Tập II - Chương 19
Sớm bảnh mắt, Anđrây Radơmiốtnốp đã đến trụ sở xôviết để ký và gửi hỏa tốc lên huyện bản tổng kết vụ cắt cỏ và bản báo cáo về công tác chuẩn bị vụ gặt. Anh đang tập hợp những con số báo cáo của từng đội thì có tiếng gõ mạnh ở cửa.
Vẫn chúi mũi vào đống giấy má anh lớn tiếng nói:
- Cứ vào!
Hai người lạ mặt bước vào, và lập tức gian phòng cứ như là chật ních người. Một trong hai người ấy, người mặc áo đi mưa vải sơn mới toanh, dáng người trùng trục đẫy đà, mặt tròn vành vạnh râu ria cạo nhẵn, chẳng có nét gì đặc biệt, bước tới bên bàn mỉm cười chìa cho Radơmiốtnốp một bàn tay rắn như sắt nguội:
- Tôi là Pôliakarpơ Pêtơrôvits Bôikô, cán bộ tiếp phẩm ban đời sống công nhân mỏ Sakhơtư, còn đây, - và anh ta khinh khỉnh hất ngón tay cái qua vai chỉ người cùng đi với mình đang đứng cạnh cửa, - đây là người giúp việc tôi, tên là Khigiơnhiắc.
Anh chàng này nom có vẻ một anh dắt bò hoặc một lái buôn gia súc. Chiếc áo đi mưa vải sơn lem luốc có mũ trùm đầu, đôi ủng da bò ống rộng, chiếc mũ kêpi xám bẹp dúm và cái roi sang trọng có hai tua da cầm tay, tất cả những cái đó đều thầm lặng chứng minh nghề nghiệp của anh ta. Nhưng vẻ mặt anh ta lại chẳng phù hợp chút nào với cách ăn mặc ấy: đôi mắt thông minh sắc sảo, một nét hóm hỉnh bên khóe môi mỏng, lông mày trái dướn lên như đang nghe ngóng, một cái gì có vẻ trí thức trên dáng mặt, đối với một người có con mắt nhận xét thì tất cả những cái đó nói lên một cách hùng hồn rằng anh chàng này hoàn toàn xa lạ với việc thu mua gia súc và với mọi nhu cầu của kinh tế nông thôn. Radơmiốtnốp nhận xét thầm trong bụng thấy ngay như vậy. Thực ra anh cũng chỉ nhìn nhác qua khuôn mặt của Khigiơnhiắc thôi, rồi nhìn ngay xuống đôi vai bè bè quá khổ của anh ta, rồi bất chợt mỉm cười nghĩ bụng: “Cán bộ thua mua gì những ông mãnh này! Tướng giặc thì có… Hai ông tướng này thì chỉ có đêm đêm phục dưới gầm cầu rình những anh cán bộ thương nghiệp xỉa cho một nhát là đúng thôi…”. Cố giữ vẻ mặt nghiêm trang, anh hỏi:
- Các đồng chí đến có việc gì?
- Chúng tôi đi thu mua gia súc riêng của bà con nông trang viên: đại và tiểu gia súc có sừng, và cả lợn nữa, còn gà vịt thì tạm thời chúng tôi chưa cần. Có thể sang mùa đông này sẽ thu mua cả gà vịt, nhưng trước mắt thì chưa. Chúng tôi mua theo giá của nông trang, và tùy từng con mà có thêm tiền thưởng công vỗ béo. Đồng chí chủ tịch ạ, đồng chí cũng thừa hiểu lao động thợ mỏ là lao động nặng nhọc, và phải nuôi công nhân mỏ chúng ta tử tế.
Radơmiốtnốp gõ nhẹ xuống bàn:
- Cho xem giấy.
Hai anh tiếp phẩm đặt lên bàn giấy công tác. Giấy tờ hợp lệ cả: tiêu đề, chữ ký, dấu má, đủ tất, nhưng Radơmiốtnốp cứ xem xét mãi hồi lâu một cách soi mói mấy tờ giấy, không để ý thấy anh chàng Bôikô quay lại nháy mắt với anh giúp việc của mình rồi cả hai mỉm cười vụng với nhau.
- Đồng chí tưởng giấy tờ giả mạo? – Bôikô hỏi, lần này đã mỉm cười cởi mở, và chẳng đợi mời, ngồi luôn xuống chiếc ghế đặt bên cửa sổ.
- Không, tôi không cho là giả… Nhưng tại sao các đồng chí lại chọn nông trang chúng tôi? – Radơmiốtnốp không ăn giọng nói đùa, vẫn giữ vẻ nghiêm trang.
- Đâu phải chúng tôi chọn nông trang các đồng chí. Chúng tôi không chỉ đến nông trang các đồng chí mà thôi. Chúng tôi đã đi sáu nông trang quanh vùng, đã thu mua được năm chục đầu con, trong đó có ba đôi bò già, bê, bò cái hết sữa, cừu và khoảng ba chục lợn…
- Ba mươi bảy, - anh chàng vai bè bè vẫn đứng bên cửa, đưa con số cụ thể nhắc thủ trưởng của mình.
- Đúng, ba mươi bảy đầu lợn, và với giá phải chăng. Xong ở đây, chúng tôi còn đi một số trang ấp khác.
- Trả tiền ngay chứ? – Radơmiốtnốp hỏi.
- Tiền trao cháo múc! Nói thực thì chúng tôi không đem theo nhiều tiền mặt đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, đồng chí biết đấy, thời buổi nhiễu nhương, chả nêm đem mỡ nhử miệng mèo… Để thanh toán chúng tôi có tín phiếu.
Radơmiốtnốp ngả người ra lưng ghế, cười khà khà:
- Các anh mà cũng sợ bị móc túi à? Có các anh lộn túi và lột áo người ta thì có!
Bôikô kín đáo cười. Trên đôi má hồng hào như má con gái của anh ta hiện ra hai lúm đồng tiền. Khigiơnhiắc thì vẫn tỉnh bơ như không, lơ đãng nhìn ra cửa sổ, Radơmiốtnốp mới để ý thấy má trái của anh ta có một vết sẹo sâu, kéo dài từ cằm đến dái tai. Anh hỏi:
- Chiến tranh để lại cho anh cái dấu trên má ấy đấy à?
Khigiơnhiắc quay phắt lại, khẽ nhếch mép cười:
- Đâu phải chiến tranh! Sau chiến tranh tôi mới vớ được nó…
- Tôi cũng đoán thế, nom không có vẻ một nhát kiếm chém. Chắc là chị ấy cào hả?
- Không, cô ấy lành lắm. Đó là một lần say rượu, một ông bạn cố tri chơi cho một nhát dao găm…
- Điển trai như anh thì tôi nghĩ là anh bị chị ấy vạc mặt ra, nhưng nếu không phải chị ấy thì chắc cũng là do chuyện gái, phải không? – Radơmiốtnốp làm ra bộ ngây thơ hỏi tiếp, vừa hỏi vừa vuốt ria cười.
- Đồng chí đoán giỏi lắm, đồng chí chủ tịch ạ.. – Khigiơnhiắc mỉm cười châm biếm.
- Nghề của tôi là phải biết đoán… Và vết sẹo của anh không phải do dao đâm, mà do kiếm chém, chuyện này thì tôi có kinh nghiệm. Và tôi còn thấy là anh không phải một anh tiếp phẩm, cũng như tôi không phải một lão thầy cả vậy… Cái mặt mũi anh không phải mặt mũi dân đen, tay anh cũng vậy: hai bàn tay xem ra bình sinh chưa túm vào cái sừng bò, hai bàn tay quý phái.. Có rắn đấy, nhưng trắng nõn.. Lẽ ra anh nên đem nó ra phơi nắng, cho đen đen đi một tí, và trát tí phân bò vào, như thế may ra tôi mới tin được anh là một anh tiếp phẩm. Còn như anh chỉ vung vẩy cái roi thế thôi thì vô ích, cái roi làm sao che được mắt tôi!
- Đồng chí đoán giỏi thật đấy, đồng chí chủ tịch ạ, - Khigiơnhiắc nhắc lại, nhưng lần này thì không cười ruồi nữa. – Nhưng mới giỏi một nửa thôi: sẹo của tôi đúng là sẹo kiếm chém, có điều là thừa nhận như thế nó cũng hơi phiền phiền, tôi không muốn. Xưa kia tôi đi bạch vệ, và bị đánh cái dấu này vào mặt đây. Chuyện ấy ai còn muốn nhắc đến làm gì. Còn chuyện tay thì tôi không phải dân dắt bò, tôi chỉ đi mua bò thôi. Công việc của tôi là đếm giấy bạc xì ra, chứ không phải việc túm đuôi bò. Đồng chí thắc mặc về cái bộ dạng của tôi hả đồng chí Radơmiốtnốp? Thì tôi cũng chỉ mới đi là tiếp phẩm ít lâu nay thôi mà. Trước, tôi làm kỹ sư nông nghiệp, nhưng vì cái tính nát rượu nên bị cách chức, đâm ra phải đổi nghề… Bây giờ đồng chí đã rõ chưa, hả đồng chí chủ tịch? Đồng chí buộc tôi phải nói thật, thì tôi cũng đành phải xưng tội với đồng chí…
- Tôi cần đến lời xưng tội của anh cũng như con chó cần có thêm chân thứ năm vậy. Để rồi GPU họ sẽ bảo anh xưng tôi, và giải tội cho anh nếu họ muốn, còn tôi thì không dính dáng gì vào chuyện ấy. – Radơmiốtnốp nói, rồi vẫn ngồi nguyên như thế, réo gọi: - Maria! Ra đây tôi bảo!
Cô trực nhật đang ở phòng bên rụt rè bước ra.
- Chạy gọi cho tôi anh Nagunốp. Bảo anh ấy ba chân bốn cẳng đến ngay trụ sở Xôviết, có việc rất cần. – Radơmiốtnốp ra lệnh, mắt nhìn chằm chằm đầu tiên là vào Khigiơnhiắc, rồi nhìn sang Bôikô.
Khigiơnhiắc ra ý phân vân, và tự ái nhún đôi vai rộng bè bè, ngồi xuống tấm ghế dài quay mặt đi. Còn Bôikô thì cố nhịn cười, toàn thân rung bần bật như cái lò xo, rồi cuối cùng thốt lên bằng giọng nam cao:
- Thế mới gọi là cảnh giác cao! Cái lối ấy là mình rất ưa! Chết chửa, đồng chí Khigiơnhiắc ơi? Chết thẳng cẳng như gà nhảy vào nồi cháo nhá!
Anh ta vỗ đôm đốp lên hai cái đầu gối nần nẫn của anh ta, cúi gập người xuống mà cười, nom hồn nhiên đến nỗi Radơmiốtnốp nhìn anh ta mà không dấu nổi ngạc nhiên:
- Anh béo này cười cái gì? Cười vừa chứ kẻo rồi lên huyện lại khóc hết nước mắt đấy! Các anh bực thì cũng mặc xác các anh, tôi cứ cho giải các anh lên huyện để xác minh ngay gian. Tôi ngờ các anh lắm, các đồng chí tiếp phẩm ạ.
Gạt hai giọt nước mắt vì cười mà ứa ra, và đôi môi dày mọng vẫn còn méo xệch vì chưa hết buồn cười, Bôikô hỏi:
- Thế giấy tờ của chúng tôi, đồng chí đã kiểm tra rồi đấy, và thừa nhận không phải là giả mạo kia mà?!
- Giấy tờ là một chuyện, nhưng đội lốt giấy tờ lại là chuyện khác. – Radơmiốtnốp cau mặt lại nói, rồi lấy thuốc lá từ tốn cuốn một điếu.
Lát sau thì Nagunốp tới. Chẳng chào ai, anh hất hàm về phía hai anh tiếp phẩm, hỏi Radơmiốtnốp:
- Những người nào đây?
- Hỏi người ta ấy!
Nagunốp bảo họ đưa xem công lệnh, hỏi họ vài câu rồi quay sang Radơmiốtnốp:
- Thế thì có chuyện gì nhỉ? Cậu gọi mình sang đây làm gì? Những người này đến đây thu mua gia súc, thì cứ để người ta mua.
Radơmiốtnốp sôi lên, nhưng vẫn nói bằng giọng khá bình tĩnh:
- Không, không mua bán gì cả, trong khi tôi chưa xác minh được ngay gian. Có chuyện gì hả? Có chuyện là tôi nom mặt không ưa hai cái anh này lắm! Tôi cho giải lên huyện kiểm tra lại xem sao đã, rồi muốn mua bán gì thì mua.
Bấy giờ Bôikô mới khẽ nói:
- Đồng chí Radơmiốtnốp, đồng chí bảo cô nhân viên kia ra ngoài đi. Tôi có việc muốn nói.
- Các anh với tôi thì có chuyện gì bí mật cần nói với nhau nhỉ?
- Tôi bảo thì đồng chí cứ làm đi, - Bôikô nhắc lại vẫn khẽ như thế, nhưng đã bằng giọng ra lệnh.
Và Radơmiốtnốp chịu thua. Khi chỉ còn mình họ trong phòng, Bôikô rút ở túi trong tấm áo vettông ra một tấm thẻ đỏ nhỏ, mỉm cười đưa cho Radơmiốtnốp:
- Đọc đi, ông tổ sư ranh! Đóng kịch với ông không xong thì phải mở bài ra với ông vậy. Đầu đuôi là thế này, các đồng chí ạ: hai chúng tôi là nhân viên công anh của khu được phái về đây truy lùng một kẻ thù chính trị nguy hiểm âm mưu phiến loạn, một tên phản cách mạng điên cuồng. Để khỏi lộ, chúng tôi phải đóng vai nhân viên tiếp phẩm. Như thế hoạt động dễ hơn: chúng tôi cứ la cà các nhà, chuyện trò với bà con, và chúng tôi hy vọng sớm muộn sẽ phát hiện được tung tích tên phản cách mạng ấy.
- Đồng chí Glukhốp ơi, sao đồng chí không nói ngay từ đầu cho chúng tôi biết các đồng chí là ai? Như thế có phải đã tránh được hiểu lầm nhau không! – Radơmiốtnốp thốt lên.
- Nguyên tắc hoạt động bí mật, Radơmiốtnốp thân mến ạ! Nói cho anh, cho Đavưđốp và Nagunốp biết thì chỉ một tuần sau là toàn Grêmiatsi Lốc này sẽ biết chúng tôi là ai. Lạy Chúa, các anh đừng tự ái, đây không phải là vấn đề chúng tôi không tin anh, nhưng đáng tiếc là vẫn thường xảy ra như vậy. Chúng tôi không được phép hành động bất cẩn trong một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn đối với chúng ta như vậy. – Bôikô-Glukhốp đút tấm thẻ đỏ vào túi sau khi Nagunốp đã xem qua, và giải thích bằng một giọng bề trên.
- Các đồng chí có thể cho biết đang truy lùng tên nào không? – Nagunốp hỏi.
Bôikô-Glukhốp không đáp, lục tìm trong chiếc ví to tướng, rồi cẩn thận đặt vào lòng bàn tay chuối mắn của anh một tấm ảnh cỡ chứng minh thư.
Radơmiốtnốp và Nagunốp cúi xuống mặt bàn xem. Trên mảnh giấy nhỏ hình chữ nhật, một người đàn ông đứng tuổi, vai ngang chằn chặn, cổ bạnh như cổ bò, đang hiền lành mỉm cười với các anh. Nhưng cái nụ cười làm ra hiền lành ấy chẳng ăn nhập gì với cái trán như trán chó sói, với đôi mắt quằm quặm sâu hoắm, với cái cằm bạnh của hắn ta. Nagunốp xem chỉ cười khẩy một cái, còn Radơmiốtnốp thì lắc đầu nhận xét:
- Ông anh nom hắc gớm nhỉ!
- Chúng tôi đang lùng cái “ông anh” này đây, - Bôikô-Glukhốp trầm ngâm nói, rồi cũng cẩn thận như lúc giở ra, anh gói nó lại vào một tờ giấy trắng sờn mép và cất vào cái ví. Tên họ nó là Alếchxanđrơ Anhiximôvits Pôlốptxép. Nó nguyên là quan ba bạch vệ, trong đội quân tiễu phạt, đã tham gia trận tàn sát phân đội Pốtchenkốp và Krivôslưkốp. Sau này nó đội một tên giả, đi làm nghề dạy học, rồi về quê sống. Nó là một trong những phần tử hoạt động tích cực nhất chuẩn bị một cuộc nổi loạn chống Chính quyền xôviết. Theo các nguồn tin báo cáo của chúng tôi thì nó đang lẩn quất đâu đây trong huyện các đồng chí. Đây là tất cả những gì tôi có thể nói được với các đồng chí về tên ấy. Các đồng chí có thể truyền đạt lại cho Đavưđốp chuyện ta vừa nói, ngoài ra không được hé răng với ai điều gì. Tôi tin ở các đồng chí. Thôi, xin chào. Các đồng chí không nên gặp chúng tôi, tất nhiên là nếu không có việc gì cần, còn như nếu các đồng chí có tin gì hay cần báo cho chúng tôi thì cứ gọi tôi đến trụ sở xôviết vào lúc ban ngày, và chỉ ban ngày thôi, để bà con dân làng khỏi có ý gì nghi ngờ tôi. Một điều cuối cùng: các đồng chí nên mười phần cảnh giác! Nói chung là không nên đi đêm. Pôlốptxép không dám manh động, nó không muốn bị lộ, nhưng cảnh giác vẫn không phải thừa. Nói chung là các đồng chí không nên đi đêm, và nếu phải đi, không nên đi một mình. Vũ khí bao giờ cũng phải bất ly thân, tôi khuyên các đồng chí như thế mặc dù xem ra thì các đồng chí cũng chẳng để ly thân đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, tôi nghe thấy đồng chí, trong khi lời đi tiếng lại với Khigiơnhiắc, hai lần quay ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi quần, có phải không?
Radơmiốtnốp nheo mắt lại quay đi làm như không nghe thấy câu hỏi. Nagunốp đỡ lời anh:
- Sau lần tôi bị chúng nó bắn, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng tự vệ.
Bôikô-Glukhốp mỉm cười tế nhị, nói:
- Chẳng những tự vệ mà tấn công nữa chứ nhỉ… Đồng chí Nagunốp ạ, tiện đây tôi nói đồng chí biết thằng Chimôphây Đamaxkốp tức Mũi toác mà đồng chí đã bắn chết, có một hồi cũng tham gia tổ chức của Pôlốptxép, và tổ chức ấy cũng có một số chân rết trong làng này. – Anh chàng “tiếp phẩm” cái gì cũng biết kia làm như tiện thể nói chơi. – Nhưng về sau chưa rõ vì lý do gì nó đã cắt đứt với bọn kia. Nó bắn đồng chí không phải theo lệnh Pôlốptxép, mà có lẽ vì lý do cá nhân thì đúng hơn…
Nagunốp gật gù tán thành, và Bôikô-Glukhốp nói tiếp một thôi dài, giọng đều đều và rành rọt như đọc thuyết trình:
- Việc việc thằng Chimôphây Đamaxkốp vì một lý do gì đã đã cắt đứt với nhóm của Pôlốptxép, biến thành một tên trộm cướp hoạt động lẻ, ta có một chứng cớ là nó đã không đưa cho bọn đồng đảng của Pôlốptxép khẩu đại liên mà nó đã giấu từ hồi nội chiến trong kho thóc nhà nó mà vừa rồi Đavưđốp đã phát hiện. Nhưng vấn đề không phải chuyện ấy. Tôi xin nói qua về nhiệm vụ của chúng tôi: chúng tôi có nhiệm vụ lùng bắt chỉ một thằng Pôlốptxép, và nhất thiết phải bắt sống. Trước mắt, ta đang cần một thằng Pôlốptxép còn sống. Cơ sở chân rết của nó ta sẽ chặt sau. Tôi phải nói thêm rằng Pôlốptxép chỉ là một khâu của cả một dây chuyền lớn, nhưng cái khâu ấy không kém phần quan trọng. Cho nên việc lùng bắt nó được giao cho chúng tôi chứ không giao cho anh em cơ quan an ninh huyện… Để các đồng chí khỏi còn điều gì bực với tôi, tôi xin nói rõ là việc chúng tôi về hoạt động ở huyện này chỉ có một mình đồng chí phụ trách GPU huyện được biết thôi. Ngay cả đồng chí Nextêrenkô cũng không biết. Đồng chí ấy là bí thư huyện ủy, và xét cho cùng thì hai anh tiếp phẩm tép riu có đáng gì cho đồng chí ấy phải bận tâm? Cứ để đồng chí ấy lo công việc của đảng bộ, còn chúng tôi sẽ lo công việc của chúng tôi… Và phải nói rằng tại các nông trang chúng tôi đã qua trước khi tới đây, chúng tôi đóng vai kịch của mình có kết quả mĩ mãn, và chỉ có mình anh thôi, Radơmiốtnốp ạ, đã nghi Khigiơnhiắc, và từ đó nghi cả tôi không phải nhân viên tiếp phẩm thực thụ. Và đó là một điều vinh dự cho anh đã có đầu óc nhận xét. Nhưng nếu chẳng xảy ra như vậy thì đằng nào cũng chỉ hai hôm nữa thôi, chúng tôi cũng phải để các đồng chí biết chúng tôi là ai, và lý do là: cái khiếu nghề nghiệp đã làm cho tôi đánh hơi thấy Pôlốptxép đang lẩn quất ở một xó xỉnh nào đó trong làng các đồng chí… Chúng tôi sẽ cố tìm cho ra những bạn đồng ngũ của hắn trong cuộc chiến tranh Nga – Đức và trong nội chiến. Chúng tôi biết rõ ngài Pôlốptxép trước kia là sĩ quan những đơn vị nào, và phần nhiều chắc chắn là ngài đang ẩn náu ở nhà những người lính cũ của ngài. Đó, tất cả tóm tắt là thế. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau trước khi chúng tôi rút khỏi đây, còn bây giờ, ta chia tay!
Ra đến ngưỡng cửa rồi, Bôikô-Glukhốp còn quay sang nhìn Nagunốp:
- Cậu muốn biết tin cô ấy không?
Hai gò má Maka đỏ tía lên từng mảng và mắt anh tối sầm lại. Anh hắng giọng, hỏi nhỏ:
- Các anh biết hiện nó ở đâu à?
- Biết.
- Ở đâu?
- Ở thành phố Sakhơtư.
- Nó làm gì ở đấy? Nó chả có một mống bà con thân thuộc nào ở đấy cả.
- Cô ấy đi làm.
- Làm vương làm tướng gì thế không biết? – Maka chua chát cười khẩy.
- Làm mỏ, đẩy xe goòng. Cộng tác viên của chúng tôi đã giúp cho cô ấy kiếm được việc làm. Nhưng tất nhiên là cô ấy không hề ngờ ai đã kiếm giúp việc làm cho cô ấy… Và phải nói rằng cô ấy làm việc rất tốt, có thể nói là hết sức tốt mữa kia! Thái độ rất đúng mực, không bắt thêm một quan hệ mới nào, còn những người quan hệ cũ thì cho tới nay không thấy ai đến thăm.
- Còn ai là người đến thăm nó nữa? – Nagunốp khẽ nói.
Bề ngoài nom anh hoàn toàn thản nhiên, duy chỉ có mi mắt trái anh cứ rung rung.
- Thiếu gì ai… Hãy cứ nói bè cánh thằng Chimôphây thôi. Cậu định hoàn toàn loại trừ khả năng ấy sao? Mình thì mình cho là cô ấy đã suy nghĩ lại, đang làm lại cuộc đời, và Nagunốp ạ, cậu có thể yên tâm về cô ấy.
- Thế dễ anh tưởng tôi lo cho nó đấy phỏng? – Nagunốp hỏi vặn lại, giọng nghe càng nhỏ hơn, và đứng dậy, người hơi ngả về đằng trước và hai bàn tay dài chống xuống mép bàn.
Mặt anh tái nhợt như mặt người chết, hàm anh nghiến nổi cuộn lên dưới hai gò má. Chọn từng lời, anh nói chậm rãi hơn thường lệ:
- Này, anh đồng chí lắm lời ơi, anh đến đây làm nhiệm vụ phỏng? Vậy đi mà làm đi, không việc gì phải động viên an ủi tôi, tôi không cần đến những lời an ủi của anh. Và những lời dặn dò của anh nữa, chúng tôi cũng không cần: nên đi đêm hay đi ngày, đó là việc của chúng tôi. Chẳng cần những lời dạy bảo ngây ngô ấy và chẳng cần vú già, chúng tôi vẫn cứ sống được như thường! Anh rõ chưa? Anh xéo đi cho được việc. Anh mà còn cứ lẩm nhẩm, trong bụng có gì dốc ra sạch, thế mà cũng tự xưng với tôi là nhân viên GPU, tôi không hiểu nổi: anh có phải một cán bộ có trọng trách của cơ quan an ninh khu không, hay khéo lại đúng là một anh buôn bò thật, một anh mối lái, hoặc như chúng tôi ở đây thường gọi, một dân cò mồi…
Anh chàng Khigiơnhiắc ít nói cứ cười thầm trong bụng mà nhìn thủ trưởng của mình đứng ngây tán tàn. Còn Nagunốp thì rời khỏi bàn, sửa lại thắt lưng áo varơi rồi đi ra cửa, người ưỡn thẳng như thường lệ, và có lẽ anh đã làm điệu bộ hiên ngang nhà võ cũng hơi quá đáng một tí.
Anh đi rồi, trong phòng diễn ra một phút im lặng nặng nề.
- Có lẽ cũng không nên nhắc đến chuyện cô vợ với anh ta thì hơn, - Bôikô-Glukhốp gãi gãi sống mũi, nói. – Xem có vẻ anh ta vẫn còn đau vì chuyện cô ta bỏ đi…
- Đúng, không nên…, - Radơmiốtnốp đồng ý. – Cậu Maka chúng tôi là người dễ động lòng, và không thích bị ai giẫm chân bẩn vào trái tim trong sạch của cậu ấy…
- Không sao, rồi sẽ qua đi. – Khigiơnhiắc nói giàn hòa, miệng nói tay cầm lấy quả đấm cửa.
Để phá tan cái không khí nặng nề, Radơmiốtnốp hỏi:
- Đồng chí Glukhốp ạ, tôi thắc mắc muốn hỏi đồng chí: cái chuyện mua lợn bò thì thế nào? Đồng chí sẽ mua thật hay chỉ la cà các nhà, mặc cả xong bỏ đấy?
Câu hỏi thật thà quá làm Bôikô-Glukhốp tươi tỉnh lên và hai lúm đồng tiền lại hiện ra trên đôi má bánh đúc của anh:
- Đồng chí quả là một người có đầu óc làm ăn! Bò lợn chúng tôi cũng sẽ mua, và tiền cũng sẽ thanh toán sòng phẳng. Và về số phận của số bò lợn ấy, đồng chí có thể yên tâm: chúng sẽ được đưa về thành phố Sakhơtư, và thịt mổ ra anh em thợ mỏ sẽ chén thoải mái. Họ chén, và sẽ chẳng gửi lời cảm ơn chúng tôi đâu, vì họ sẽ chẳng rõ cơ quan cấp trên nào mà đã chạy cho họ được cái loại thực phẩm thượng hạng ấy. Vấn đề là thế đấy, người anh em ạ!
Tiễn khách xong, Ra còn ngồi hồi lâu bên bàn, xoạc rộng hai khuỷu tay chống lên má. Một ý nghĩ đã làm anh áy náy không yên: “Trong dân làng, kẻ nào mà lại đi bám đít cái thằng sĩ quan chó chết ấy nhỉ?”. Anh điểm qua lại trong đầu tất cả những dân kôdắc đứng tuổi trong ấp Grêmiatsi này, nhưng không có ai làm anh thấy đáng nghi cả…
Radơmiốtnốp rời bàn đứng dậy cho đỡ mỏi, đi đi lại lại ba lần từ cửa lớn đến cửa sổ, rồi bỗng đứng sững lại giữa phòng, cứ như va đầu vào một bức tường vô hình, và lo lắng nghĩ bụng: “Cái anh béo ấy tự nhiên lại đi khơi lại vết thương của cậu Maka! Việc đếch gì mà phải lôi chuyện con Luska ra nói với cậu ấy? Thế ngộ nhỡ hắn nhớ rồi lao đi Sakhơtư thăm ả thì sao? Ít lâu nay nom cậu ấy cứ bần thần, bề ngoài không để lộ ra, nhưng có vẻ là đêm nào cũng ngồi nốc rượu vụng một mình thì phải…”.
Liền mấy hôm Radơmiốtnốp cứ thấp tha thấp thỏm không biết rồi Maka sẽ giở trò gì? Rồi đến thứ bảy, vào buổi chiều, có mặt cả Đavưđốp, khi Maka cho biết đã báo cáo huyện ủy để đi đến làng Martưnốpxkaia tham quan một trong những trạm máy kéo đầu tiên của vùng sông Đông này thì Radơmiốtnốp kêu thầm trong bụng: “Hỏng to rồi! Hắn đi thăm con Luska! Ôi ông Maka ơi, lòng kiêu hãnh của ông để đâu mất rồi?..”.
Tập II - Chương 20
Ngay từ hồi đầu xuân, khi mà ngay cả tuyết chất đống bên hàng giậu phía bắc đã bắt đầu lún xuống và tan chảy thành một lạch nước trong vắt, một đôi bồ câu trời đã tới chọn ngôi nhà của Radơmiốtnốp làm nơi trú ngụ. Chúng lượn hồi lâu trên trời, mỗi vòng lượn lại xuống thấp một chút, rồi hạ cánh xuống tận đất, chỗ cạnh nhà kho, rồi lại vỗ cánh bay vù lên mái đậu. Chúng đậu đó hồi lâu, ngó ngoáy hai cái đầu nhỏ xíu tò mò nhìn khắp bốn bề, như muốn làm quen với chỗ ở mới. Rồi với một điệu bộ khinh khỉnh đỏm dáng, con trống nhấc cao hai cái chân màu đỏ mận đi một vòng trên lớp vôi bẩn rắc xung quanh ống khói. Nó rụt cổ lại, đầu hơi ngả ra sau, cái ức nở phồng đùng đục ánh lên màu ngũ sắc, và cất giọng dè dặt gáy gù gù. Còn con mái thì buông cánh sà xuống; với hai lần vỗ cánh phành phạch nó lượn nửa vòng, rồi đậu lên cái gờ mái cửa sổ phòng Radơmiốtnốp. Hai lần vỗ cánh của nó còn có thể có ý nghĩa gì khác hơn là mời anh bạn tình hãy bay theo mình?
Nửa ngày Radơmiốtnốp về nhà ăn trưa thì từ ngoài cổng anh đã trông thấy đôi chim đậu bên ngưỡng cửa. Con mái đang thoăn thoắt đôi chân xinh xinh chạy quanh cái vũng nước tuyết tan, vừa chạy vừa mổ mổ đó đây. Con trống nhảy nhảy theo sau, dừng lại một tí, quay tròn một vòng, cúi rạp đầu chào, thấp đến nỗi mỏ và ức nó gần chạm đất. Rồi nó gù gù rối rít và lại đuổi theo con mái, đuôi xòe ra như cái quạt, bụng quét sát mặt đất ẩm ướt và giá lạnh như những ngày đông khắc nghiệt. Nó cứ nhất định đi bên trái, để đẩy con mái tránh vũng nước.
Radơmiốtnốp rón rén bước qua cách chúng hai bước, nhưng đôi chim cũng chẳng buồn cất cánh bay, chỉ né sang bên một tí. Đặt chân lên ngưỡng cửa, Radơmiốtnốp đã quyết định với một thái độ nhiệt tình và phấn khởi của trẻ thơ: “Đây không phải hai vị khách trọ đâu, đây là hai ông bà chủ đã về!”. Và với một nụ cười chua chát, anh nghĩ thầm, hay hình như thì thào ra miệng: “Chúng đến để mang chút hạnh phúc muộn màng cho mình đây, chắc thế chứ không thể khác được…”.
Anh vốc đầy một nắm thóc trong hòm, ném vãi ra trước cửa sổ.
Từ sáng Radơmiốtnốp cứ hậm hực bực dọc: công việc chuẩn bị vụ gieo, việc chọn giống tiến hành ì à ì ạch; ngày hôm nay Đavưđốp phải lên huyện; Nagunốp thì cưỡi ngựa ra đồng, để tận mắt kiểm tra lại những thửa ruộng sắp gieo, và Radơmiốtnốp thì cho đến trưa đã kịp đấu khẩu mấy trận kịch liệt với hai tay đội trưởng và lão thủ kho. Và bây giờ đây, ngồi bên bàn ăn, anh quên cả món xúp bắp cải đang nguội tanh trong bát, ngồi nhìn đôi chim bồ câu, và gương mặt xám gió xuân của anh như sáng lên, nhưng lòng anh lại nặng trĩu…
Nụ cười buồn bã trên môi, anh đưa hai con mắt như mờ sương nhìn con mái nhỏ nhắn xinh xắn đang mổ thóc hau háu trong khi anh chàng trống đẹp mã cứ lượn, lượn hoài quanh nó không biết mệt, chẳng thèm mổ lấy một hạt thóc.
Thì hai mươi năm về trước, chính anh, Anđrây, hồi ấy còn trẻ và cũng đẹp mã như anh chàng bồ câu trống kia, cũng đã từng lượn quanh người đẹp của anh như vậy. Rồi lấy vợ, đi quân dịch, chiến tranh… Cuộc đời đã trôi đi, nhanh một cách đáng sợ và tàn nhẫn lạ lùng! Nhớ đến vợ và mụn con nhỏ, Radơmiốtnốp buồn bã nghĩ bụng: “Vợ con còn sống mình chả mấy khi gặp, và bây giờ chết rồi, mình cũng chả mấy khi viếng thăm…”.
Vào cái ngày tháng Tư nắng ấm huy hoàng như thế này thì con bồ câu trống kia còn thiết gì nghĩ đến ăn? Và Anđrây Radơmiốtnốp cũng chẳng thiết ăn. Anh đưa đôi mắt rơm rớm ướt chứ không phải là mờ đục hơi sương nữa, vô tri vô giác nhìn ra cửa sổ. Qua khung cửa sổ, chẳng phải anh nhìn đôi chim bồ câu kia, chẳng phải nhìn cái màu xanh mơn mởn của mùa xuân, mà là thấy hiện lên trước mắt mình hình ảnh đau đớn của người anh đã một lần yêu và yêu suốt đời, có lẽ yêu còn hơn cả bản thân cuộc đời nữa, vậy mà đã không được yêu trọn vẹn và phải xa lìa nhau vì một cái chết thê thảm cách đây mười hai năm về trước, có lẽ vào một ngày xuân cũng huy hoàng như hôm nay đây…
Radơmiốtnốp ngồi nhai bánh, đầu cúi gằm xuống bát xúp: anh không muốn để mẹ trông thấy những giọt nước mắt đang lăn trên gò má anh, làm mặn thêm bát xúp chẳng thế cũng đã quá mặn rồi. Hai lần anh nhấc thìa lên, và cả hai lần cái thìa lại rơi xuống bàn, tuột khỏi bàn tay run rẩy bẩy và yếu dại đi một cách lạ lùng của anh.
Trong đời chúng ta thường có những lúc mà hạnh phúc bé nhỏ của một đôi chim thôi, chứ chưa nói của con người cũng gợi cho một trái tim yêu thương không phải là sự ghen tị, không phải là sự mỉa mai chua chát, mà là những ký ức đầy đau đớn xót xa không gì xoa dịu nổi… Radơmiốtnốp dứt khoát buông bát đứng dậy, quay lưng ra phía mẹ, khoác áo bông vào, cầm chiếc mũ lông nắm trong tay, nói:
- Giêsu lạy Chúa tôi, không hiểu sao hôm nay con ăn không thấy ngon, mẹ ạ!
- Không thích ăn xúp thì để mẹ nấu cháo ăn với sữa chua vậy?
- Thôi, con chả muốn ăn gì.
- Hay là lại có chuyện gì buồn? – Bà mẹ dè dặt hỏi.
- Có chuyện gì mà buồn. Buồn là chuyện ngày xưa, nó qua rồi.
- Anđrây ạ, từ hồi bé tính con cứ kín đáo thế… Chả bao giờ nói chuyện gì, chả bao giờ than thở với mẹ cả… Xem ra tim con là hòn đá thì phải…
- Mẹ đẻ ra con, mẹ lại còn trách gì con. Mẹ sinh ra con thế nào thì nó nên thế, biết làm sao được!
- Nói thế thì tôi cũng chịu anh! – Bà lão tự ái cắn đôi môi tái nhợt, nói.
Ra khỏi cổng, Radơmiốtnốp không rẽ phải, đi về trụ sở Xôviết, mà ngoặt trái, đi ra thảo nguyên. Anh sải chân, lững thững bước một tắt đường đi thẳng tới một làng Grêmiatsi Lốc khác, nơi từ ngày xửa ngày xưa chỉ có những người đã chết đến chen chúc trú ngụ với nhau trong cảnh thanh bình. Nghĩa địa đã bị nhổ hết rào giậu. Trong những năm tháng khó khăn này, người sống đâu có quan tâm lo lắng cho người đã chết… Những cây thập tự cũ kỹ, mốc đen đi với thời gian, cứ đổ xiêu đổ vẹo, một số nằm bẹp dưới đất, cái nằm sấp, cái nằm ngửa. Không một ngôi mộ nào được sửa sang và trên những gò đống đất sét, ngọn gió đông buồn bã lay động hàng cỏ dại mùa năm ngoái, sẽ sàng rung những bụi cây ích mẫu khô héo, bạc thế, cứ như có một bàn tay phụ nữ mềm mại nào đang lần lần sửa sang chúng. Một mùi mục rữa, hương cỏ héo và mùi đất đen đã tan băng quyện vào với nhau, phảng phất trên lớp mộ.
Bất cứ một nghĩa địa nào vào bất cứ mùa nào trong năm bao giờ cũng gieo buồn vào lòng người sống, nhưng vào những ngày đầu xuân và cuối thu thì cái buồn ấy càng đặc biệt day dứt, tê tái, gỡ không ra.
Lần theo lối mòn do vết chân bò giẫm, Radơmiốtnốp đi theo hướng bắc ra phía ngoài hàng rào, nơi xưa kia người ta chôn những người tự vẫn. Anh dừng chân bên một ngôi mộ quen thuộc, bốn góc đã sụt lở, bỏ mũ ra và cúi gập mái tóc hoa râm xuống. Chỉ có những con chim sơn ca khua động cảnh trầm lặng của mảnh đất bị con người quên lãng này mà thôi.
Trong cái ngày xuân rạng rỡ anh nắng, tràn đầy sự sống mới tỉnh dậy này, Anđrây đến đây để làm gì nhỉ? Phải chăng để đứng lồng mười ngón tay ngắn trùng trục vào với nhau, nghiến chặt răng, lim dim đôi mắt nhìn về phía chân trời mờ sương kia, như cố tìm lại đằng sau cái màn khói ấy cái thời tuổi trẻ không bao giờ quên được và cái hạnh phúc ngắn ngủi của anh? Có thể như thế lắm. Bởi vì cái quá khứ thân yêu đã chết đi bao giờ cũng hiện lên rõ ràng hơn cả hoặc vào lúc người ta đang đứng trong một nghĩa địa, hoặc giữa bóng tối thầm lặng của những đêm mất ngủ…
* * *
Từ ngày hôm ấy, Radơmiốtnốp trở thành ông thần hộ mệnh của đôi chim bồ câu đến trú ngụ ở nhà anh. Ngày hai lần, anh vãi một nắm thóc ra dưới cửa sổ rồi đứng canh, xua đi những ả gà mái láo xược cứ lăn xả vào, cho đến khi đôi bồ câu đã đầy diều mới thôi. Sáng sáng, từ tinh mơ, anh cứ ngồi hồi lâu trên ngưỡng cửa nhà kho hút thuốc, lặng lẽ xem đôi vợ chồng khách trọ mới tha rơm, tha những mẩu cành con, tha những sợi lông bò dính vào hàng giậu lên chỗ gờ mái cửa sổ. Chẳng bao lâu cái tổ đan sơ sài đã xong, và Radơmiốtnốp thở dài một cái nhẹ nhõm: “Định cư rồi! Bây giờ thì chúng sẽ chẳng bay đi đâu cả!”.
Hai tuần sau thì con mái không xuống ăn thóc nữa. Radơmiốtnốp cười nụ: “Ấp rồi. Cái hộ ấy sắp có thêm nhân khẩu”.
Từ ngày có đôi chim bồ câu anh thêm khối việc bận: đến bữa phải cho chúng ăn, thay nước uống ở bát, vì các vũng quanh hè đã cạn ráo, và ngoài ra còn có một việc tối ư cần thiết là phải canh phòng cẩn mật bảo vệ đôi bồ câu tội nghiệp không có khả năng tự vệ.
Một hôm ra đồng về, từ ngoài ngõ Radơmiốtnốp đã trông thấy con mèo già – con mèo cưng của mẹ anh – đang bò rạp mình trên mái tranh, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống bám vào mép cánh cửa mở hé, ngoe nguẩy đuôi chuẩn bị vồ. Con bồ câu mái vẫn ngồi yên trong tổ, quay lưng về phái con mèo, rõ ràng không hề cảm thấy nó đang bị đe dọa. Nó đang cách cái chết cả thảy chỉ có bốn mươi phân.
Radơmiốtnốp nhón chân chạy tới. Anh rút phắt khẩu súng lục trong túi ra, nín thở, đôi đồng tử co lại nhìn con mèo không rời. Và khi còn mèo vừa lùi lại một tí, hai chân trước khẽ nhún nhún lấy đà, thì một phát súng nổ đanh, sượt mép trên cánh cửa sổ. Con bồ câu bay vù đi, còn con mèo thì bị viên đạn xuyên suốt, rơi chúc đầu xuống chân tường, nom như một cái bọc rơi.
Nghe tiếng súng nổ, bà mẹ Anđrây ở trong nhà chạy bổ ra.
- Cái xẻng đâu hả mẹ? – Anđrây nhanh nhảu hỏi, thản nhiên như không có việc gì xảy ra.
Anh đang xách cái đuôi mèo chết và nhăn mặt lại ghê tởm.
Bà lão chắp hai tay lại, kêu làng kêu nước:
- Cái thằng uống máu không tanh kia! Bay coi một sinh mạng thật không ra cái gì! Giết một con người hay giết một con mèo, đối với bay và thằng Maka thật chả khác gì nhau. Chúng bay đi lính giết người quen tay rồi, đồ khốn kiếp, bây giờ không được giết chóc thì ruột gan bần thần như thằng nghiện thèm thuốc vậy!
- Này, mẹ đừng có làm ỏm tỏi lên như vậy! – Ông con trai nghiêm khắc ngắt lời bà cụ. – Từ nay đến chết, mẹ hãy quên cái thú nuôi mèo đi! Và đừng nói động đến con và Maka. Con với cậu ấy bây giờ tính đâm ra rất dễ tự ái khi bị ai gọi là đồ nọ đồ kia. Chính vì lòng thương mà chúng con bắn chết tươi, không trượt phát nào, mọi giống nhơ bẩn, dù chúng hai chân hay bốn chân, nó không để cho người ta yên thân mà sống. Mẹ đã rõ chưa? Thôi, mẹ vào nhà đi. Muốn ầm ĩ gì thì vào trong nhà, chứ đứng đường mà làm huyên náo và chửi bới con thì con nhân danh chủ tịch Xôviết, cấm ngặt mẹ đấy.
Suốt tuần lễ bà lão không nói năng một lời với con, và anh càng lấy thế làm mừng: trong tuần lễ ấy anh đã bắn chết tất cả lũ mèo hàng xóm, cả đực lẫn cái, để bảo đảm an toàn lâu dài cho đôi bồ câu của anh. Một hôm đến trụ sở Xôviết, Đavưđốp hỏi:
- Cậu ngứa tay hay sao mà cứ bắn lung tung thế? Không ngày nào tôi không nghe thấy khẩu súng lục của cậu nổ. Tôi hỏi cậu: cậu làm dân hoang mang thế để làm gì? Nếu cần thử súng thì đi ra ngoài đồng cỏ, ở ngoài ấy tha hồ mà đì đoàng, Anđrây ạ, chứ ở đây thì không tiện tí nào, thực tế thế!
- Mình thủ tiêu mèo từng tí một, - Radơmiốtnốp lầm lầm đáp. – Bọn khốn kiếp ấy, không sống được với chúng nó!
Đavưđốp sửng sốt dương đôi lông mày bạc thếch đi vì nắng:
- Mèo gì?
- Mèo đen, mèo lang, mèo mướp! Vớ được con nào giải quyết con ấy.
Môi trên của Đavưđốp rung rung: đó là dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ anh đang ráng hết sức nén trận cười nó cứ muốn phá ra. Radơmiốtnốp biết vậy càng sa sầm mặt xuống, lo ngại giơ tay ra như muốn ngăn.
- Ông lính thủy ơi, ông đừng cười vội! Hãy tìm hiểu đầu đuôi thế nào đã.
- Đầu đuôi thế nào? – Đavưđốp hỏi, mặt nhăn một cách đau khổ và muốn phát khóc lên vì cười. – Chắc là chưa hoàn thành được kế hoạch hợp đồng với Cửa hàng da thú phỏng? Thiếu da thú cho nên cậu…, cho nên cậu phải ra tay chứ gì? Ối giời ơi, Anđrây ơi! Ối giời ơi, mình không chịu nổi nữa…, nói mau lên không mình chết mất bây giờ, chết ngay bên bàn cậu đây…
Đavưđốp ôm đầu, và trên tấm lưng rộng như cánh phản của anh, hai bả vai cứ rung lên bần bật. Radơmiốtnốp chồm dậy như bị ong đốt, và làm om lên:
- Đồ ngu! Đồ dân thành thị ngu ngốc! Bồ câu của tôi đang ấp, chim non sắp nở, thế mà cậu cứ lải nhải “Cửa hàng da thú” với lại “ra tay” hoàn thành kế hoạch… Tôi thiết đếch gì cái cửa hàng da lông ấy? Nhà tôi có tổ bồ câu, tôi phải bảo vệ chúng nó chứ. Đấy, bây giờ cho cậu tha hồ mà cười, cười cho nó vỡ bố cái bụng đi.
Radơmiốtnốp tưởng sẽ bị cười cho một trận nữa, rất ngạc nhiên trước thái độ của Đavưđốp khi nghe anh nói. Đavưđốp chùi vội đôi mắt ướt nhòe, sôi nổi hỏi luôn:
- Chim bồ câu gì? Ở đâu ra thế?
- Mèo gì, rồi lại bồ câu gì, ở đâu ra… Xêmiôn ạ, sao hôm nay cậu độc hỏi tôi những câu dớ da dớ dẩn vậy? – Radơmiốtnốp bực mình nói. – Bồ câu chứ còn bồ câu gì. Bồ câu có hai chân, hai cánh, mỗi con một cái đầu, và đằng đít có một cái đuôi, cả hai đều mặc áo lông và chẳng con đếch nào đi giày cả, nghèo quá nên mùa rét cũng vẫn cứ đi đất. Thế đã đủ chưa?
- Mình không nói chuyện ấy. Mình muốn hỏi nó có phải loại chim nòi không kia. Hồi bé mình cũng chơi chim. Cho nên mình muốn biết chim của cậu thuộc giống gì: bồ câu rừng hay bồ câu gáy, hoặc có thể là giống thày tu hoặc hải âu. Cậu kiếm được đâu ra vậy?
Radơmiốtnốp đã hết cau có, vuốt ria mỉm cười:
- Nó ở kho rơm nhà ai đến ấy, cho nên có lẽ nó là giống bồ câu rơm, và vì nó là khách không mời mà đến cho nên cũng có thể gọi nó là giống bồ câu khách… tầm phơ, hoặc giống ăn chực cũng được, vì nó toàn chén vào tiêu chuẩn của mình, hoàn toàn không tự lực kiếm ăn được… Nói tóm lại, có thể xếp nó vào giống gì thì xếp, tùy cậu.
- Nhưng lông màu gì? – Đavưđốp gặng hỏi, hỏi thực, không đùa.
- Màu bồ câu.
- Nghĩa là thế nào.
- Nó như quả mận chín chưa ai đụng đến, pha thêm tí màu xanh, màu tro.
- À – à – à, bồ câu đá, - Đavưđốp thất vọng kéo dài giọng. Nhưng rồi lập tức lại vui vẻ xoa tay. – Nhưng cậu ạ, bồ câu đá cũng có những con khá ra phết! Phải xem mới biết. Rất thú đấy, thực tế thế!
- Ghé vào nhà mình chơi, rồi cậu sẽ thấy.
Vài hôm sau, Radơmiốtnốp đang đi ngoài đường thì bị một đám trẻ chặn lại. Thằng bạo nhất đám, đứng cách anh một khoảng cách khá xa, cất cái giọng the thé hỏi:
- Chú Anđrây ơi, có phải chú làm thịt mèo phải không?
- Cái gì?! – Radơmiốtnốp nạt nộ bước sấn tới đám trẻ.
Bọn chúng chạy tóe ra như một đàn chim sẻ, nhưng một phút sau lại tụ vón lại.
- Ai bảo với chúng mày tao làm thịt mèo? – Radơmiốtnốp tức không chịu được, gặng hỏi.
Nhưng bọn trẻ cứ đứng cúi đầu im lặng, và ngần ấy thằng như một, chúng đưa mắt nhìn nhau và lấy chân đi đất vẽ vẽ lên lớp bụi đường lành lạnh, lớp bụi đường đầu tiên sau mùa tuyết tan.
Cuối cùng vẫn là thằng bé vừa hỏi lúc nãy so vai rụt cổ đánh bạo trả lời:
- Mẹ cháu bảo là chú dùng súng lục bắn chết mèo mà.
- Đúng là tao bắn, nhưng đâu phải tao làm thịt! Hai cái khác nhau chứ, hả ông mãnh.
- Mẹ cháu cũng bảo: “Ông chủ tịch làng ta giết mèo đâu như để làm thịt thì phải. Giá ông ấy bắn hộ con mèo đực nhà ta đi thì hay quá, không có nó vồ hết bồ câu nhà mình mất”.
- À, thế lại là chuyện khác, con ơi! – Radơmiốtnốp thốt lên, tươi tỉnh ra mặt. – Nghĩa là con mèo nhà cháu vồ bồ câu hả. Thế cháu là con ai, hả thằng nhỏ? Và tên cháu là gì?
- Bố cháu là Êrôphây Vaxilits Tsêbakốp, còn tên cháu là Chimôphây.
- Ờ, thế Chimôphây dẫn chú về nhà đi. Ta đi khử con mèo nhà cháu cho nó hết làm hại, nhất lại là mẹ cháu yêu cầu thế.
Hành động cao quý tiến hành nhân danh bảo vệ tính mệnh cho bồ câu nhà Tsêbakốp đã chẳng đem lại được thành tích và vinh quang mới cho Radơmiốtnốp. Ngược lại là đằng khác… Với cả một bầy trẻ líu ríu đủ các giọng lẵng nhẵng theo sau, Radơmiốtnốp thủng thẳng đi đến nhà Tsêbakốp, trong bụng không hề ngờ rằng tai bay vạ gió đang chờ anh ở đó. Thận trọng lê đôi ủng, và lúc nào cũng cứ nơm nớp sợ xéo phải một bàn chân đi đất nhỏ xíu nào của đám trẻ bâu quanh anh, anh vừa rẽ vào đầu ngõ thì đã thấy một bà lão bước ra hiên nhà Tsêbakốp. Đó là bà nội thằng Chimôphây.
Bà lão cao lớn, dáng vĩ đại, đứng bên thềm mặt cứ hầm hầm và hai tay ôm trước ngực một con mèo nâu to tướng, béo tốt vì được ăn thoải mái.
Kính lão đắc thọ, Radơmiốtnốp khẽ đưa tay lên ve mũ theo kiểu quân sự, miệng ân cần chào:
- Chào cụ!
- Lạy Chúa! Ông ataman ấp ta đến chơi nhà chúng tôi có việc gì thế? Nói đi, - Bà lão đáp, giọng ồm ồm như lệnh vỡ.
- Tôi đến vì việc con mèo nhà ta đây. Các cháu bé bảo là nó vồ chim bồ câu. Cụ đưa nó đây cho tôi, tôi sẽ lập tòa án xử nó ngay tại chỗ. Cái tên hung ác ấy thì cứ ghi rõ: “Án chung thẩm cấm khiếu nại”.
- Luật lệ gì thế nhỉ? Chính quyền Xôviết ra sắc lệnh diệt hết mèo hay sao?
Radơmiốtnốp mỉm cười:
- Cần quái gì luật lệ? Một khi nó đã là một tên đầu trộm đuôi cướp gây án mạng sát hại loài chim thì chỉ có tử hình thôi, không ý kiến ý cỏ gì cả! Đối với bọn đầu trộm đuôi cướp, ta chỉ có một luật lệ: “Vì lợi ích cách mạng”, và pằng luôn! Thôi, cụ ơi, không cần dài dòng văn tự làm gì, cụ cứ đưa con mèo đây tôi, tôi sẽ giải quyết nó gọn…
- Thế chuột trong kho nhà chúng tôi, ai sẽ bắt cho? Anh nhận đảm đương nhiệm vụ ấy chắc?
- Tôi đã có nhiệm vụ của tôi, còn cụ chẳng có việc gì làm thì đi mà bắt chuột, không có nhàn cư vi bất thiện suốt ngày lại chỉ lầm rầm khấn khứa rồi sì sà sì sụp vái mấy cái tượng.
Bà lão liền nổi tam bành lên:
- Này, mày vắt mũi còn hơi sữa, không lên mặt dạy nổi bà đâu! Sao bọn kôdắc làng này lại đi bầu một thằng khốn nạn như thế làm chủ tịch nhỉ! Mày phải biết là ngày xưa cả đến các ông ataman cũng chẳng làm gì nổi tao, nữa là cái hạng mày! Mày thì bà chỉ cho một cái là bắn ra đến tận ngõ rồi mới tỉnh!
Nghe tiếng bà lão oang oang như lệnh vỡ, một con chó vàng con ở dưới gầm kho chạy bổ ra, sủa ăng ẳng chối tai. Đứng bên thềm, Radơmiốtnốp thản nhiên giở thuốc ra cuốn một điếu. Nhìn kích thước điếu thuốc thì có thể thấy là anh định trụ ở vị trí chiến đấu này không phải chỉ chốc lát. Điếu thuốc dài đủ mười phân và to bằng ngón tay trỏ ấy là để dành cho một trận đấu khẩu ra trò. Nhưng câu chuyện đã xoay vần kiểu khác…
Radơmiốtnốp thản nhiên và chững chạc lên tiếng:
- Cụ ơi, cụ nói rất chí lý! Anh em kôdắc bầu tôi làm chủ tịch thì thật là dở hết sức. Không phải bỗng dưng mà người ta lại bảo “anh kôdắc là anh trí khôn bị tắc”. Và cả tôi đây nữa, đi khoác cái ách ấy vào người thì cũng không phải là một hành động thông minh gì cho lắm… Nhưng cụ khỏi lo: tôi sắp xin từ chức chủ tịch rồi.
- Từ mẹ nó đi cho nó sớm.
- Thì tôi đã bảo cụ là tôi sắp từ đây mà, nhưng cụ ơi trong khi chờ đợi, cụ hãy từ cái con mèo của cụ đi và trao vào tay chủ tịch tôi đây.
- Mày bắn chết hết sạch mèo trong làng như vậy thì rồi chẳng mấy chốc mà chuột sẽ nhung nhúc, rồi đêm nó mò vào cắn chân mày trước.
- Không đời nào! – Radơmiốtnốp khẳng định dứt khoát. – Chân tôi thì cứng lắm, ngay cả chó nhà cụ cắn vào cũng gãy răng cơ. Thôi cụ cứ đưa mèo đây, tôi không có thời giờ đứng mặc cả với cụ đâu. Cụ ban phúc cho nó đi rồi đưa nó đây cho tôi tử tế, trao tay cẩn thận.
Bàn tay phải sần sùi màu da lươn của bà lão nắm lại thành quả đấm với ngón tay cái luồn qua khi hai ngón trỏ và ngón giữa một cách đầy ngụ ý, còn tay trái bà lão thì xiết chặt còn mèo vào ngực đến nỗi làm nó kêu chóe lên, cào đạp khịt khịt loạn xạ. Bọn trẻ đứng chắn sau lưng Radơmiốtnốp thành một bức tường, khoái trá cười ré lên. Rõ ràng là cảm tình của chúng ngả về phía Radơmiốtnốp. Nhưng bỗng chúng im bặt, như theo một hiệu lệnh, khi bà lão trị yên được con mèo rồi, quát tướng lên:
- Cút ngay đi cho khuất mắt tao, thằng quan ôn kia! Đồ khốn kiếp, muốn sống thì cút ngay, kẻo ốm ho với bà bây giờ!
Từ tốn và như mải miết với việc mình làm, Radơmiốtnốp thè đầu lưỡi ra nhấm nước bọt cái mép sờn sờn của mẩu giấy báo anh cuốn thuốc lá, trong khi mắt vẫn ranh mãnh lén nhìn bà lão đang sát khí đằng đằng, và miệng anh lại còn tủm tỉm trêu ngươi nữa. Chả cần phải dấu là không hiểu sao anh rất thích, thậm chí có một cái khoái đặc biết nữa khi được đấu khẩu với các mụ già trong làng, bất kể mụ nào, trừ mẹ anh ra. Mặc dầu tuổi tác, trong anh vẫn còn cái máu tếu của một anh thanh niên kôdắc với cái tính thích đùa dai nó không chịu mất đi với thời gian. Lần này cũng vậy tính nào anh vẫn tật nấy. Cuốn xong điếu thuốc và rít xong hai hơi liền, anh nói bằng một giọng thân ái, có vẻ như khoái trá nữa:
- Mẹ Igơnachiépna ơi, cái giọng mẹ sao mà nó tốt thế! Nghe mẹ nói suốt đời cũng không thấy chán đâu! Chả cần ăn, chả cần uống, chỉ cốt sao bắt được mẹ cứ quát tháo thế suốt từ sáng đến tối… Giọng tốt thật, khỏi nói! Mồm, quang quác, chà, hệt cái giọng lão thày trợ tế trên huyện ngày xưa, hoặc là hệt tiếng hí của con Hoa, con ngựa giống của nông trang ấy mà… Từ nay trở đi tôi sẽ không gọi mẹ là “mẹ Igơnachiépna” nữa đâu, mà gọi là “mẹ Hoa”. Tôi bàn với mẹ một việc như thế này nhé: bao giờ cần gọi bà con dân làng đến họp, tôi nhờ mẹ cứ đứng ra giữa làng mà gào tướng lên, mỗi lần như thế nông trang sẽ chấm cho mẹ hai công…
Radơmiốtnốp không kịp nói hết câu. Bà lão đã nổi điên lên, túm gáy con mèo ném vung ra thẳng cánh, như một anh kôdắc. Radơmiốtnốp hoảng hồn nhảy né sang bên, trong khi con mèo, bốn cẳng xoạc rộng, đôi mắt xanh lè trợn ngược, kêu lên một tiếng xé ruột, bay vèo qua sát người anh, nhún mình rơi xuống đất, rồi duỗi thẳng cái đuôi to tướng như đuôi cáo, nó ba chân bốn cẳng đâm bổ ra vườn rau. Con chó con dựng ngược tai lên, kêu ăng ẳng lao theo, và tiếp sau con chó, lũ trẻ cũng ùa theo, la ó đinh tai váng óc… Con mèo nhảy vọt qua hàng rào như viên đạn bay, còn con chó, không đủ khả năng vượt cái chướng ngại vật ghê gớm ấy, vắt chân lên cổ chạy vòng ra chỗ lỗ hổng nó đã quen thuộc từ lâu. Lũ trẻ xúm lại leo qua hàng rào làm nó gãy răng rắc đổ sập.
Bóng con mèo thấp thoáng qua những luống dưa chuột, những khóm cà chua và những cây bắp cải, loang loáng như một tia chớp màu nâu. Con Radơmiốtnốp thì sướng như điên, ngồi sụp xuống, vỗ đôm đốp vào đầu gối mà gào:
- Bắt lấy nó! Nó chạy mất kìa! Bắt lấy nó, con ấy gớm lắm!…
Radơmiốtnốp ngạc nhiên hết sức khi chợt quay lại nhìn lên thềm, thấy bà cụ Igơnachiépna đang cười ngặt nghẽo, hai tay ôm lấy bộ ngực to nặng đang rung lên bần bật. Bà lão đưa góc khăn vuông lên chùi mắt hoài, và vẫn chưa dứt cơn cười, bà khàn khàn nói:
- Này, anh Anđrây, hoặc là anh, hoặc là cái Xôviết của anh, phải bồi thường tôi về thiệt hại này! Để tối nay tôi tính xem bọn ôn con anh lôi tới đây xéo nát của nhà tôi mất bao nhiêu, rồi anh liệu mà xì tiền ra!
Anđrây bước tới bên thềm, ngước đôi mắt long lanh nhìn bà lão từ dưới lên trên:
- Cụ cứ yên trí, tôi sẽ bồi thường đầy đủ, dù là phải lấy vào lương chủ tịch, dù là phải bán rau nhà đi! Nhưng cụ hãy cho tôi xin đôi bồ câu mà cái con mèo kia đã phá tổ mất rồi. Đôi chim nhà tôi sắp nở, cộng với đôi cụ cho, tôi sẽ có hẳn một chuồng.
- Đấy cho anh mà vác về, lạy Chúa, vác tất về. Nuôi chúng chẳng được cái tích sự gì, chỉ tổ làm đàn gà nhà tôi chết đói thôi.
Radơmiốtnốp quay ra phía hàng rào, réo:
- Bọn nhóc kia, giải tán!
Và mười phút sau, anh đã trên đường về nhà, nhưng không đi theo các lối ngõ, mà men theo bờ sông để tránh con mắt tò mò của đám đàn bà rỗi hơi… Ngọn gió bắc thổi về, mát rượi, có phần lành lạnh. Đôi chim bồ câu âm ấm với cái cổ bồng to, đặt gọn trong chiếc mũ lông thủ vào sau vạt áo varơi, Radơmiốtnốp len lén bước đi, mắt nhớn nhác nhìn quanh, miệng mỉm cười ngượng ngập, và ngọn gió, ngọn gió lạnh từ phương bắc về, thổi phất phơ bờm tóc hoa râm của anh.
Nguồn: http://tusach.mobi/