thằng Vaxili điếc đặc thì gào lên: “Ông ơi, sang năm lại ra đây nhá, ra húp cháo với nhau. Từ nay đến đó, đôi ngựa giống của ông nếu không ngẻo thì cũng đủ thời giờ hồi sức lại đấy”.
Lão về làng, báo cáo đầu đuôi cho anh Đavưđốp nghe. Anh ta ôm đầu, gắt lão: “Tại ông chăm chúng nó tồi!”. Lão cãi trả lại ngay: “Không phải lão chăm tồi, mà là các anh bắt chúng nó kéo xe cho các anh đi nhiều quá. Lúc thì anh, lúc thì anh Maka Nagunốp, lúc là Anđrây Radơmiốtnốp. Ngựa giống mà không lúc nào rời được càng xe, còn lúa mạch thì có quỳ mà lạy cũng không moi được của lão Iakốp Lukits. Đời thuở nhà ai lại bắt ngựa giống kéo xe bao giờ không? Khi nó đã là ngựa truyền chủng thì nó chỉ có việc chơi không rồi chén đẫy, không thế thì vấn đề hoàn toàn không giải quyết được”. Nhưng may quá, chắc bà con còn nhớ, trên huyện gửi về cho ta đôi ngựa giống khác, vấn đề ngựa cái thế là đã giải quyết được. Đấy, yêu mà không có đủ cái chén thì nó nghĩa là như thế đó. Rõ chưa, hả đồ ngốc các anh? Và có gì mà các anh cười, chuyện người ta là chuyện hết sức nghiêm chỉnh.
Bác Suka đưa con mắt đắc thắng nhìn cử toạ, nói tiếp:
- Các anh suốt ngày chỉ rũi đất, như bọ hung rũi đống phân thì còn hiểu cái quái gì ở trên đời này nữa? Còn lão đây thì tuần nào ít ra cũng lên huyện một lần, có khi nhiều hơn. Như chị, chị Kúprianốpna ạ, chị đã có lần nào được nghe đài nói chưa?
- Nào có đi đâu mà được nghe. Mười năm nay cháu có lên huyện đâu!
- Ấy đấy! Thấy chưa? Còn lão, lần nào lên huyện lão cũng được nghe chán thì thôi. Để lão kể bà con nghe cái đài nó là cái của khỉ gì. – Bác Suka ngó ngoáy đầu, cười khúc khích: - Nó là một cái ống đen đen treo trên một cái cột ở đối diện huyện uỷ, và lạy Chúa, nó nói oang oang lên nhá! Nghe mà dựng cả tóc gáy, và những hôm nóng nực hẳn hoi mà sống lưng cũng ớn lạnh, như kiến bò! Lão buộc ngựa bên cái ống ấy, lão nghe. Lúc đầu nghe nó nói về nông trang, về giai cấp công nhân, về những chuyện linh tinh khác nữa, cũng thấy hay hay. Nhưng rồi bỗng chỉ muốn rúc đầu vào thúng thóc: một anh chàng nào nó rống lên từ Mátxcơva, nghe ồm ồm như lệnh vỡ: “Rót nữa đi, rượu nồng ta cùng uống”, và lão nói bà con chả tin đâu, nhưng nghe hát thế mà tự nhiên lão thấy thèm tí chất cay quá, thèm khô cả họng! Thành thử về sau mỗi lần được cử đi công tác lên huyện, lão lại phải làm liều nẫng nhẹ của bà lão chục trứng gà, hoặc nhót được bao nhiêu thì nhót, và vừa đặt chân đến huyện, lão đảo ngay ra chợ, bán trứng đi, rồi lại đảo ngay ra quán. Ngồi rung đùi bên cốc vốtka mà nghe cái ống ấy nó hát đủ các thứ bài thì lão có thể đợi đồng chí Đavưđốp suốt ngày được. Những khi không nhót được trứng ở nhà, vì về sau bà lão cảnh giác theo dõi lão sát sao mỗi lần lão đi, thì lão vào huyện uỷ, rỉ tai đồng chí Đavưđốp: “Anh Xêmiôn ơi, chiêu đãi lão phần tư lít vốka đi, chứ ngồi vêu đợi đồng chí thì lão buồn chết mất”. Anh ấy là người rất chi là xông cảm, cho nên chả bao giờ từ chối, thế là lão lại ra thẳng quán, nhấm nháp một chút, rồi hoặc là tìm chỗ nắng ấm đánh một giấc thoải mái, hoặc là nhờ ai trông giùm hai con truyền chủng lão đi phố thanh toán mấy cái công tác chưa được giải quyết của lão.
- Ông thì còn có công tác gì trên huyện? – Akim Bexkhlépnốp hỏi.
Bác Suka thở dài:
- Một ông chủ gia đình thì thiếu gì công tác? Lần thì chai dầu tây, lần thì hai ba bao diêm. Hoặc nói xí dụ là: lúc nãy đồng bào hỏi lão những cái tiếng thông thái trong tờ điển, thế thì trong tờ điển người ta in như thế này: đầu tiên là một chữ in nét đậm, không có kính lão cũng nhận ra, nhưng liền ngay cạnh nó là những chữ li ti để giải thích, tức là để giảng cái nghĩa của nó. Thực ra có những chữ chả cần phải giảng nghĩa là gì lão cũng thừa hiểu. Xí dụ như chữ “độc quyền”, lão thừa biết nó là cái quán bán rượu, chữ “pích-cớp” thì nghĩa là một anh vô tích sự, một thằng ba que xỏ lá, có thế thôi. Còn “hội hoạ” là một cô gái đẹp ăn mặc theo lối tỉnh thành, ngược lại “đăng-ren” thì chẳng phải cái gì khác mà là một bà đang đi dạo mát, “hành lang” thì chính là cái tình yêu của anh đấy, anh Agaphôn ạ, cái tình yêu nó làm anh đâm ra hơi bị ngớ ngẩn, và nhiều chữ khác nữa. Nói thế thôi chứ lão vẫn cần có đôi kính. Một hôm lên huyện với anh Đavưđốp, lão đi kiếm ngay chỗ mua kính. Bà nhà lão cho lão tiền vì đây là một việc rất chi là quan trọng.
Lão đi đến một nhà thương, nhưng tới nơi thì té ra chẳng phải là nhà thương, mà là nhà đẻ; ở một phòng độc thấy những bà đang rên i ỉ, khóc mếu mỗi người một giọng, trong một phòng khác thì trẻ lóc nhóc bé bằng nắm tay đang ngheo ngheo như mèo con. Lão nghĩ bụng: mình nhầm chuồng rồi, đây thì người ta làm gì có kính bán cho mình. Lão đi đến một nhà thương khác thì thấy có hai anh chàng đang ngồi đánh cờ ngoài hiên. Lão chào và hỏi: “Ở đây bán kính chỗ nào đấy ạ?”. Hai anh chàng ấy co rúm người lại, và một anh nói: “Ông nội ơi, ở đây người ta bán cho ông cái loại kính ông đeo vào thì nổ con ngươi ra đấy, đây là nhà thương hoa liễu, ông có mau mau cao chạy xa bay đi không, không thì người ta sẽ đè ông ra chữa cho ông đấy”.
Tất nhiên là lão sợ gần chết và ù té nhá, ba chân bốn cẳng bán xới cho mau khỏi cái nhà thương ấy. Và hai cái thằng chết giẫm kia đuổi theo lão ra đến đường, một thằng huýt sáo the thé, còn một thằng thì kêu ầm hàng phố lên: “Chạy mau lên, ông già chơi trống bỏi ơi, kẻo họ tóm được bây giờ!”. Ối giời ơi, thế là lão phi như ngựa, tẩu như bay! Thành thử lão nghĩ bụng, trong lúc Chúa đi vắng, họ có thể bắt oan mình, rồi đứng trước mặt các ông bác sĩ anh tha hồ mà phân trần.
Chạy đến hiệu thuốc thì tim lão muốn nhảy ra ngoài. Nhưng hiệu thuốc cũng không có kính bán. Người ta bảo: cụ ơi, cụ phải đi Milêrôvô hoặc Rôxtốp, bác sĩ khoa mắt người ta cấp giấy cho cụ thì mới mua được kính. Lão nghĩ bụng: thế thì lão xin kiếu, hơi đâu đi vì cái chuyện vớ vẩn ấy!... Thành thử đọc tờ điển lão cứ đoán thôi, vấn đề kính thế là hoàn toàn không giải quyết được.
Chuyện xảy ra cho lão ở trên huyện thì có biết bao mà kể, vô thiên lủng!
- Ông ơi, ông phải kể cho thứ tự tí, không lại như con chim sẻ nhảy cành nọ sang cành kia, rồi không biết đâu là đầu, đâu là đuôi nữa, - Đúpxốp đề nghị.
- Thì chính là lão đang kể thứ tự đây, trọng tâm là anh đừng có ngắt lời lão. Anh mà ngắt lần nữa là đầu óc lão lẫn tiệt, rồi chuyện lão kể sẽ rối tinh lên, bà con xúm vào gỡ cũng chẳng gỡ nổi đâu. Là lão đang nói chuyện một hôm lên huyện, lão gặp một hội họa, nghĩa là một cô gái đẹp, xinh xắn như một con dê cõn, ăn mặc theo kiểu tỉnh thành, tay đeo ví. Cô ta đi giày cao gót, độc nghe thấy “cốp, cốp, cốp, cốp” cứ như con dê gõ móng xuống đất. Mà lão thì về già sao mà lão thích những cái mới lạ thế không biết, thích kinh lên được! Bà con ạ, lão cũng đã đi thử xe đạp rồi đấy. Một hôm thấy một cậu chàng đang cưỡi cái máy ấy, lão bèn hỏi: “Cháu ơi, cháu cho lão cưỡi thử cái máy của cháu tí xem sao”. Anh chàng ấy vui vẻ bằng lòng ngay, giúp lão leo lên cái máy chạy của anh ta, giữ cho lão đi, còn lão thì hai chân ra sức đạp loạn lên. Rồi lão đề nghị anh ta: “Đừng giữ nữa cháu, lạy Chúa, lão muốn đi một mình xem sao”. Nhưng anh ta vừa buông lão ra là tay lái lão ngoáy một cái, và lão ngã chúi vào bụi xiêm gai. Gai cây ấy đâm vào khắp người lão, và cả chỗ không tiện nói với bà con, nhiều không sao đếm xuể! Lão mất một tuần lễ mới nhổ hết, lại thêm cái quần móc phải gốc cây rách tan.
- Ông nội ơi, ông kể chuyện cô gái kia đi chứ, chuyện cái quần của ông kể làm gì! – Đúpxốp nghiêm trang ngắt lời bác. – Ông nghĩ mà xem, cái quần của ông thì anh em thiết gì?
- Đấy, anh lại ngắt lời lão rồi, - bác Suka rầu rĩ đáp. Nhưng rồi bác cũng vui lòng kể tiếp: - Lão đang nói chuyện cái con dê cõn xinh xắn ấy vừa bước đi vừa vung vẩy tay như một chú lính đi một hai, còn lão thì nghĩ bậy trong bụng: ước gì mình được khoác tay cô ấy đi dạo tí nhỉ! Cả đời lão chưa được khoác tay ai bao giờ, mà trên phố huyện thì thấy trai gái họ đi với nhau kiểu thế luôn: lúc thì cậu khoác tay cô, lúc thì cô khoác tay cậu. Lão xin hỏi bà con, ở nhà quê ta thì làm gì ra có cái thú ấy? Ở làng ta mà đi như thế thì người ta cười cho thối mũi, có phải không?
Và đến đây nảy ra một vấn đề: làm thế nào để khoác được tay người đẹp kia nhỉ? Thế là lão nghĩ được một kế: lão còng lưng xuống rồi rên rỉ ầm cả hàng phố. Cô gái chạy đến, hỏi: “Cụ sao thế hả cụ?”. Lão đáp: “Cô ơi, lão ốm, lưng đau như gãy thế này thì làm sao tới nhà thương bây giờ…”. Cô ta bảo: “Để cháu dìu cụ đi. Cụ vịn vào tay cháu đây”. Lão đem hết can đảm ra khoác lấy tay cô ấy, cứ như lão với cô ấy khoác tay nhau đi dạo vậy. Khoái ơi là khoái! Vừa tới cửa hàng bách hóa huyện thì lão từ từ thẳng người lên, và trong khi cô ta còn ngơ ngác chưa hiểu, lão làm đánh chụt một cái lên mà cô ta rồi bỏ chạy vào cửa hàng, mặc dù lão chẳng có công tác gì trong ấy cả. Mắt long lên sòng sọc, cô ta chửi với theo: “Ông là người đê tiện, giả vờ giả vịt!”. Lão bèn đứng lại, nói: “Cô ơi, đói ăn vụng, túng làm liều! Cô xông cảm cho, từ thuở cha sinh mẹ đẻ lão chưa được khoác tay một cô gái đẹp bao giờ, và lão sắp về chầu trời đến nơi rồi”. Rồi lão chuồn vào trong cửa hàng, phòng cô ta gọi sảnh sát. Nhưng cô ta bật cười rồi bỏ đi đường cô ta, độc chỉ còn nghe thấy côm cốp cồm cộp. Lão chạy đâm đầu vào trong cửa hàng, miệng thở hổn hển. Người bán hàng hỏi: “Cụ cháy nhà sao đấy?”. Lão thở không ra hơi, nhưng cũng đáp: “Còn quá cháy nhà chứ. Anh bán cho lão bao diêm”.
Bác Suka còn muốn tiếp tục kể lể con cà con kê hồi lâu nữa, nhưng mệt mỏi sau một ngày lao động, các thính giả của bác bắt đầu lục tục giải tán. Bác khẩn khoản nài họ chịu khó nghe nốt vài chuyện nữa nhưng vô hiệu: chẳng mấy chốc quanh đống lửa tàn đã không còn lấy một bóng người.
Tự ái và ngán ngẩm hết sức, bác Suka lò mò ra chỗ máng cỏ, lăn vào đấy đắp áo dipun nằm co ro. Nửa đêm sương rơi nặng hạt. Bác Suka rét run cầm cập choảng tỉnh dậy, và quyết định: “Ta vào xe lều ngủ với anh em, chứ nằm đây thì mình run như con chó con vứt ngoài tuyết vậy”.
Cái lô những chuyện đen đủi lại tiếp tục đổ xuống đầu bác, từ từ, nhưng không tránh được… Bác nhớ là trong vụ cày xuân, anh em kôdắc vẫn ngủ trong lều còn cánh phụ nữ thì ngủ ngoài trời, và trong lúc mắt nhắm mắt mở không nghĩ ra là hai tháng qua sự đời đã có thể đổi thay, bác Suka lẳng lặng bò lổm ngổm vào trong xe, cởi giày ra, nằm ngay xuống bên cửa, rồi ngủ say tít cung mây giữa hơi người ấm sực. Nhưng một lát sau bác lại choàng tỉnh dậy vì tức thở. Sờ thấy có cái đùi ai phơi trần gác lên ngực mình, bác bực mình không chịu được, nghĩ bụng: “Cái dân cổ cày vai bừa này nó ngủ cũng không ra thế nào. Cưỡi lên người ta như cưỡi ngựa thế này bao giờ!”.
Nhưng khi định gạt cái khối thịt nặng như tảng đá đè trên ngực ấy ra thì bác bỗng rụng rời chân tay: đó không phải cái đùi đàn ông mà là cánh tay để trần của bà Kúprianốpna. Và bác nghe thấy bà ta thở phì phò bên tai. Trong xe lều toàn chỉ có cánh phụ nữ ngủ…
Bác Suka nằm rã rời vài phút nữa, không dám cựa, hoảng sợ, mồ hôi vã ra như tắm. Rồi bác vơ vội đôi giày len lén bò ra khỏi xe như con mèo ăn vụng, và bước thấp bước cao đi ra xe của bác. Bình sinh chưa bao giờ bác thắng ngựa vào xe nhanh thoăn thoắt đến thế! Bác vung roi quất ngựa một cách không thương xót, cho xe phóng như bay rời khỏi chốn này, mắt chốc chốc lại ngoái lại nhìn chiếc xe lều đang in bóng tai ác của nó lên nền trời rạng đông.
“Phúc tổ mình đã kịp thời tỉnh dậy. Chứ nếu mình ngủ quá mắt đi, cánh phụ nữ sẽ trông thấy mình nằm cạnh mụ Kúprianốpna mất, và cái vòng tay hộ pháp của con mụ khốn kiếp ấy lại còn ôm choàng lấy mình nữa chứ!... Ối giời ơi, lạy Đức bà đồng trinh! Thiên hạ sẽ cười cho đến lúc mình xuống lỗ, và xuống lỗ rồi cũng chưa chắc đã thoát đâu!”.
Ngày hè bình minh lên nhanh. Chiếc xe lều đã khuất không còn trông thấy nữa. nhưng đi khỏi ngọn gò thì một chuyện đau đầu khác phục sẵn đợi bác ở đấy: vô tình nhìn xuống chân, bác bỗng phát hiện chân phải bác đi một chiếc giày phụ nữ hầu như mới toanh, đường khâu rất khéo và có dây da rất điệu. Nhìn cỡ thì rõ rành rành chỉ có thể là của bà Kúprianốpna thôi…
Sợ đến lạnh tóc gáy, bác Suka lên tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa lòng lành, con có làm gì trái ý Chúa mà Chúa trừng phạt con thế này?! Nghĩa rằng là lúc tối tăm mình đã xỏ nhầm giày. Thế này thì mình vác mặt về nhà với bà lão làm sao đây? Một chân giày đàn ông, một chân giày đàn bà, đó là một vấn đề không thể giải quyết được!”.
Nhưng rồi vấn đề vẫn được giải quyết: bác Suka lái ngoặt xe, cho rẽ vào con đường dẫn về làng. Bác đã quyết định một cách rất chí lý rằng bác không thể lên huyện đi chân đất, hoặc mỗi chân một kiểu giày được. “Mặc xác cha cái anh trắc địa ấy, không có anh ta thì vẫn cứ xong việc như thường. Đâu cũng là Chính quyền xôviết, đâu cũng là nông trang cả, vậy nông trang này lấn của nông trang kia tí đất đồng cỏ thì đã sao”, - trên đường về Grêmiatsi Lốc bác buồn bã lý sự một mình như vậy.
Về cách làng hai cây số, quãng con đường men theo một đoạn khe sâu, bác đã ra một quyết định nữa không kém phần táo tợn: bác cởi hai chiếc giày ra, lấm lét nhìn quanh, rồi vứt tòm xuống khe, miệng lẩm bẩm chửi vọng theo:
- Tiên nhân cha chúng bay chứ, tội gì ông chịu khốn nạn vì chúng bay!
Hể hả phấn khởi vì đã trút gọn được cái tang vật oan gia kia, bác Suka cười nụ khi mường tượng thấy cảnh bà Kúprianốpna sáng sớm tỉnh dậy sẽ kinh ngạc xiết bao khi thấy chiếc giày da của mình đã mất tích một cách bí hiểm như thế.
Nhưng bác mừng hơi sớm: hai đòn nữa của số mệnh, hai đòn cuối cùng, nhưng cũng là những đòn ác liệt nhất, chí tử, đang đợi bác ở nhà…
Vừa tới đầu ngõ bác đã trông thấy một đám các bà đang tụ tập, xôn xao vì chuyện gì chẳng biết. Bác giật mình nghĩ bụng: “Khéo bà nó nhà mình làm sao rồi?”. Bác chẳng nói chẳng rằng rẽ đám các bà đang có chuyện gì cứ tủm tà tủm tỉm kia ra, bước vào. Nhưng vừa vào tới bếp và đưa vội mắt nhìn quanh một cái, bác bỗng bủn rủn chân tay, rồi làm dấu phép, miệng thều thào không ra hơi: “Gì thế này?”.
Bà lão nhà bác đang nước mắt ngắn nước mắt dài lắc lắc ru một trẻ mới đẻ cuốn tã và đang khóc giật lên từng cơn…
- Cái gì mà lạ thế này? – Bác Suka sững sờ thều thào, nhưng tiếng bác nghe đã rõ hơn.
Thế là bà lão trợn ngược đôi mắt sưng húp lên nom đến dữ tợn, bù lu bù loa:
- Con ông người ta quẳng giả đây, chứ còn chuyện gì! Mẹ cha ông, chữ nghĩa lắm vào! Banh mắt ra mà đọc cái giấy trên bàn kia đi.
Bác Suka càng tối sầm mặt lại, nhưng rồi loay hoay cũng đọc được mấy dòng chữ nguệch ngoạc như gà bới viết trên một mấu giấy gói:
“Thưa cụ, cụ đã cho con đứa trẻ này thì xin cụ hãy nuôi lấy nó”.
……………………..
Đến chiều, giọng khản đặc vì xúc động và vì gào, bác Suka gần như đã thuyết phục được bà lão là bác chả có tham gia tí gì vào sự ra đời của đưa bé này cả, thì vừa đúng lúc ấy ở cửa bếp xuất hiện một thằng bé lên tám, con nhà Liubiskin.
- Ông ơi, hôm nay cháu đi chăn cừu, trông thấy ông đánh rơi giày xuống khe. Cháu xuống tìm, mang về cho ông đây. – Và nó chìa ra đưa bác Suka đôi giày tội nợ kia…
Sau đó đã xảy ra chuyện gì thì, theo cách nói của mồ ma bác thợ giày Lôkacheép là bạn con chấy cắn đôi của bác Suka, điều đó “còn bao phủ trong tấm màn bí mật”. Chỉ biết rằng trong suốt tuần lễ sau đó bác Suka phải băng kín má, và mắt bác húp híp thâm tím; và khi có ai tủm tỉm hỏi bác vì sao phải băng má thì bác quay mặt đi, trả lời là cái răng độc nhất còn lại của bác bị đau, đau lắm, đau không thể nói chuyện được…
Nguồn: http://tusach.mobi/