Tập II - Chương 4
Đầu tháng Sáu, trái với thời tiết thường lệ mùa hè, trời đổ mưa luôn, những trận mưa êm ả, hiền lành, không giông, không gió, kiểu mưa thu. Sáng sáng, từ đằng tây, một đám mây tro xám xịt lại từ sau gò đống xa xa trườn tới. Nó lớn lên, lan ra, chiếm nửa bầu trời, và những cánh đen của nó loé lên ở phía dưới một ánh trắng đầy đe doạ. Rồi nó sà xuống, thấp đến nỗi những cánh mây bên dưới trong suốt như thế vướng cả vào mái chiếc cối xay gió dựng trên mả gò ngoài thảo nguyên. Cao cao đâu đó sấm lên tiếng, một tiếng sấm hiền lành ở một cung độ trầm hầu như tai nghe không nhận thấy. Rồi đổ xuống trận mưa vàng mưa bạc.
Giọt mưa ấm, nom như những tia sữa tươi, rơi thẳng đứng xuống dải đất đang náu mình trong sương mù tịch mịch, nổi lên thành những bong bóng trắng trên những vũng nước bọt ngầu chưa kịp khô đi sau trận mưa trước. Và cái mưa hè thưa hạt ấy êm ả và hiền lành đến nỗi hoa cũng chẳng chịu nghiêng đài, và gà mái các nhà cũng chẳng buồn tìm chỗ ẩn. Chúng lăng xăng bận rộn bới quanh các nhà kho và các hàng rào ướt át mốc đen kiếm mồi, còn các chú gà sống giầm mưa có hơi bị mất đi cái dáng oai vệ vì coi khinh trời mưa, thay nhau gân cổ gáy, và tiếng gáy dõng dạc của chúng hoà lẫn vào tiếng ríu rít của bọn chim sẻ sà xuống các vũng nước tắm rửa chẳng chút sợ hãi, hoà lẫn vào tiếng kêu của lũ nhạn lao bổ từ trên cao xuống theo tiếng gọi của mặt đất dịu hiền thơm hương nước mưa và hương bụi.
Tiếng gà gáy ở Grêmiatsi Lốc rất phong phú về giọng, một sự phong phú hiếm thấy, có thể nói là kỳ lạ. Chú gà trống nhà Liubiskin dậy sớm nhất, nửa đêm đã mở đầu cuộc điểm danh. Chú hô giọng têno vui vẻ và sang sảng, hệt như một anh đại đội trưởng trẻ tuổi hăng hái với nhiệm vụ. Chú gà nhà Agaphôn Đúpxốp đáp lại bằng giọng baritông nghiêm trang của một vị đại tá. Rồi khoảng năm phút liền xóm làng nhộn lên tiếng gáy rộn rã, liên chi hồ điệp, và sau rốt, lão gà sống tía phốp pháp nhà Maiđanhikốp, lão gà già nhất làng, đứng trên sào vỗ cánh phành phạch cằn nhằn ngái ngủ, rồi quát lên đinh tai váng óc bằng cái giọng khàn khàn của một vị đại tướng, một giọng trầm gắt nghẹn trong họng và đã rè vì hô hét quá nhiều.
Trừ những đôi trai gái và những người ốm nặng – theo quan điểm của Nagunốp thì hai loại người này hầu như chỉ là một, - người thức khuya nhất làng là chính bản thân Maka Nagunốp. Anh tranh thủ đêm hôm rỗi rãi, tiếp tục cặm cụi cày tiếng Anh. Lưng ghế anh ngồi vắt một chiếc khăn mặt vải bố, và một bình nước giếng lạnh buốt đặt ở góc phòng. Khoa học quả thật là khó nhằn! Cổ áo sơmi phanh ra, đầu bù tóc rối và mồ hôi nhễ nhại, anh ngồi bên bàn trước cửa sổ mở toang, cầm khăn lau mồ hôi trán, lau nách, lau ngực, lau lưng, và chốc chốc lại cúi rạp qua bệ cửa sổ, cầm bình nước đổ lên đầu, miệng hầm hè khoan khoái.
Ngọn đèn năm dây toả sáng mờ mờ, những con thiêu thân đâm sầm vào chiếc chao đèn bằng giấy báo, bên kia bức vách bà lão chủ nhà ngáy đều đều, còn Maka cứ từng chữ, từng chữ một tấn công làm chủ cái thứ tiếng khó kinh người và đối với anh là tối cần thiết ấy… Một hôm, vào lúc gần nửa đêm, ngồi nghỉ giải lao trên bệ cửa sổ làm một điếu thuốc, lần đầu tiên, anh đã thực sự được nghe cuộc hoà giọng của bầy gà trống. Anh chăm chú lắng nghe rồi kinh ngạc thốt lên, giọng trầm trồ; “Chà! Hệt như duyệt binh sư đoàn! Khiếp thật!...”.
Từ đó, đêm nào anh cũng ngóng đợi tiếng kêu báo thức của bầy gà trống và thú vị lắng nghe những giọng hô hiệu lệnh của các chàng ca sĩ đêm khuya ấy, trong bụng coi khinh những tiếng rung, tiếng láy trữ tình của các chú hoạ mi. Anh thích nhất cái giọng trầm đại tướng của lão gà nhà Maiđanhikốp nó vang lên như hoà âm cuối cùng của bản đồng ca gà trống này. Nhưng rồi một hôm, cái trật tự điểm danh mà anh nghe đã quen tai và trong bụng thầm tán thưởng, bỗng bị phá hoại một cách thực bất ngờ vào láo xược: tiếng gáy trầm hùng cuối cùng vừa dứt thì bỗng, ở quãng nào đó sát gần đây thôi, phía đằng sau gian kho, bên sân nhà anh hàng xóm Arkaska Mênốc, một con gà sống khỉ gió nào, có vẻ thuộc loại choai choai, lên tiếng gáy bằng một giọng antô oắt con bắng nhắng, sau đó lại còn cục te cục tác một tràng như gà mái, xen những tiếng nấc nghẹn nghe đến tởm. Maka nghe rõ mồn một con gà trống ranh con ấy đập cánh phành phạch, lục đục trong chuồng gà: chắc hẳn tiếng gáy của nó đã suýt làm nó lộn cổ từ trên sào đậu xuống.
Cái trò lếu láo ấy quả là một sự vi phạm kỷ luật trắng trợn, một sự chà đạp lên tôn ti trật tự. Đối với Maka thì đó cũng đại loại như chuyện một vị đại tướng nhất hàng đại tướng vừa hô xong thì liền bị một anh tiểu đội trưởng quèn lên giọng chấn chỉnh, mà lại là cái giọng nói lắp nữa cơ chứ! Lòng dạ sôi lên sùng sục, Maka không thể chịu đựng nổi cái trò bỉ ổi ấy và quát lên một tiếng vào đêm tối: “Liệu hồn!...”. Anh giận dữ đóng sập cửa sổ lại, miệng lẩm bẩm chửi rủa.
Đêm sau, chuyện ấy lại tái diễn, đêm sau nữa, vẫn vậy. Thêm hai lần nữa Maka quát vào đêm tối: “Liệu hồn!”, làm bà chủ nhà giật mình tỉnh dậy. Sự hài hoà chặt chẽ của cuộc điểm danh đêm khuya của bầy gà trống, trong đó các giọng và thứ tự lên tiếng dường như đã được sắp xếp theo cấp bậc, đã bị phá hoại một cách không gì cứu vãn được. Từ đó, cứ nửa đêm là Maka bỏ đi ngủ… Anh không còn làm sao học, không còn làm sao nhớ được những từ hóc búa kia nữa. Đầu óc anh cứ quay cuồng xung quanh con gà trống bố lếu bố láo kia; anh cay cú nghĩ bụng chủ nào gà nấy, và cái con ôn vật ấy chắc chắn cũng chỉ là cái hạng phất phơ nhắng nhít như thằng chủ nó mà thôi. Trong bụng anh chụp mũ cho chú gà trống chẳng có tội tình gì ấy là đồ ba que, đồ ăn hại đái nát, đồ sâu bọ nhảy lên làm gà. Thế là cái chú gà trống nhà hàng xóm đã dám cả gan lên tiếng tiếp theo sau gà nhà Maiđanhikốp rốt cuộc đã làm cho cuộc sống của Maka bị trật đường ray: học tiếng Anh không vào nữa, tính tình thì mỗi ngày một sinh bực bội bẳn gắt… Đã đến lúc phải chấm dứt cái tình trạng rối tinh rối xoè này thôi.
Sáng ngày thứ tư, Maka sang nhà Arkaska Mênốc, chào một tiếng gọn lỏn, rồi hỏi:
- Này, cho xem con gà sống tí.
- Xem làm gì?
- Muốn biết mặt mũi bộ dạng nó thế nào.
- Anh cần biết bộ dạng nó làm cái khỉ gió gì?
- Thì cứ cho xem tí! Tôi không có thì giờ con cà con kê với anh như đi hỏi vợ đâu! – Maka bực dọc đáp.
Trong khi anh cuốn điếu thuốc hút, Arkaska đã cầm que khá vất vả mới lùa được từ gầm kho ra cả một đàn gà diêm dúa sặc sỡ. Quả y như rằng! Maka đã phỏng đoán cẩm sai tí nào: giữa một đám mười hai ả gà mái lông cánh loè loẹt và lẳng lơ điệu bộ, lăng xăng một chú gà trống oắt tì xà lai, lông màu chuột xám và tả tơi, nom thật vô duyên. Maka nhìn nó với một vẻ khinh bỉ ra mặt.
- Vặn cổ cái của khỉ ấy đi cho rồi!
- Vặn cổ làm gì?
- Nấu miến, - Maka đáp gọn lỏn.
- Nấu miến là thế nào! Nhà tôi có độc mình nó để cho đạp mái!
Maka bĩu môi mỉm một nụ cười mỉa mai:
- Chỉ có đạp mái thôi à? Ghê nhỉ? Cái công việc thối thây ấy quan trọng thế cơ à?
- Cũng chỉ cần nó làm cho cái việc ấy thôi. Mình cũng chả định bắt nó cày cho mình cái ruộng rau, sức nó thì cái cày một lưỡi thôi nó cũng chả kéo nổi…
- Này, đừng có đùa dai! Tôi đây cũng biết đùa chẳng kém ai đâu, nhưng phải tuỳ lúc…
- Nhưng con gà nhà tôi nó phương hại gì đến anh mới được chứ? – Mênốc đã bắt đầu sốt ruột, vặn lại: - Nó quẩn chân anh hay thế nào?
- Nó ngu lắm, không biết kỷ luật là gì cả?
- Kỷ luật gì? Nó sang phá vườn rau bà chủ bên anh sao?
- Không phá vườn rau, cơ mà, nói chung…
Maka lúng túng, không biết giải thích là cái kỷ luật gì. Anh đứng lặng một phút, hai chân dạng háng, trút vào con gà trống những cái nhìn búa bổ. Rồi chợt loé ra một ý:
- Này, anh bạn hàng xóm ơi! – Anh tươi tỉnh lên, bảo Arkaska. – Hay ta đổi gà nào?
- Anh chẳng chăn nuôi gì cả, móc đâu ra gà mà đổi? - Mênốc sốt sắng hỏi.
- Mình sẽ kiếm một con, và không tả tơi như con này đâu!
- Được, cứ mang lại đây, nom ưng thì đổi. Con nhà tôi, tôi cũng không kết gì lắm đâu.
Nửa giờ sau, làm ra vẻ có việc đi qua, Maka ngó vào sân nhà Akim Bexkhlépnốp là nhà có cả một đàn gà lúc nhúc. Vừa chuyện con cà con kê, anh vừa tò mò đưa mắt nhìn theo những ả gả mái đang tha thẩn ngoài sân, tai thì dỏng nghe tiếng gà trống gáy. Cả năm con gà sống nhà Bexkhlépnốp đều là loại gà kén cả, con nào cũng to, lông đẹp, nhưng quan trọng hơn cả đều là giọng gáy tốt, điệu bộ oai vệ. Trước khi ra về, Maka ướm hỏi:
- Này, cụ chủ ơi, để lại cho tôi một con sống, được không?
- Sẵn sàng thôi, đồng chí Nagunốp ạ, nhưng nấu cháo thì gà mái mềm thịt hơn, đồng chí tha hồ chọn, cái của ấy thì bà nó nhà tôi thiếu giống!
- Không, tôi cần một con gà sống cơ. Cụ cho tôi mượn cái bao, tôi dúi nó vào đấy mang về.
Một lát sau, Maka đã đứng trong sân nhà Arkaska Mênốc, tay loay hoay cởi nút bao. Anh chàng Arkaska, như ta đã biết, tính mê đổi chác, nói chuyện đánh đổi đã tắc lẻm, khoái trá xoa tay, nói:
- Nào, lật lên xem con bài tẩy của anh thế nào nào, không khéo anh bạn còn phải các thêm tí ti đấy. Cởi mau lên chứ, sao loay hoay mãi thế! Tôi đi tóm ngay con gà nhà tôi bây giờ, cho hai con này chọi nhau một trận, con ai thua, người ấy phải thết chầu rượu. Dứt khoát thế, không thì tớ chả đổi đâu! Gà của ông nom thế nào? Có đô không?
- Cận vệ! – Maka vừa lấy răng cởi nút bao vừa lúng búng đáp gọn.
Arkaska lon ton chạy ra chuồng gà, vừa chạy vừa túm giữ cái quần muốn tụt. Một phút sau, từ phía chuồng gà vang lại tiếng gà trống kêu thất thanh. Nhưng khi anh ta trở lại, tay ôm trước ngực chú gà trống sợ chết khiếp đang thở hổn hển thì thấy Maka đang cúi lom khom xuống cái bao đã mở, gãi đầu gãi tai có vẻ băn khoăn lắm: chàng “cận vệ” ta đang nằm sóng sượt dưới đáy bao, đôi cánh xoã ra và đôi mắt đỏ ngầu trợn trừng lảo đảo trong cơn giãy chết.
- Nó làm sao thế? - Arkaska sửng sốt hỏi.
- Dại!
- Sao, tôi à?
- Đã bảo dại mà, hỏi mãi!
- Gà mà lại dại à, cái anh này nói lạ!
- Sao anh ngu thế, ai bảo là gà dại? Mà là tôi đây dại. Lúc mang nó về, tự nhiên nó hứng lên gáy te te, làm mình ê cả mặt với bà con, lại đúng lúc đi qua trước cửa ban quản trị, mình mới vặn cái đầu nó sang bên một tí… Có tí ti thôi, thế mà xem này, ai ngờ đâu. Thôi, mang cái rìu lại đây, mau lên, kẻo nó nghẻo mất lại phải vứt đi toi.
Maka ném con gà cụt đầu qua hàng rào, réo bà chủ nhà đang bận rộn bên thềm:
- Này, mẹ ơi! Làm lông đi nhá, trong lúc nó còn ấm, mai nấu miến!
Rồi chẳng nói chẳng rằng gì với Arkaska, anh lại sang nhà Bexkhlépnốp. Thoạt đầu ông lão khăng khăng không chịu: “Cái điệu này thì anh làm cho gà mái nhà lão phải ở goá hết mất thôi!”, nhưng rồi cụ cũng để lại cho anh một chú gà trống nữa. Cuộc đổi chác với Arkaska thế là trót lọt. Chỉ vào phút sau, chú gà nhà Mênốc đã cụt đầu và bay vèo qua hàng rào, kèm theo là tiếng Maka hể hả réo bảo bà chủ:
- Nhặt lấy cái quân thổ tả này, mẹ ơi! Vặt lông nó đi, cái quân vô kỷ luật, và quẳng luôn vào nồi!
Anh bước ra đường với điệu bộ của một người vừa hoàn thành một nhiệm vụ to lớn quan trọng. Chị vợ Arkaska rất đỗi ngạc nhiên trước cuộc thảm sát gà trống mà Maka đã gây ra trên sân nhà chị, lắc đầu nhìn theo anh với một vẻ buồn rầu ái ngại. Đáp lại câu hỏi thầm của chị, Arkaska đặt ngón tay trỏ lên trán, day đi day lại, thì thầm nói:
- Loạn óc! Người thì tốt đấy, nhưng loạn óc mất rồi. Đứt đuôi là hoá rồ hoá dại không phương cứu chữa. Tội nghiệp, ai bảo thức đêm cho lắm vào! Cái tiếng Anh ba lần trời đánh ấy đã làm hại hắn.
Từ đó anh chàng Maka có tinh thần dũng cảm chịu đựng cảnh cô đơn của mình đêm đêm lại được ngồi nghe thoải mái bản đồng ca gà gáy. Ngày ngày anh ra đồng làm cỏ lúa với đám đàn bà trẻ con, và tối đến chén xong bát súp bắp cải xuông và một cốc sữa, anh lại cặm cụi với cuốn sách tự học tiếng Anh, kiên nhẫn đợi đến lúc nửa đêm.
Chẳng bao lâu, bác Suka đã tới làm bạn với anh. Một tối nọ, bác đến, gõ cửa khe khẽ, và hỏi:
- Có vào được không?
- Cứ vào. Có việc gì đấy? – Maka tiếp bác bằng một câu hỏi không lấy gì làm niềm nở lắm.
Bác Suka lúng túng:
- Biết nói làm sao nhỉ… Có lẽ là lão nhớ anh quá, anh Maka ạ. Lão mới bụng bảo dạ, ta sang thăm nhà anh ta một lát.
- Bác có phải là đàn bà con gái đâu mà bảo nhớ tôi!
- Ấy, đôi lúc người già lại sinh ra hay nhớ nhung hơn cả đàn bà con gái đấy. Mà cái công tác của lão thì nó khô khan ghê lắm cơ, lúc nào cũng độc ngựa với nghẽo. Lão đã phát ngán cái giống nó chẳng biết mở mồm nói lấy một câu ấy lắm rồi! Mình đến với nó, ấy là nói giả sử thế, vỗ về nó đôi lời, nhưng nó tỉnh bơ đi, cứ ngốn thóc tiếp và ngoe nguẩy cái đuôi. Thế thì còn nước mẹ gì nữa! Lại còn cái con dê đáng réo ba đời mà rủa kia nữa chứ! Cái giống sâu bọ ấy, chẳng biết đến bao giờ nó mới chịu ngủ đi cho, hả anh Maka? Tối đến, mình cứ vừa chợp mắt một cái là nó dẫn xác đến, cái quân quỷ sứ nhà trời! Không biết bao nhiêu lần rồi, lão đang ngủ nó cứ xéo bừa cả chân cẳng lên người lão! Nó làm mình sợ hết vía lên, lúc ấy có buồn ngủ dính mắt lại thì cũng đành chịu, không sao ngủ lại được nữa. Cái giống ôn vật ba lần trời đánh ấy, nó làm lão không sống được với nó! Suốt đêm nó cứ lang thang khắp chuồng ngựa, khắp vựa cỏ. Hay ta thịt béng nó đi, hả anh Maka?
- Thôi, lão đút nút lại hộ tôi những chuyện con cà con kê ấy đi! Dê nông trang không thuộc quyền chỉ huy của tôi. Thủ trưởng của chúng là Đavưđốp, lão đến anh ta mà hỏi.
- Lạy Chúa, lão đến đây đâu phải vì chuyện dê, đến thăm anh thôi mà. Anh cho lão mượn quyển sách gì hay hay một tí, lão sẽ ngồi đây im thin thít, như con chuột trong lỗ. Có hai người anh cũng vui hơn, và lão cũng vui hơn. Lão không quấy rầy tí ti gì anh đâu.
Maka ngẫm nghĩ một tí rồi đồng ý. Anh dúi cho bác cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga, và bảo:
- Được, lão cứ ngồi đây đọc với tôi, đọc đi, nhưng đọc thầm thôi, cấm lắp bắp, cấm ho, cấm hắt hơi, tóm lại, tuyệt đối không được gây tiếng động! Hút thuốc thì theo lệnh tôi. Rõ nhiệm vụ chưa?
- Hoàn toàn đồng ý, riêng về khoản hắt hơi… thế ngộ nhỡ ma xui quỷ khiến, tự nhiên lão lại cứ muốn hắt xì một cái thì sao? Công tác của lão thì lúc nào mũi cũng đầy vụn cỏ, đôi khi đang ngủ cũng hắt xì hơi. Thế thì biết làm thế nào?
- Thì lao ra hiên nhanh như đạn bắn!
- Chà, chú Maka nó ơi, nói chuyện đạn thì lão chỉ còn là cái vỏ thôi, mà lại rỉ ngoèn! Chạy được ra đến hiên thì lão cũng đã hắt xì được đến mươi cái và xỉ mũi dăm lần rồi.
- Thì cứ cố mà chạy cho mau.
- Lão biết có một cô ả muốn lấy chồng mau mau, nhưng chẳng có ma nào hỏi. Một cậu chàng tốt bụng thấy vậy, đến giúp cô ta qua bước khó khăn. Thế rồi anh biết con bé ấy ra sao không? Cô ả không còn là con gái nữa mà vẫn là không chồng! Đối với lão thì có thể cũng rứa: mải chạy rồi mà đâm ra thất thố, anh sẽ tống cổ lão ra cửa mất. Lão thấy trước hai năm rõ mười thế rồi!
Maka phì cười, nói:
- Vội thì cũng phải chú ý chứ, không nên làm gì để hại đến uy tín của mình. Tóm lại là im lặng, đừng làm tôi phân tán tư tưởng. Đọc sách đi, cố mà trở thành một lão già có học thức.
- Hỏi anh tí tí nữa có được không? Nhưng anh Maka ơi, anh đừng cau mặt lại thế, lão hỏi câu cuối cùng thôi mà.
- Thì nói đi,mau lên!
Bác Suka ngượng ngùng vặn vẹo người, và ề à nói:
- Số là thế này… Cũng chẳng có gì đáng, nhưng, khổ lắm cơ, bà nhà lão cứ lôi ra nói lão đến nhục: “Có để cho người ta ngủ không!”. Lão xin hỏi anh, nói thế thì lão còn biết làm cách nào?
- Nói ngay vào đề đi.
- Thì lão đang nói đây. Lão bị cái bệnh lòi rom, hoặc cái bệnh khỉ gió gì chẳng biết, chỉ thấy trong bụng cứ sôi lên như sấm như sét, hệt như lúc trời nổi giông vậy! Trường hợp ấy thì ta làm thế nào được nhỉ? Vì, thế thì nó cũng làm anh phân tán tư tưởng mất.
- Thì chạy luôn ra hiên, và không có sấm sét gì cả! Rõ nhiệm vụ chưa?
Bác Suka lẳng lặng gật đật, thở dài đánh sượt và mở cuốn từ điển ra. Đến nửa đêm, dưới sự chỉ đạo của Maka và nhờ được anh giảng giải, lần đầu tiên bác Suka mới thực sự được nghe thấy tiếng gà gáy. Và ba hôm sau hai người đã vai kề vai cùng bò soài ra trên bệ cửa sổ, và bác Suka cứ mê tít thò lò, thì thà thì thầm:
- Lạy Chúa, lạy Chúa tôi! Suốt đời lão cứ phải giẫm cứt gà, lọt lòng ra lớn lên cùng với gà, thế mà lão chẳng bao giờ ngờ đâu chúng nó lại gáy hay đến thế. Thành thử bây giờ lão cứ như người mới được mở mắt ấy! Chú Maka nó ơi, cái tên quỷ sứ nhà Maiđanhikốp, chú thấy nó quát có khiếp không hả? Đích thị đại tướng Bruxilốp!
Maka cau mặt lại, nhưng nén được ngay, và cũng thì thào đáp:
- Thôi đi, ông nội! Ông không được nghe các tướng của ta hô đấy! Đây mới gọi là giọng chứ, giọng quân ta! Còn cái lão Bruxilốp nhà ông thì là cái thá gì? Thứ nhất, là một tên tướng Sa hoàng, nghĩa là một kẻ tôi coi là khả nghi. Và thứ hai, là một tên trí thức đeo kính trắng. Giọng hắn nhất định chỉ như giọng cái con gà nhà Arkaska Mênốc mà chúng tôi đã cho chầu trời và chén thịt rồi. Nói chuyện giọng thì cũng phải đứng trên quan điểm chính trị chứ. Đây này, lấy thí dụ, sư đoàn chúng tôi có một tay giọng trầm, cứ là nhất toàn quân! Rồi té ra nó là một đồ chó chết: nó đã chạy sang địch. Lão biết không, bây giờ tôi coi cái giọng trầm của nó thế nào không? Không bằng cục cứt! Bây giờ tôi không coi nó là giọng trầm nữa, mà là giọng ống bơ gỉ của một tên phản bội!
- Nhưng anh Maka ơi, bọn gà trống thì có dính gì đến chính trị không? – Bác Suka rụt rè hỏi.
- Dính chứ sao lại không! Con gà ấy nếu không phải của nhà Maiđanhikốp mà lại là của một tên kulắc nào đó, thì tôi cứ đấm thèm vào nghe cái đồ ăn hại ấy! Tôi thiết gì cái giống tay sai kulắc ấy! Thôi, chuyện thế là đủ rồi. Bây giờ sách ai người ấy đọc, không hỏi dớ da dớ dẩn gì nữa đấy nhá! Không thì tôi sẽ đuổi cổ ra đấy, không nể đâu.
Bác Suka đâm ra thành một kẻ mê tiếng gà gáy. Chính bác đã rủ Maka đến tận nơi xem mặt con gà nhà Maiđanhikốp. Làm ra bộ có việc, hai người mò đến nhà anh ta. Kônđrát ra đồng vắng, cày đám ruộng hưu canh xuân. Maka chuyện trò đưa đẩy vài câu với chị vợ, tiện mồm hỏi chị sao hôm nay không đi làm cỏ lúa, trong khi mắt thì cứ chăm chú quan sát chú gà trống đang đi khệnh khạng ngoài sân. Anh chàng nom điệu bộ rất oai và đường bệ, lông cánh màu tía sặc sỡ. Maka xem rất lấy làm hài lòng. Bước ra khỏi cổng, anh đưa khuỷu tay hích khẽ bác Suka từ nãy vẫn ngậm tăm, hỏi:
- Thế nào?
- Được cả giọng lẫn dáng. Một vị giáo chủ, không phải là gà.
Maka không thích tí nào về cái lối so sánh ấy, nhưng chỉ nín thinh. Họ về đã gần tới trụ sở nông trang thì bác Suka bỗng trợn mắt lên lo sợ, túm lấy cánh tay áo varơi của Maka, nói;
- Anh Maka ơi, họ cứa cổ mất!
- Cứa cổ ai?
- Tất nhiên không phải cứa cổ lão, lạy Chúa, mà cứa cổ con gà! Họ sợ gì mà không cứa nhỉ! Ôi, họ cứa mất thôi!
- Nhưng tại sao họ lại cứa cổ nó? Duyên do gì? Tôi chả hiểu sao bác lại cứ làm ngậu lên thế?
- Có thế mà anh không hiểu ư? Nó già cốc đế đại vương rồi chứ sao. Nó cùng tuổi với lão đấy, già hơn cũng nên. Lão nhớ rồi, hồi bé tí lão đã thấy có nó!
- Ông nội ơi, thôi ông đừng bịa! Gà nào mà lại sống đến bảy mươi. Quy luật thiên nhiên chả có điều nào nào nói thế cả. Rõ chưa?
- Dẫu sao nó cũng già rồi, cằm nó toàn lông bạc. Anh không để ý thấy sao? – Bác Suka gân cổ cãi.
Maka quay ngoắt gót trở lại. Anh bước rảo, và dài bước đến nỗi bác Suka theo sau chốc chốc lại phải chuyển sang le te nước kiệu. Vài phút sau họ lại đứng ở sân nhà Maiđanhikốp. Maka rút chiếc mùi soa nữ viền đăng ten kỷ niệm của Luska ra lau mồ hôi trán còn bác Suka thì há hốc mồm, thở dốc như con chó săn sau suốt một buổi rượt theo con cáo. Nước dớt nước dãi rỏ từng giọt nhỏ tong tong từ đầu lưỡi tím bầm xuống râu lão.
Vợ Kônđrát bước tới, mỉm cười đon đả:
- Bác với anh quên gì hẳn?
- Chị Prôkhôrốpna ạ, tôi quên không dặn chị; con sống nhà chị, chị không được thịt đâu đấy nhá!
Lom khom nom cái hình dấu hỏi, bác Suka giơ một cánh tay ra phía trước, rồi vừa chỉ trỏ bằng ngón tay trỏ cáu ghét, bác vừa hổn hển nói hắt ra một cách khó nhọc:
- Lạy Chúa, chớ làm chuyện đó!...
Maka không bằng lòng, lừ mắt nhìn bác nói tiếp:
- Chúng tôi định mua lại hoặc đổi cho chị con khác để giữ nó làm giống cho nông trang. Vì cứ xem cái mã nó cũng rõ nó là gà nòi loại thượng hạng, có lẽ tổ tiên nó đã được người ta mang về từ cái nước Anh nào đó hay là Hà Lan chẳng hạn, để lai và nhân giống ỏ nước ta đấy. Ngỗng Hà Lan nó có cái bướu trên mũi không? Có. Thế thì biết đâu con sống này cũng chẳng là nòi tộc Hà Lan, chị không biết à? Tôi cũng chẳng biết nốt, cho nên cấm, không được thịt nó, bất kể vì lý do gì.
- Để lấy giống thì không ăn thua đâu, nó già quá rồi, và nhà em định đến ngày lễ Ba ngôi thì mổ thịt, và mua một con tơ khác.
Lần này thì bác Suka lấy cùi tay huých Maka, ý bảo: thấy chưa, lão đã bảo mà! Nhưng Maka chẳng buồn để ý, tiếp tục khuyên can chị chủ nhà:
- Gà già đâu phải tội tỗi, chúng tôi sẽ lấy được giống nó. Chúng tôi sẽ cho nó ăn thóc tiểu mạch ngâm vốtka, rồi nó sẽ đạp mái phải biết cho mà xem! Nói tóm lại, con gà giống quý thế thì không được vì lý do gì đem thịt. Rõ nhiệm vụ chưa? Còn gà tơ thì bác Suka đây sẽ mang ngay đến cho chị một con.
Ngay hôm đó, Maka đã mua lại được theo giá hời của chị Đemka Usakốp một con trống chị ta thừa, sai bác Suka mang đến cho vợ Maiđanhikốp.
Tưởng đâu như trở ngại cuối cùng đã vượt qua. Nhưng trong làng đã lan đi một tin đồn tếu là Maka Nagunốp đã vơ vét sạch gà trống, cả mua buôn lẫn mua xỉ, không rõ nhằm mục đích gì, mà lại trả bằng giá đắt nữa. Bảo sao mà anh chàng Radơmiốtnốp là người thích đùa tếu lại không nhạy bén trước một sự kiện như vậy được? Nghe chuyện về cái trò chơi ngông ấy của bạn, anh quyết định phải đích thân kiểm tra cho ra nhẽ, và một tối khuya, anh mò đến nhà Nagunốp.
Maka và bác Suka đang ngồi vùi đầu vào những cuốn sách dày cộp. Ngọn đèn dầu bấc khêu tướng lên bốc khói mù. Trong phòng chập chờn những bông khói đen, khen khét mùi giấy cháy – giấy của chiếc chao đèn chụp sát vào bóng thuỷ tinh, đã gần biến thành than – và im phăng phắc như thường thấy ở những lớp vỡ lòng vào giờ tập viết. Radơmiốtnốp không gõ cửa, đứng trước ngưỡng cửa đằng hắng một cái, nhưng chẳng ai trong hai vị đang ngồi miệt mài đọc sách buồn để ý đến anh, Radơmiốtnốp cố nén một nụ cười, lớn tiếng hỏi:
- Xin hỏi thăm, đây là nhà đồng chí Nagunốp có phải không ạ?
Maka ngẩng đầu lên, đăm đăm nhìn vào mặt Radơmiốtnốp. Không, ông khách chơi khuya không say, nhưng đôi môi ông ta cứ mấp máy giần giật do đang cố nén một cơn cười phá. Đôi mắt Maka ánh lên một ánh chẳng lành và nhíu lại. Anh thản nhiên nói:
- Anđrây ạ, đi mà tán các em đi, cậu thấy đấy, mình chả có thì giờ tiếp gẫu cậu đâu.
Thấy Maka không mảy may muốn đùa với mình, Radơmiốtnốp ngồi xuống ghế, châm thuốc hút, và hỏi bằng giọng lúc này đã nghiêm trang:
- Mình hỏi thật, cậu mua gà làm gì thế?
- Nấu miến, nấu xúp. Dễ cậu tưởng mình mua để làm kem mời các em đấy hẳn?
- Kem thì mình chả nghĩ đâu, nhưng mình rất thắc mắc: quái, hắn mua làm gì lắm gà thế nhỉ, mà lại chỉ độc gà trống?
Maka mỉm cười:
- Có gì đâu, mình nghiện món miến mào gà trống. Cậu thắc mắc chuyện mình mua gà, còn mình, Anđrây ạ, mình lại thắc mắc sao chả thấy cậu ra chỗ làm cỏ bao giờ?
- Anh bắt tôi ra đấy làm gì? Ra quản các bà chăng? Việc ấy đã có đội trưởng.
- Không phải quản, mà ra đích thân làm cỏ.
Radơmiốtnốp xua tay, vui vẻ cười xoà:
- Ra để nhổ cây sơn giới với các mẹ ấy ư? Ồ, đừng hòng, anh bạn ơi, tôi xin lỗi anh! Đó đâu phải là việc của nam giới, hơn nữa tôi chẳng gì cũng là một ông chủ tịch xôviết xã.
- To nhỉ? To ông Đùng gì mà to! Thế tại sao tôi đây đi với các bà ấy nhổ sơn giới và đủ thứ cỏ dại khác thì được, mà cậu thì lại không làm được?
Radơmiốtnốp nhún vai:
- Không phải không làm được, chẳng qua là mình không muốn dơ mặt với anh em kô-dắc thôi.
- Đavưđốp chẳng nề hà công việc gì, mình cũng vậy, còn cậu thì tại sao cứ cái mũ vắt vẻo trên đầu, ngồi lì ỏ trụ sở xôviết, hoặc cái túi dết giấy lộn cắp nách, chạy nhông khắp xóm như chó dái thế vậy? Sao, thằng thư ký của cậu không đủ khả năng làm một cái giấy chứng nhận hoàn cảnh gia đình nào đó sao? Anđrây, cậu hãy quẳng cha nó những trò vớ vẩn ấy đi! Mai cậu hãy xuống đội một, biểu diễn cho các bà ấy thấy những người anh hùng nội chiến lao động giỏi như thế nào!
- Này, cậu điên hay là cậu nói đùa? Có giết chết tươi mình cũng không đi! – Radơmiốtnốp cáu kỉnh quẳng đầu mẩu thuốc lá đi, đứng phắt dậy: - Mình không muốn làm trò cười cho thiên hạ! Làm cỏ không phải việc của đàn ông đàn ang! Có lẽ cậu còn muốn mình phải đi vun khoai nữa chẳng?
Maka thản nhiên gõ gõ mẩu bút chì xuống bàn, nói:
- Đảng cử ta tới nơi nào thì nơi đó là công việc của đàn ông. Giả dụ Đảng bảo mình: Nagunốp, anh hãy đi chặt đầu bọn phản cách mạng”, mình vui vẻ đi ngay! Đảng bảo: “Đi vun khoai tây”, mình không vui lắm, nhưng đi. Đảng bảo: “Đi vắt sữa bò”, mình sẽ nghiến răng ken két, nhưng vẫn cứ đi! Mình sẽ lôi con bò chết giẫm ấy ra nắn vú, và cứ nắn bừa đi, và thề với cậu mình sẽ vắt ra sữa!
Radơmiốtnốp đã hơi dịu đi, vui vẻ nói:
- Tay hộ pháp như tay ông mà đòi vắt sữa bò! Chỉ một hai là ông đã lật nó ngã chổng kềnh thì có!
- Mình lật thật, nhưng mình sẽ dựng nó dậy, và sẽ vắt cho kỳ được thì thôi, cho đến lúc nó phải nhả ra tới giọt sữa cuối cùng. Hiểu chưa? – Và không đợi câu trả lời, anh trầm ngâm nói tiếp: - Cậu ngẫm mà xem, Anđrây ạ, và không nên vỗ ngực ta đây là đàn ông, là kô-dắc. Danh dự đảng viên của ta không phải là ở chỗ đó, mình nghĩ như vậy. Mới đây mình có lên huyện trình diện đồng chí bí thư mới, dọc đường gặp cậu Philônốp, bí thư chi bộ Tubianxki. Cậu ấy hỏi mình: “Đi đâu thế, lên huyện hả?”. Mình trả lời: Ờ, lên huyện. “Lên gặp đồng chí bí thư mới hả?. Mình nói: Ờ, lên gặp đồng chí ấy. “À, thế thì ra cái chỗ chúng mình đang cắt cỏ ấy, đồng chí ấy đang ở đấy đấy”. Và hắn giơ roi chỉ cho mình sang bên trái đường. Mình nhìn theo: họ đang cắt cỏ khẩn trương, có sáu máy đang chạy. Mình mới hỏi: các ông dở hơi hay sao mà cắt cỏ sớm thế? Hắn nói: “Đấy không phải cỏ linh lăng đâu, mà là cỏ gai và đủ thứ cỏ dại khác, chúng mình quyết định cho cắt và đánh đống ủ”. Mình hỏi: các anh tự quyết định thế đây à? Hắn trả lời: “Không, hôm qua đồng chí bí thư xuống, ra xem đồng chúng mình, thấy cái cỏ ấy liền hỏi chúng mình định xử lý nó như thế nào? Chúng mình bảo là sẽ cày lật lên để hưu canh. Đồng chí ấy cười xoà, nói: cày là hạ sách rồi, thượng sách là cắt đem ủ”.
Maka ngừng kể, nhìn Radơmiốtnốp, dò xét:
- Thế có gặp đồng chí ấy không? – Radơmiốtnốp sốt ruột hỏi.
- Gặp chứ sao không! Mình rẽ xuống ruộng, đi khoảng hai cây số thì thấy có hai chiếc xe ngựa đỗ đó. Một bố già đang đốt lửa nấu cháo; một thằng cha đô như bò mộng và miệng rộng hoác, nằm dưới gầm xe, vừa gãi chân sồn sột vừa phe phẩy một cành cây xua ruồi. Không có vẻ gì là đồng chí bí thư: chân đi đất, mặt thì như cái mẹt. Mình hỏi thăm hắn đồng chí bí thư đâu thì hắn cười khẩy, bảo: “Đồng chí ấy thay tôi lái máy cắt cỏ từ sáng, ông ấy đang lao máy chạy nhông ngoài đồng cỏ ấy”. Mình nhảy xuống, buộc ngựa vào chiếc xe, đi bộ tới chỗ họ đang cắt cỏ. Chiếc xe thứ nhất chạy qua, trên xe có một ông lão đầu đội mũ rơm, mình mặc chiếc áo sơmi mục mồ hôi rách bươm và chiếc quần vải gai bê bết dầu mỡ. Rõ ràng không phải là đồng chí bí thư. Trên chiếc xe thứ hai là một cậu húi cua, mình trần trùng trục, bóng nhẫy mồ hôi như tắm dầu luyn và loang loáng ánh nắng như một thanh kiếm sắc. Mình nghĩ bụng: rõ ràng không phải đồng chí bí thư. Bí thư đâu lại cởi trần mà ngồi xe cắt cỏ. Mình ngó các xe khác, tay nào cũng trần trùng trục cả! Thế mới gay, trong cái đám ấy biết ai là ông bí thư bây giờ. Mình nghĩ bụng: cứ nhìn xem ai mặt mũi trí thức mà đoán thì trúng ngay ấy mà; mình mới để cho các xe qua hết trước mặt, ấy thế mà mả mẹ nó, cấm đoán ra ai! Ai cũng trần đến ngang lưng, giống nhau như đúc, và chẳng ai trên trán có dấu hiệu gì ghi rõ là bí thư huyện uỷ cả. Thế là không ăn tiền với cái điệu bộ trí thức! Nom anh đếch nào cũng có vẻ trí thức cả. Cậu hãy đem một tay cố đạo râu ria lông lá xồm xoàm nhất cạo trụi đi và đẩy vào phòng tắm có lính đang tắm, liệu cậu có tìm ra lão cố đạo trong đám lính ấy không? Đây cũng thế đấy.
- Này, anh Maka ạ, chả nên nói đụng đến các nhà tu hành, phải tội đấy! – Bác Suka từ nãy vẫn ngồi im như thóc, rụt rè đề nghị.
Maka phóng về phía bác một cái nhìn cáu kỉnh, nói tiếp:
- Mình quay trở về chỗ hai chiếc xe ngựa, hỏi cái cậu kia: trong đám người lái máy cắt cỏ, ai là bí thư? Cái thằng khỉ gió miệng rộng hoác ấy bảo đồng chí bí thư là cái người cởi trần. Mình mới bảo hắn: này, anh dụi cho sạch mắt đi, ruồi nó ỉa vào đầy mắt anh rồi đấy, ngoài ông già ra anh đếch nào cũng cởi trần cả. Hắn chui ra khỏi gầm xe, dụi dụi mắt, rồi cười phá lên. Mình nhìn, và cùng cười nốt: trong khi mình quay lại chỗ xe ngựa đây thì ông lão đã bỏ mũ và cởi sơmi ra nốt, còn mặc độc cái quần mà lao dẫn đầu đoàn xe, cái đầu hói bóng lộn và chòm râu bạc gió thổi bay tung ra sau lưng. Hệt như một con thiên nga đang bơi giữa đám lau sậy vậy. Mình nghĩ bụng: hay thật! Có lẽ đó là mốt thành thị mà đồng chí bí thư đã mang về phổ biến cho họ: cởi trần trùng trục mà chạy nhông thảo nguyên, và đến cả cái ông già lụ khụ kia cũng lại bắt chước cái kiểu vô lối ấy. Cậu miệng hoác dẫn mình đi, chỉ cho mình đồng chí bí thư. Mình đi tới, bước theo chiếc máy, tự giới thiệu và nói mình lên huyện để ra mắt đồng chí ấy. Đồng chí ấy cười, dừng ngựa lại, bảo: “Ngồi lên đây, đồng chí Nagunốp, cầm lấy cương, rồi vừa cắt cỏ ta vừa làm quen với nhau”, mình leo lên ngồi vào chỗ hắn, ra roi cho ngựa đi. Đi được bốn luống chúng mình đã quen nhau… Một tay cỡ quốc tế! Những bí thư như thế ở ta thật chưa có bao giờ. Đồng chí ấy bảo: “Tôi sẽ biểu diễn cho các anh thấy ở Xtavrôpôn người ta làm việc như thế nào! Vùng các anh mặc quần có nẹp, vùng chúng tôi thì làm đến bẹp xương sườn”, rồi cười xoà. Mình bảo: ai làm giỏi hơn ai thì cũng còn phải xem đã, ai ơi chớ vội khoe tài… Anh ta hỏi mình linh tinh đủ mọi chuyện, rồi bảo: “Thôi, về đi, đồng chí Nagunốp ạ, nay mai tôi sẽ xuống chỗ các đồng chí”.
- Anh ấy có nói gì nữa không? – Radơmiốtnốp hỏi dồn.
- Không có gì tiệt. À mà có hỏi chuyện Khốprốp: cậu ấy có hoạt động gì không? Mình bảo: hoạt động gì, hoạt động cái khỉ gió!
- Anh ta bảo sao?
- Anh ta hỏi: vậy tại sao chúng nó lại giết cậu ấy, mà lại giết cả hai vợ chồng? Mình bảo: ai biết đâu được bọn kulắc nó giết là vì sao. Nó bảo không nghe thì nó giết chứ gì.
- Rồi sao nữa?
- Anh ta trệu trạo cái mồm, cứ như ăn phải quả táo chua, rồi “hừm, hừm”, chẳng biết là lẩm bẩm hay là đằng hắng, còn nói thì chẳng nói thêm gì nữa.
- Anh ta nghe ai nói cho biết chuyện Khôprốp thế nhỉ?
- Biết được ai nói. Công an huyện báo cáo lại cho anh ấy, chắc chỉ thế thôi.
Radơmiốtnốp lẳng lặng hút một điếu thuốc nữa. Anh suy nghĩ về một điều gì lung lắm, đến nỗi quên cả mục đích mình đến thăm Nagunốp. Khi ra về, anh mỉm cười nhìn thẳng vào mắt Maka, nói:
- Thông rồi! Mai, tờ mờ sáng mình sẽ xuống đội một. Cậu có thể yên tâm, Maka ạ, đi làm cỏ mình sẽ không gượng nhẹ cái lưng mình đâu. Nhưng chủ nhật anh phải khao tôi nửa lít vốtka đấy, báo anh biết thế!
- Thì khao, và ta sẽ cùng nhau nhậu nhẹt nếu cậu làm cỏ tốt. Nhưng mai nhớ dậy sớm tí vào, làm gương cho các mẹ ấy thấy đi lao động phải như thế nào. Thôi, chúc ông thành công! – Chúc xong, Maka lại vùi đầu vào quyển sách.
Gần nửa đêm, trong không khí vắng lặng như tờ bao trùm lên làng xóm, anh và bác Suka lại trang trọng ngồi lắng nghe những tiếng gà gáy đầu tiên, mỗi người thưởng thức theo kiểu của mình cái bản nhạc mê tơi ấy.
- Cứ như trong nhà thờ! – Bác Suka thành kính thều thào, nhịu giọng đi vì quá ư xúc động.
- Như kỵ binh thao diễn! – Maka nói, mắt mơ màng nhìn chiếc bóng đèn ám khói.
Cái thú say mê kỳ quặc và lạ đời ấy, cái thú say mê ít lâu sau sẽ làm cho Maka suýt mất mạng, đã bắt đầu như thế đó.
Tập II - Chương 5
Chỉ có một mình Radơmiốtnốp ra tiễn chân Đavưđốp đi xuống đội hai. Đavưđốp đi ghé chiếc xe chở lương thực thực phẩm từ kho nông trang cho thợ cày, các gia đình cũng gửi kèm cho chồng con quần áo lót và ít quần áo ngoài tập tàng.
Đavưđốp ngồi trên xe, buông thõng hai chân đi đôi bốt vẹt gót đã gả màu nâu, lưng gù xuống như một ông già và mắt hờ hững nhìn quanh. Dưới chiếc véttông khoác vai, góc nhọn đôi xương bả vai anh nhô hẳn lên. Đầu anh lâu rồi chưa cắt tóc và từ dưới chiếc mũ cátkét hất ngược ra sau gáy, những mớ tóc đen bò lan xuống cái cổ mập mạp đen xạm và cổ áo véttông cáu ghét của anh. Có một vẻ gì ơn ớn và thảm hại toát ra từ toàn bộ dáng dấp của anh…
Radơmiốtnốp nhìn anh, nhăn mặt lại như đau quặn, và thoáng nghĩ: “Con Luska nó làm cho cu cậu tả tơi đến ghê! Chà, cái con ranh con! Nó bỏ bùa cu cậu, mà lại là một cậu cứng cựa chứ bỡn đâu, thế nào mà đến nỗi người ta phát ngán không muốn nhìn nữa! Đó, tình yêu dẫn cánh ta đến nông nỗi ấy đó: đang là người biến thành cái xác ve”.
Hơn ai hết, Radơmiốtnốp có đầy đủ thẩm quyền để hiểu rõ “tình yêu dẫn ta đến nông nỗi nào”. Anh nhớ đến Marina Pôirkôva, đến vài chuyện tình tang khác, và thở dài chua chát, nhưng rồi lại mỉm cười vui vẻ, rảo bước đi đến trụ sở xôviết. Nửa đường anh gặp Maka Nagunốp. Vẫn với cái vẻ như thường lệ, khô khan, ngực ưỡn, hơi có tí phô trương cái điệu bộ nhà binh rất chính quy của mình, anh lẳng lặng chìa tay cho Radơmiốtnốp, và hất hàm chỉ về phía chiếc xe ngựa đang chạy đi dọc theo đường cái.
- Có trông thấy bộ dạng cha Đavưđốp không?
- Nom có gầy đi tí, - Radơmiốtnốp trả lời đánh trống lảng.
- Mình, khi mình ở tình cảnh như hắn, mình cũng rộc đi trông thấy. Nhưng hắn thì quá lắm, hèn yếu! Đút vào sáu tấm đi cho rồi! Hồi hắn ở nhà mình, hắn đã biết con mụ ấy là cái loại súng máy ác liệt như thế nào, đã tai nghe mắt thấy mình đấu tranh với cái giống phản cách mạng đầu gối tay ấp ấy như thế nào rồi, ấy thế mà đùng một cái, hắn chết thẳng cẳng! Hôm nay mình nhìn hắn và nói không ngoa, tim mình ứa máu: gầy tọp, nom như người chịu tội, mắt lấm la lắm lét, mà quần thì, khổ cái thân đời hắn, chả biết nó bám vào chỗ nào trên người hắn. Hắn đang chết dần chết mòn trước mắt chúng ta! Cái con vợ cũ của mình, hồi mùa đông đáng lẽ ta phải liệt nó vào loại kulắc và tống cổ đi cùng với thằng Chimôphây của nó đến vùng băng giá mới phải. Ở đấy nhiệt độ của nó may ra mới hạ được tí nào chăng.
- Cậu cũng biết chuyện à, mình không ngờ đấy…
- Hà! “Không biết”! Cả làng ai cũng biết, mà mình lại không biết sao? Mắt mù hay sao mà không biết? Đối với mình, nó lằng nhằng với thằng nào thì mình mặc mẹ nó, nhưng này, đồ đĩ rạc, đừng có đụng vào Đavưđốp của tao, đừng có hại người đồng chí thân thiết của tao! Đấy, vấn đề đặt ra lúc này là như thế đó!
- Giá cậu ngăn chặn trước đi. Sao cậu lại cứ im?
- Nhưng mình ngăn chặn thì không tiện tí nào! Biết đâu cậu ấy lại chẳng nghĩ mình can cậu ấy là vì ghen, hoặc vì cái chết tiệt gì khác. Nhưng cậu, cậu là người ngoài cuộc, sao cậu cũng lại im? Sao không nghiêm khắc cảnh cáo hắn?
- Cảnh cáo ghi lý lịch hả? - Radơmiốtnốp mỉm cười.
- Thế nào cũng có ngày hắn bị ghi lý lịch, nếu hắn vẫn cứ rũ rù rù thế. Nhưng hai chúng ta, Anđrây ạ, ta không thể trù trừ được nữa. Con Luska là một con rắn độc, dính vào nó thì cậu ấy sẽ chẳng kéo nổi đến cách mạng thế giới đâu, mà sẽ chết toi lúc nào không biết. Hoặc chả mấy bữa mà chuốc vào mình bệnh ho lao, hoặc cái bệnh giang mai lậu kén gì đó! Mình, khi cắt đứt với nó, mình thật cứ như được tái sinh: không còn nơm nớp mắc bệnh hoa liễu gì nữa, học tiếng Anh cứ băng băng, chẳng cần thầy, chỉ độc bằng đầu óc mình thôi mà vẫn đạt kết quả tốt; công tác của Đảng mình làm đâu ra đấy, mọi công việc khác mình cũng chẳng nề hà. Nói tóm lại, cảnh sống độc thân, mình được chân tay tự do, đầu óc sáng sủa. Còn trước kia sống với con ấy, rượu vốtka mình chẳng uống mà ngày nào cũng choáng váng như say. Đối với chúng ta, những người cách mạng, thì đàn bà, anh bạn ạ, đúng như thuốc phiện đối với nhân dân! Như mình thì mình sẽ ghi câu danh ngôn ấy vào điều lệ bằng chữ đậm, để mỗi đảng viên, mỗi người cộng sản thực sự, mỗi người cảm tình Đảng, mỗi ngày phải đọc lại ba lần trước khi đi ngủ và sáng dậy lúc bụng đói. Đến lúc ấy sẽ không còn thằng bố khỉ nào rơi vào cái cảnh khốn nạn như anh chàng Đavưđốp nhà ta bây giờ nữa. Cậu nhớ lại mà xem, Anđrây ạ, có biết bao nhiêu người tốt hẳn hoi đã bị điêu đứng vì cái giống đàn bà khốn kiếp ấy! Không sao đếm xuể! Vì bọn chúng mà xảy ra biết bao nhiêu chyện biển thủ, tham ô, biết bao nhiêu người biến thành rượu chè be bét, biết bao nhiêu anh em tốt bị kỷ luật Đảng, biết bao nhiêu anh chàng phải ngồi rũ tù. Thật đúng là cái giống tà ma ác quỷ!
Radơmiốtnốp trầm ngâm suy nghĩ. Họ bước đi lẳng lặng một lát, đắm mình vào những ký ức gần xa, nhớ lại những người đàn bà họ đã gặp trên quãng đường đời của mình. Maka Nagunốp phồng mũi lên, mím chặt đôi môi mỏng và bước đi như hành quân trong đội ngũ, vai ưỡn thẳng, chân bước đều, nom như hiện thân của sự sắt đá. Còn Radơmiốtnốp thì vừa đi vừa lúc thì mỉm cười, lúc thì khoát tay một cái tuyệt vọng, lúc thì vân vê bộ ria mép quăn quăn màu vàng hoe, mắt lim dim như một con mèo đã no nê thoả mãn. Và có lúc, chắc hẳn do nhớ lại một chuyện tình duyên đặc biệt đẹp đẽ nào với một cô này, cô nọ, anh cứ rên lên như người vừa làm một chầu vốtka thoải mái và, xen kẽ với những quãng im lặng kéo dài, thốt lên những lời nghe chẳng ra đầu đũa gì:
- Chà, chà! Ôi, cái mụ ấy! Ác liệt! Em ơi, em trời đánh thánh vật!...
* * *
Grêmiatsi Lốc đã rớt lại phía sau đâu đó, khuất sau một cồn đất, và thảo nguyên mênh mông tít tắp đã nuốt chửng Đavưđốp. Hít căng lồng ngực mùi hương ngây ngất của cỏ và đất ẩm, Đavưđốp nhìn ngắm hồi lâu dẫy đồi mộ phía xa. Những ngọn đồi xanh xanh đằng xa ấy có cái gì phảng phất gợi anh nhớ đến những đợt sóng cồn của biển Bantích và, không cưỡng nỗi một nỗi buồn dìu dịu bất thần dâng lên trong lòng, anh vừa thở dài đánh sượt một cái vừa đưa đôi mắt bỗng dưng rơm rớm nhìn ra chỗ khác… Rồi cái nhìn thẫn thờ ngơ ngác của anh bắt gặp một điểm nhỏ lờ mờ trên nền trời. Oai hùng đường bệ trong cảnh cô đơn, một chú đại bàng đen thảo nguyên - dân thường trú của xứ đồi mộ - đang bay liệng trên bầu trời xanh lạnh lẽo, từ từ đĩnh đạc và mỗi vòng lại hạ độ cao xuống tí chút. Đôi cánh rộng, tày ở hai đầu và giang ra bất động đã dễ dàng đưa chim lên đến tận chín tầng mây, và ngọn gió thổi ngược đã tha thiết vuốt ve và áp sát bộ lông đen ánh lên một ánh đùng đục vào thân thể có khung xương rắn chắc của chim. Khi chim khẽ nghiêng cánh lượn vòng lao về phương đông thì ánh mặt trời chiếu ngược vào chim từ dưới lên, và lúc ấy Đavưđốp thấy hình như mặt dưới trăng trắng của cánh chim loang loáng những ánh bạc khi chợt loé lên khi vụt tắt.
… Thảo nguyên mênh mông, bát ngát. Những đồi mộ cổ kính trong làm khói lam. Con đại bàng đen bay trên nền trời. Tiếng xào xạc êm ái của đám cỏ nghiêng mình trước gió… Đavưđốp cảm thấy mình bé nhỏ và chìm nghỉm trong cảnh trời đất bao la ấy, đưa con mắt buồn rầu nhìn bao quát thảo nguyên mênh mông vô tận đến nao nao lòng người. Trong những giây phút này, mối tình của anh yêu Luska, cái đau khổ của tan vỡ, ước mong không được thoả mãn về một cuộc gặp mặt lại, tất cả đối với anh sao mà nó nhỏ nhoi, vô nghĩa. Cảm giác cô đơn, cảm giác bị rứt ra khỏi cuộc sống nặng nề xâm chiếm lấy hồn anh. Xưa kia anh đã từng có cảm giác na ná như vậy khi đêm đêm đứng vọng tiêu trên mũi tàu chiến. Chà, sao mà đã xa lắc xa lơ! Cứ như một giấc chiêm bao lâu ngày lắm rồi hầu như đã quên…
Ánh nắng đã nóng lên rõ rệt. Ngọn gió nam hây hẩy đã mạnh lên. Đavưđốp gục đầu xuống và thiu thiu đi lúc nào không biết, người khẽ lắc lư khi xe xóc trên những ổ gà và những chỗ mấp mô trên đường xá thảo nguyên hoang vu.
Đavưđốp gặp phải một đôi ngựa còm nhom và một bác xà ích ít nói, bác nông trang viên Ivan Argianốp mà dư luận hàng xóm cho là có tí cám hấp. Bác hết sức gượng nhẹ đôi ngựa bác mới được giao, và vì vậy hầu như suốt dọc đường tới lán của đội chúng chỉ đi lững thững bước một êm ru đến nỗi nửa đường Đavưđốp sực tỉnh dậy đã không nén nổi và nghiêm giọng hỏi:
- Sao thế, hả bác Ivan, bác chở bát đĩa đi chợ bán hay sao vậy? Sợ vỡ hẳn? Sao cứ bước một suốt mãi thế này?
Bác Argianốp chẳng buồn đáp, cũng chẳng buồn quay lại. Một lát sau bác mới trả lời bằng giọng the thé:
- Chở “bát đĩa” gì thì lão biết chứ! Chú là chủ tịch nông trang thật đấy những cũng không bắt được lão phải cho ngựa chạy đại lên vô tích sự đâu. Chú đừng ấm ớ!
- Thế nào là “vô tích sự”? Nhưng ít ra thì lúc xuống dốc bác cũng phải cho chạy rảo lên tí chứ! Xe chở có nặng lắm đâu, có thể coi như chạy không, thực tế thế!
Im lặng một lúc lâu bác Argianốp mới miễn cưỡng đáp:
- Con ngựa tự nó khắc biết lúc nào nên đi bước một, lúc nào nên chạy.
Đavưđốp bắt đầu phát cáu lên thực sự. Chẳng giấu cái bực mình, anh kêu thốt lên:
- Hay nhỉ! Thế bác thì để làm cái tích sự gì? Giao cho bác tay cương làm gì? Đặt bác ngồi trên cái ghế này để làm trò gì? Thôi, đưa cương đây tôi!
Bác Argianốp đáp lại với giọng rõ ràng đã bớt miễn cưỡng:
- Nông trang giao cho lão giây cương để đưa ngựa tới nơi cần đến, chứ không phải tới nơi không cần đến. Nhưng nếu chú không thích ngồi bên lão, không thích lão ngồi đây, thì lão có thể xuống đi bộ cạnh xe, nhưng giây cương thì lão không giao cho chú được đâu, chú đừng ấm ớ!
- Sao lại không giao được? - Đavưđốp hỏi, cố nhìn thẳng vào mặt bác xà ích đang cố tình lảng đi không nhìn vào mặt anh.
- Thế chú có chịu giao cương của chú cho lão không?
- Cương nào? - Đavưđốp chưa hiểu ý, hỏi.
- Còn cương nào nữa! Chú cầm cương nảy mực toàn nông trang, được nhân dân giao phó cho chỉ đạo công việc của nông trang. Chú có chịu giao cương ấy cho lão không? Chả đời nào! Chắc chú sẽ bảo: “Bố già ơi, đừng ấm ớ!”. Thì lão cũng vậy! Lão có đòi cương của chú đâu? Vậy chú cũng đừng đòi cương của lão!
Đavưđốp vui vẻ cười phá lên, không còn tí dấu vết nào của cơn bực vừa rồi.
Anh hỏi với cái vẻ thú vị đợi câu trả lời: - Này, thế nếu nói giả dụ, làng có cháy, bác chở nước cứu hoả cũng vẫn cứ lững thững cái tốc độ nhục nhã này sao?
- Chở nước cứu hoả thì chả ai cử những người như lão…
Và đến lúc ấy, nhìn nghiêng vào mặt bác Argianốp, Đavưđốp mới thấy ở dưới gò má rám gió nứt nẻ của bác những vết nhăn li ti của một nụ cười kín đáo.
- Vậy theo bác, người ta cử ai?
- Cử những người như chú với chú Maka Nagunốp.
- Sao lại thế?
- Vì trong làng chỉ có hai anh đi cũng chỉ thích đi nước đại, và sống cũng như ngựa phi nước đại…
Đavưđốp cười một trận ra cười, tay vỗ đầu hối đôm đốp, đầu ngửa ra sau mà cười. Chửa kịp lấy lại hơi sau trận cười ấy, anh đã hỏi:
- Thế nghĩa là, nếu có cháy thật thì chỉ có tôi với Maka có nhiệm vụ chữa cháy thôi ư?
- Không, sao lại thế! Chú với Maka thì chỉ chở nước thôi, các chú sẽ quất ngựa chạy bò rạp đất, bọt sủi đầy mồm bắn tung toé tứ phía, còn dập tắt đám cháy sẽ là bà con nông trang viên chúng tôi, người thùng, người câu liêm, người rìu… Còn đứng chỉ huy chữa cháy thì không ai bằng Radơmiốtnốp…
“Thế mà bảo cám hấp đấy!”, - Đavưđốp nghĩ bụng, thực sự ngạc nhiên. Sau một phút im lặng, anh hỏi:
- Tại sao bác bảo chỉ huy chữa cháy thì nhất Radơmiốtnốp?
Lần này thì bác Argianốp cười một cách tự nhiên hơn, đáp:
- Chú khôn mà không tinh. Ai sống như thế nào thì khi chữa cháy phải được giao nhiệm vụ như thế ấy chứ, tóm lại là theo bản tính người ấy. Chú với anh Maka sống cứ như ngựa phi, ngày đêm chẳng lúc nào yên, thành thử chỉ có hai chú là sẽ chở được nước khẩn trương nhất, vì các chú là người nhanh nhẹn xông xáo nhất: không có nước thì có trời chữa được cháy, đúng thế không? Còn cái chú Anđrây Radơmiốtnốp thì sống như ngựa chạy nước kiệu, không giơ roi ra thì không chịu dấn lên, không chịu đổi bước… Nghĩa là, với cái lối ataman của chú ấy thì còn có việc làm gì khác ngoài cái việc tay chống nạng, hô hét quát tháo, làm rối tinh xoè và quẩn chân mọi người? Còn chúng tôi, nghĩa là nhân dân, thường ngày sống thủng thẳng bước một thế thôi, và chúng tôi phải từ từ dập tắt đám cháy, không lộn xộn, không rối rít lên…
Đavưđốp vỗ đốp một cái vào lưng bác Argianốp, quay ngang người bác về phía mình và bắt gặp một đôi mắt đang mỉm cười hóm hỉnh trên khuôn mặt xồm râu và hiền lành phúc hậu của bác. Anh khẽ mỉm cười, bảo:
- Ông nội ơi, ông cáo lắm!
- Thì anh cũng vậy, anh Đavưđốp ạ, cũng nhất hạng cáo già! - Bác Argianốp vui vẻ đối đáp lại.
Tập II - Chương 5 (tiếp theo)
Họ tiếp tục lê đi bước một, nhưng Đavưđốp yên chí một bề là có nói mấy cũng vô ích nên thôi không thúc bác Argianốp nữa.
Thỉnh thoảng anh lại nhảy xuống đi bộ bên xe. Chuyện trò về công việc nông trang và linh tinh đủ thứ chuyện, Đavưđốp mỗi lúc một thấy rõ bác xà ích già chả có tí gì lẩm cẩm cả; chuyện nào bác cũng xét đoán một cách chí lý, chính xác, hiện tượng nào bác cũng có một cách đánh giá riêng, độc đáo, ít thấy.
Khi đằng xa đã hiện ra dãy lán của đội và bên cạnh đó làn khói bếp mảnh khảnh uốn khúc cuộn lên, Đavưđốp hỏi bác xà ích:
- Này, bác Ivan ơi, tôi hỏi thật, suốt đời bác lúc nào cũng cho ngựa đi lững thững thế này sao?
- Đúng vậy.
- Sao bác không bảo tôi biết trước cái lối lạ đời ấy của bác? Tôi sẽ chả đi xe bác đâu, thực tế thế!
- Việc gì lão phải vỗ ngực khoe khoang nhỉ? Cứ để tự mắt anh thấy kiểu đi củalão. Anh đi với lão một lần, rồi anh kệch đến già.
Đavưđốp cười nụ: - Tự đâu mà bác sinh ra cái kiểu ấy?
Bác Argianốp không trả lời câu hỏi, kể sang chuyện khác:
- Ngày xưa lão có ông hàng xóm làm thợ mộc, rượu bét nhè. Tay vàng tay ngọc, chỉ phải cái tội bét nhè. Lão ta cố nhịn, cố nhịn, nhưng rồi cứ động đánh hơi thấy mùi rượu là luý tuý càn khôn luôn! Có cái gì trên người là lão cởi bán uống hết sạch, không còn lấy manh khố.
- Rồi sao nữa?
- Rồi đến đời con lão ta thì chỉ độc uống nước lã.
- Bác kể loanh quanh thế làm gì?
- Đâu mà loanh quanh. Ông cụ lão hồi còn sống là một tay đi săn táo tợn, và cưỡi ngựa lại còn táo tợn hơn thế nữa. Hồi còn tại ngũ ông cụ chiếm tất cả những giải nhất trung đoàn về đua ngựa, đấu kiếm và nhào lộn trên lưng ngựa. Giải ngũ về, năm nào cụ cũng giật giải đua ngựa hàng xã. Cụ là bố đẻ ra lão thật đấy, nhưng nói trộm vong linh cụ, cụ là một tay phá hoại. Cụ là một anh kô-dắc có tính thích giương vây, chơi trội… Thường là sáng nào cụ cũng nướng một cái đinh vào bếp lò để uốn ria mép. Cụ thích làm bảnh với bà con dân làng, nhất là với các bà các cô…. Và cụ phóng ngựa nom mới ghê! Thật là kinh hồn bạt vía! Nói giả dụ cụ có việc phải lên phố, cụ vào chuồng dắt con ngựa chiến ra, đóng yên cương vào, và thế là phóng luôn! Một hai vòng sân, cho ngựa nhảy phốc qua rào, rồi thì chỉ còn thấy bụi mù sau lưng cụ. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ cụ không hề biết đến nước kiệu hoặc đi bước một. Từ làng lên đến phố quận là hai mươi tư véxta, cụ làm một lèo, và khi về cũng vậy. Cụ thích chơi ngông, phóng ngựa đuổi theo thỏ rừng. Thỏ rừng nhá, chứ không phải sói đâu! Cụ xua con thỏ nấp trong đám cỏ ra, đuổi nó ra khỏi bụi rậm, rượt theo, rồi hoặc là vung roi quật chết, hoặc là cho ngựa xéo chết. Đã bao nhiêu lần ông cụ phi ngựa ngã om xương, nhưng vẫn không chịu thôi cái trò ấy. Và ngựa của nhà, ông cụ cho đi đời hết. Lão nhớ, có sáu con bị ông cụ hành cho: con thì què, con thì chết. Ông cụ đã làm mẹ con lão sạt nghiệp! Chỉ trong vòng một mùa đông, cụ đã cho toi hai con ngựa. Vấp một cái giữa lúc đang phi, lộn cổ xuống đất đóng băng, thế là đi đứt một con! Mẹ con thấy ông cụ lủi thủi đi bộ về, vai vác bộ yên. Bà cụ khóc gào lên như nhà có người chết, còn ông cụ cứ phớt tỉnh nhân sự! Cụ nằm liệt giường ba ngày, mồm rên hừ hừ, nhưng những vết thâm tím trên người chưa kịp tan, cụ đã tấp tểnh đi săn rồi…
- Quần chết ngựa mà sao cụ vẫn sống nguyên được nhỉ?
- Con ngựa nó nặng xác lắm. Đang phi mà ngã thì nó lộn cổ ba vòng trong không khí rồi mới rơi xuống mặt đất. Còn ông cụ ấy à, ông cụ nhả luôn bàn đạp ra và bay khỏi lưng ngựa như một con én. Rồi rơi bịch xuống, nằm bất tỉnh nhân sự, đủ cái thời gian cần thiết để lai tỉnh, rồi lổm ngổm bò dậy, hành quân cuốc bộ về nhà. Gan thật là gan cóc tía! Và đúng là xương đồng da sắt!
- Bợm đấy nhỉ! - Đavưđốp phục lăn, nói.
- Bợm thì đúng là có bợm, nhưng ở đời có kẻ lại còn bợm hơn…
- Sao?
- Cụ đã bị đám kô-dắc trong làng giết toi mạng.
- Vì sao vậy? - Đavưđốp cuốn điếu thuốc hút, tò mò hỏi.
- Anh cho lão xin một điếu.
- Tưởng bác không hút chứ, bác Ivan?
- Lão có hút đâu, nhưng đôi lúc cũng muốn làm một hơi. Với lại, ngồi nhớ lại chuyện ngày xưa, không hiểu sao thấy khô khô và đắng miệng… Anh hỏi tại sao họ lại giết cụ hả? Nghĩa rằng là cũng đáng kiếp thôi…
- Đáng kiếp là thế nào?
- Chuyện nhân tình nhân ngãi ấy mà. Cái bà này có chồng rồi. Và anh chồng nghe phong thanh biết chuyện. Một chọi một với ông cụ thì anh ta ngại: cụ không cao lớn lắm, nhưng khoẻ kinh người. Thế là anh chồng cô nhân tình của cụ mới đem chuyện bàn với hai tay em. Câu chuyện xảy ra vào ngày lễ cầu Đức bà. Đêm hôm ấy ba anh em hắn rình ông cụ ở bờ sông… Lạy Chúa, họ nện cho ông cụ một trận nhá! Cứ đòn xóc mà quật, và còn thanh sắt gì nữa… Sáng hôm sau khi người ta khiêng ông cụ về nhà thì ông cụ vẫn còn bất tỉnh nhân sự và xám ngoét như chì. Suốt một đêm nằm bất động trên mặt băng giá đâu có phải là chuyện bỡn, phải không? Trên mặt băng cơ mà! Một tuần sau ông cụ bắt đầu nói được và nghe ai nói gì thì hiểu được. Tóm lại là cụ hồi tỉnh. Nhưng cụ nằm liệt giường mất hai tháng, thổ ra huyết và nói thì chỉ lí nhí, lí nhí. Lục phủ ngũ tạng cụ bị đánh dập hết mà. Bạn bè đến thăm hỏi cứ căn vặn cụ: “Đứa nào đánh anh, hả anh Phêđo! Nói đi, chúng tôi sẽ…”. Nhưng cụ cứ nín thinh, khẽ nhếch mép cười, và khi đưa mắt nhìn thấy bà cụ đã ra ngoài mới thều thào nói: “Anh em ạ, tôi không nhớ mà. Những anh chồng đã bị tôi làm hại thì nhiều lắm”.
Còn bà cụ thì không biết bao nhiêu lần đã quỳ xuống bên giường ông cụ mà van: “Phêđo mình ơi, ít ra thì cũng xin mình nói cho tôi biết: đứa nào đã hại mình? Mình nói đi, lạy Chúa, nói đi để tôi còn biết đường cầu Chúa trừng phạt ai!”. Nhưng ông cụ đặt bàn tay lên đầu bà cụ, vuốt tóc như vuốt ve một đứa nhỏ, và bảo: “Tôi chả biết là ai cả. Trời tối lắm, tôi không đoán ra là ai mà. Họ nện tôi từ đằng sau lưng, đánh ngã quay lơ, tôi cũng có kịp nhận ra đứa nào cho tôi ăn đất đâu…”. Hoặc cũng vẫn ôn tồn như thế cụ mỉm cười bảo cụ bà: “Mẹ nó cứ thích bới chuyện cũ ra làm gì? Ác giả ác báo đấy thôi…”. Nhà mời cha đạo đến làm lễ ban thánh thể, nhưng ông cụ chẳng hở ra điều gì với cha đạo cả. Người gan thế mới là gan!
- Sao bác biết cụ không nói gì với cha đạo?
- Lão rúc dưới gậm giường, nghe trộm mà. Cụ bà bảo: “Này, Ivan, mày chui xuống gậm giường, nghe xem có khi thày mày nói cha biết những đứa nào đã giết thày đấy”. Nhưng ông cụ chả nói gì về họ cả. Năm lần bảy lượt bị cha căn vặn, cụ đều nói: “Thưa cha, con là kẻ có tội”, rồi hỏi lại cha: “Thưa cha Mitơri, chẳng hay ở thế giới bên kia có ngựa không cha?”. Cha đạo nghe thế xem chừng phát hoảng lên, lắp bắp nói: “Ơ hay, Phêđo con ơi, con chiên của Chúa! Làm gì có chuyện ngựa nào ở thế giới bên kia! Con hãy lo đến chuyện cứu vớt linh hồn con!”. Cha đạo khuyên giải ông cụ hồi lâu, ông cụ vẫn cứ nín tinh, rồi nói: “Cha bảo ở đấy không có ngựa à? Chán nhỉ! Giá có thì con sẽ xin cái chân dạy ngựa… Nhưng đã không có thì con cũng chả biết làm gì ở cái thế giới bên kia ấy cả. Thế thì con sẽ chả chết nữa đâu, thế thôi cha ạ”. Cha đạo làm ù cho xong lễ ban thánh thể rồi ra về, trong bụng rất khó chịu, tức đến lộn ruột. Lão kể lại cụ bà nghe đầu đuôi, cụ bà oà khóc và bảo: “Thày con sống là một kẻ tội lỗi, chết cũng sẽ là một kẻ tội lỗi mất thôi!”.
Sang xuân - lúc ấy tuyết đã tan - ông cụ ngóc dậy được, đi đi lại lại trong nhà hai ngày, rồi sang ngày thứ ba, lão thấy cụ khoác áo bông vào, đội mũ bông vào, rồi bảo; “Này, Ivan, đi đóng yên con ngựa cái cho thày”. Hồi ấy nhà chỉ còn độc con ngựa cái ba tuổi. Cụ bà nghe thấy ông cụ nói, và thế là giọt ngắn giọt dài: “Phêđo, bây giờ mình còn cưỡi ngựa sao được nữa mà đòi cưỡi! Đứng còn không vững kia mà! Mình chả thương thân thì cũng phải thương vợ con tí chứ!”. Cụ ông cười xoà và bảo: “Mẹ nó à, cả đời tôi chả đi ngựa bước một bao giờ. Trước khi tôi chết, mẹ nó cho tôi được lên yên một lần nữa thôi, đi bước một quanh sân một tí. Hai vòng thôi mà, rồi vào ngay”.
Lão đi đóng yên con ngựa, dắt đến trước thềm. Bà cụ dìu ông cụ ra. Hai tháng trời cụ không cạo râu, và trong nhà tối quá không thấy thời gian qua cụ đã thay đổi ghê đến thế nào… Ra chỗ thanh thiên bạch nhật, lão nhìn ông cụ, và trong lòng nóng bỏng rơi nước mắt! Hai tháng trước râu tóc cụ đen như bồ hóng, thế mà bây giờ râu cụ đã hoa râm, ria cũng vậy, còn tóc hai bên thái dương thì bạc phơ, trắng như tuyết… Giá như cụ không mỉm một nụ cười đau khổ thì lão cũng chả khóc đâu, nhưng thế này thì lão không kìm nổi… Cụ cầm lấy cương ở tay lão, víu lấy bờm ngựa, trong khi cánh tay trái cụ bị đánh gãy chỉ vừa mới liền xương thôi. Lão định đỡ cụ, nhưng cụ không cho. Người kiêu đâu mà kiêu lạ! Chỉ cái chuyện mình yếu thôi cũng đã làm cụ xấu hổ rồi. Chắc hẳn cụ muốn, cũng như xưa, bay lên lưng ngựa như một con chim, nhưng không được… Cụ đặt chân lên bàn đạp dướn mình lên, nhưng cánh tay trái cụ đã phản lại cụ, ngón tay rã rời ra, và cụ ngã ngửa, lăn chổng kềnh xuống đất… Mẹ con lão khiêng cụ vào nhà. Trước cụ chỉ ho khạc ra máu thôi, bây giờ mồm cụ ộc máu ra như cái vòi rồng. Cho đến tối bà cụ không lúc nào rời khỏi cái chậu giặt, không sao giặt kịp những khăn lau đỏ lòm máu. Nhà lại kêu cha đạo tới. Đến đêm cha đạo làm lễ ban thánh thể cho ông cụ, nhưng cụ thật là gan lạ gan lùng! Mãi đến ngày thứ ba sau khi chịu lễ ban thánh thể, vào lúc xẩm tối, cụ mới bắt đầu rên rỉ, vật vã trên giường một lúc, rồi nhảy xuống đất, nhìn bà cụ bằng đôi mắt đục lờ nhưng tươi cười, và nói: “Nghe nói chịu lễ xong thì không được giẫm chân xuống đất, nhưng tôi muốn đứng thế một tí… Cái đất này bao lâu nay tôi xéo lên nó, cưỡi ngựa trên nó, nay phải rời bỏ nó lòng tôi đau như cắt… Mẹ nó ơi, đưa tôi nắm bàn tay bé bỏng của mẹ nó, cái bàn tay trên đời này đã vất vả trăm chiều…”.
Bà cụ xích gần tới, nắm lấy tay ông cụ. Ông cụ ngả lưng nằm xuống, im lặng một lát, rồi thều thào: “Còn nước mắt thì vì tôi bàn tay mẹ nó cũng đã phải lau biết bao nhiêu bận…” - cụ quay mặt vào tường rồi qua đời sang thế giới bên kia chăn ngựa cho đức thánh Vlaxi…
Chắc hẳn bồi hồi trước chuyện xưa gợi lại, bác Argianốp im lặng một hồi lâu. Đavưđốp hắng giọng, hỏi:
- Này, bác Ivan à, nhưng sao bác lại biết kẻ đánh cụ là anh chồng của… ờ, nghĩa là của cái bà kia... và anh em nhà hắn? Bác phỏng đoán thế thôi chứ gì? Nghi thôi hả?
- Nghi là thế nào! Chính cụ đã bảo lão biết thế, một ngày trước khi nhắm mắt.
Đavưđốp ngạc nhiên nhổm người lên:
- Thế nào, cụ bảo à?
- Phải, đúng là cụ bảo. Sáng hôm ấy bà cụ đi vắt sữa bò, lão ngồi bên bàn học nốt bài trước khi cắp sách ra trường, lão nghe thấy tiếng cụ thều thào; “Ivan, lại đây con!”. Lão lại. Cụ thều thào: “Cúi thấp xuống đây”. Lão cúi xuống. Cụ nói lí nhí: “Con ơi, con sắp mười ba rồi, thày chết đi con sẽ là chủ gia đình, con hãy ghi nhớ điều này: kẻ đánh chết thày là thằng Avêrian Arkhipốp và hai thằng em nó, thằng Aphanaxi và thằng Xergây mắt chột. Nếu như chúng nó đánh thày chết ngay lúc ấy, thày đã chả mang lòng thù oán chúng đâu. Hôm ấy, ở bờ sông, lúc còn tỉnh, thày đã xin chúng giết thày chết ngay đi. Nhưng thằng Avêrian đã bảo thày; “Mày không được chết nhẹ nhàng như thế đâu, đồ sâu bọ! Mày phải sống què sống quặt, mày phải nuốt máu mày ừng ực, chán chê mê mỏi đã rồi mới chết nổi cơ!”. Đấy, vì thế thày mới oán thằng Avêrian. Thày đã chết đến cổ rồi, nhưng bụng vẫn oán giận! Bây giờ con còn bé, nhưng một ngày kia con lớn, con hãy nhớ những nỗi đau đớn của thày và giết thằng Avêrian đi cho thày! Những điều thày nói đây, con đừng nói với ai cả, cả mẹ, cả bất cứ ai trên đời. Con thề sẽ không nói với ai đi!”. Lão thề, hai mắt ráo hoảnh và hôn chiếc thánh giá cụ đeo trước ngực…
- Chà, hệt như chuyện dân Tserkex ở Cápcadơ ngày xưa vậy! - Đavưđốp bồi hồi trước câu chuyện bác Argianốp kể, kêu thốt lên.
- Thế dễ chỉ dân Tserkex mới có tim gan, còn người Nga thì có hòn đá thay cho tim sao? Chú nó ơi, người ta ai cũng như ai.
- Rồi sao nữa? - Đavưđốp nóng ruột nghe tiếp, hỏi.
- Chúng tôi mang cụ đi chôn. Ở nghĩa địa về, lão vào phòng, đứng tựa lưng vào bậu cửa, lấy bút chì đánh dấu quãng đỉnh đẩu. Tháng tháng lão đo xem mình cao lên đến đâu: lão muốn mau mau lớn để giết thắng Avêrian… Lão đã thành chủ gia đình, và lúc ấy lão mới mười hai tuổi, và ngoài lão ra, bà cụ lão lớn nhỏ còn bảy đứa nữa. Từ ngày ông cụ mất, bà cụ ốm đau luôn, và lạy Chúa, nói sao cho hết những cay đắng cùng cực mẹ con lão đã phải cắn răng chịu! Ông cụ bậy bạ thật đấy, nhưng ông cụ biết chơi thì cũng biết làm. Đối với những ai đó thì cụ là con người xấu xa, còn đối với mẹ con lão thì cụ là máu mủ: từ mùa xuân đến mùa thu cụ còng lưng ngoài đồng kiếm cho mẹ con lão có bánh ăn, có áo mặc, có giày đi… Lúc ấy vai lão còn hẹp, lưng lão còn mềm, thế mà lão đã phải gánh vác tất cả gia đình và làm việc như một người lớn. Còn mồ ma ông cụ, nhà có bốn anh em đi học, cụ chết đi thì tất cả phải bỏ học. Con bé Nhiurka, lên mười tuổi, lão giao cho nó bếp núc và vắt sữa bò thay cho bà cụ, những thằng em nhỏ thì đỡ lão công việc đồng áng. Nhưng tháng tháng lão vẫn không quên tựa lưng bậu cửa đo người. Hiềm nỗi năm ấy lão lớn xoàng quá: đau khổ và đói rách làm lão cọc người đi. Còn thằng Avêrian thì lão vẫn theo dõi như một con sói con rình con vịt trong bụi cói. Hắn đi đâu một bước lão cũng biết, đi bộ, hay đi ngựa, lão biết tất…
Những ngày chủ nhật, thường là đám trẻ lứa tuổi lão tụ tập lại vui chơi, còn lão chả có thì giờ đâu, lão là ông chủ gia đình. Ngày thường, chúng đi học, còn lão thì đi dọn chuồng bò… Lão uất phát khóc lên với cái cuộc sống mòn mỏi! Dần dần lão xa lánh đám bạn cùng lứa tuổi, sống cô đơn, lầm lì như cục đất, chẳng muốn gặp ai… Thế là làng xóm người ta bắt đầu nói về lão, bảo là thằng Ivan Argianốp có tí lẩn thẩn, cám hấp. Lão nghĩ bụng: “Cha tiên nhân chúng bay! Đặt chúng bay vào địa vị tao xem! Cuộc sống điêu đứng như tao đây sẽ làm cho chúng bay thông minh chán ra đấy!”. Và thế là lão đâm ra căm ghét tất cả dân làng, không muốn nhìn mặt ai!... Chú nó ơi, cho lão xin điếu thuốc nữa.
Bác Argianốp lóng ngóng cầm lấy điếu thuốc. Ngón tay lão trông rõ run lẩy bẩy. Lão loay hoay mãi mới mồi được lửa ở điếu thuốc Đavưđốp, rồi nhắm mắt, trề môi ra một cách ngộ nghĩnh, miệng chem chép.
- Còn thằng Avêrian thì thế nào?
- Thằng Avêrian hả? Hắn sống nhởn nha, theo ý hắn thích. Hắn không tha cho vợ cái tội phải lòng ông cụ nhà lão, đánh đập mụ chí chết, chỉ một năm sau là mụ xuống lỗ. Sang thu, hắn cưới một cô vợ khác, gái tơ trong làng. Lúc ấy lão nghĩ bụng: “Được rồi, Avêrian ơi, mày sẽ chẳng sống bao lâu với con vợ trẻ này đâu…”.
Lão bắt đầu giấu bà cụ, dành dụm ít tiền, rồi mùa thu, lão bỏ không đi chợ huyện gần đấy, một mình mang một xe ngựa lúa mạch đi chợ Kalátsơ bán, mua luôn khẩu súng một nòng với mười ba viên đạn. Trên đường về, bắn thử súng, lão tiêu mất ba viên. Súng với ống chán kinh: cò mổ yếu quá, ba viên thì xịt hai, viên thứ ba mới nổ. Về đến nhà lão giấu khẩu súng trong kho thóc, dưới dầm nhà, không hé răng nói với ai về việc mua bán này. Và từ đó lão bắt đầu rình thằng Avêrian … Mất bao nhiêu lâu chẳng được tích sự gì. Lần thì đông người quá, lần thì vì một lý do nào đó lão thấy không nên nổ. Nhưng đợi mãi rồi cũng đến lúc lão vớ được! Điểm chính là lão không muốn giết nó trong làng, gay là ở chỗ ấy! Một hôm, vào ngày đầu lễ xá tội, hắn đi chợ huyện, một mình một xe, không có con vợ. Nhìn rõ hắn đi có một mình, lão liền làm dấu, chả là vì nếu không thì lão đến phải giết cả hai vợ chồng chúng nó. Hai ngày một đên lão không ăn, không uống, không ngủ nấp ở cái khe bên đường. Ngồi dưới khe, lão hết lời cầu nguyện Chúa, xin Chúa làm sao cho thằng Argianốp đi chợ trở về một mình, không có bà con dân xóm nào đi cùng. Và Chúa lòng lành đã nhận lời cầu nguyện thơ ngây của lão! Xẩm chiều hôm sau lão nhìn thấy đúng thằng Avêrian kia rồi - nó đi một mình. Cho đến lúc ấy, đã có biết bao nhiêu xe diễu qua trước mắt lão, biết bao nhiêu lần tim lão đập thình thình khi tưởng trông thấy đôi ngựa thằng Avêrian đang chạy đằng xa trên đường… Khi nó tới ngang chỗ lão, lão liền từ trong khe nhảy ra, quát: “Nhà bác Avêrian kia, xuống xe ngay, và cầu Chúa đi!”. Hắn tái mặt đi, bệch như cái tường vôi, và dừng ngựa lại. Hắn là một lão kô-dắc to và khoẻ, nhưng hắn làm gì nổi tôi? Vì tay tôi lăm lăm khẩu súng mà. Hắn quát lão; “Mày giở trò gì thế, đồ ếch nhái kia?”. Lão bảo hắn: “Xuống xe ngay, và quỳ xuống. Trò gì thì mày biết ngay bây giờ đây”. Quân khốn kiếp ấy, nó to gan thật! Nó nhảy trên xe xuống và hai tay không xông vào lão… Lão để cho nó đến gần, còn khoảng cách từ đây đến cái bụi kia thì lão nổ súng bắn chết tươi…
- Thế ngộ đạn xịt?
Bác Argianốp mỉm cười:
- Chậc, thì nó sẽ cho lão đi theo ông cụ sang chăn ngựa ở thế giới bên kia.
- Chuyện rồi sao nữa?
- Nghe tiếng đạn nổ, đôi ngựa lồng lên chạy, còn lão thì không sao nhúc nhích được khỏi chỗ. Chân tay lão rụng rời, toàn thân run như tàu lá trước gió. Thằng Avêrian nằm ngay kia, nhưng lão không sao bước nổi một bước đến chỗ nó, nhắc chân lên là lại rơi thõng xuống, chực ngã. Hoảng đến thế đấy! Nhưng rồi cũng loay hoay trấn tĩnh lại được, bước tới nó, nhổ toẹt cho nó một bãi vào mặt và lục túi quần, túi áo nó. Lão móc cái túi tiền của nó ra. Trong túi có hai mươi tám rúp tiền giấy, một đồng năm rúp tiền vàng và hai ba rúp tiền lẻ. Chỗ còn lại trong số tiền nó mang đi chắc là nó đã vung hết vào việc sắm sửa cho con vợ nó… Cái túi rỗng lão quẳng bên đường, rồi nhảy xuống khe, chuồn thẳng! Chuyện lâu lắm rồi, nhưng lão nhớ rành mạch, cứ như mới xảy ra hôm qua. Súng và đạn lão chôn dưới khe. Ngay trận mưa tuyết đầu tiên, nửa đêm lão ra đào lên, mang về làng, đem giấu trong hốc cây liễu già bên nhà hàng xóm.
- Sao bác lại lấy tiền của hắn? - Đavưđốp hỏi, giọng gay gắt.
- Thì sao?
- Tôi hỏi bác, sao bác lại lấy tiền?
- Vì lão cần, - bác Argianốp đáp lại thản nhiên. - Hồi ấy cái đói hút sạch máu của mẹ con lão, quá chấy rận.
Đavưđốp nhảy xuống đi bộ theo xe, lẳng lặng hồi lâu. Bác Argianốp cũng lẳng lặng. Rồi Đavưđốp hỏi:
- Chuyện thế là hết à?
- Không, chú nó ạ, chưa hết. Các nhà chức trách đến điều tra, sục sạo, tìm bới… Rồi cũng tiu nghỉu về không. Ai dám ngờ là lão? Và ít lâu sau, thằng Xergây mắt chột, là em thằng Avêrian, đi đốn rừng về cảm lạnh, ốm rồi chết: nó bị sưng phổi. Thế là lão đâm lo: ngộ nhỡ cả thằng Aphanaxi nữa cũng lại chết bình thường như vậy nốt, thì bàn tay lão mà ông cụ đã trao phó cho nghĩa vụ rửa thù, sẽ thành vô dụng mất! Lão vội vàng…
- Khoan, - Đavưđốp ngắt lời bác. - Ông cụ chỉ dặn bác về thằng Avêrian, sao bác lại định làm cả ba?
- Cụ nói nhưng biết bụng cụ thế nào… Và cụ có ý của cụ, lão có ý của lão. Và thế là lão vội vàng tranh thủ… Lão đã bắn chết thằng Aphanaxi qua cửa sổ, khi nó đang ăn tối. Tối hôm ấy lão tựa lưng bậu cửa đo mình lần cuối cùng, rồi lấy giẻ lau sạch những vết đánh dấu. Còn súng đạn thì lão ném xuống sông; những của ấy lão chả cần làm gì nữa… Lão đã làm tròn ý nguyện cụ dối dăng. Không bao lâu sau, bà cụ ngắc ngoải. Một đêm bà gọi lão đến bên, hỏi: “Ivan, con giết chúng đấy hả?”. Lão nhận: “Con đấy, mẹ ạ”. Cụ chẳng nói chẳng rằng, chỉ nắm lấy bàn tay phải lão đặt lên ngực cụ…
Bác Argianốp giật nhẹ cương. Đôi ngựa bước rảo hơn, và bác đưa đôi mắt xám, sáng như mắt trẻ con, nhìn Đavưđốp hỏi:
- Bây giờ anh có còn căn vặn lão tại sao cứ cho ngựa đi thủng thỉnh nữa thôi?
- Rõ rồi, - Đavưđốp đáp. - Này, bác Ivan ơi, phải giao cho bác đánh xe bò chở nước mới phải, thực tế thế!
- Chuyện ấy lão đã năm lần bảy lượt đề nghị với Iakốp Lukits rồi, nhưng hắn không đồng ý. Hắn muốn hành lão cho đến cùng mà…
- Sao vậy?
- Hồi bé lão đã đến ở làm công cho nhà hắn một năm rưỡi.
- Ra thế!
- Thế đấy, chú nó ạ. Thế chú không biết lão Ôxtơrốpnốp suốt đời có người ở làm công trong nhà à? - bác Argianốp nheo nheo mắt một cách hóm hỉnh: - Có, chú nó ạ, có đấy… Cách đây bốn năm, bắt đầu bị bóp thuế, lão ta đã dẹp lại, thu mình như con rắn độc chuẩn bị vồ mồi, nhưng bây giờ thử không có nông trang và thuế má nhẹ đi xem, Iakốp Lukits sẽ ra tay ngay, anh cứ yên trí! Lão ấy là một tên kulắc gian ác bậc nhất, và anh đã nuôi ong tay áo…
Đavưđốp im lặng hồi lâu, rồi nói:
- Chuyện ấy ta sẽ sửa, sẽ làm cho ra ngô ra khoai, nhưng này, bác Ivan, kể ra bác cũng có tí ngồ ngộ.
Bác Argianốp cười nụ, đôi mắt mơ màng nhìn ra xa xa:
- Ngồ ngộ hả, biết nói với anh thế nào… Có một cái cây anh đào cành lá tua tủa. Lão đến, bẻ một cành con làm cái roi, - cành anh đào làm roi thì nhất hạng, - cái cành xinh xinh ấy, nó cũng có tí ngồ ngộ: mắt này, lá này, dáng này. Thế rồi lão đem gọt nó đi, và bây giờ nó thế này… - lão rút cái roi dưới gầm ghế ra, giơ cho Đavưđốp xem cái tay roi mà nâu nâu vỏ ngoài khô đét. - Nó thế này đây! Nom không ra cái mã gì! Con người ta cũng vậy: không có tí ngồ ngộ thì con người cũng trơ trẽn, thảm hại như cái roi thôi. Đấy như Nagunốp thì học một cái thứ tiếng gỉ tiếng gì ấy chẳng phải tiếng ta - ngồ ngộ đấy; lão Kramxkốp hai chục năm nay cứ ky ca ky cóp vỏ diêm - cũng ngộ; chú thì tằng tịu với con Luska Nagunôva - cũng ngộ; anh chàng say rượu thất thểu ngoài đường, vấp dúi vấp dụi và cà lưng vào hàng rào - cũng ngộ nốt. Ông bạn thân mến ơi, ông chủ tịch, nếu bây giờ chú lại tước mất của con người ta cái ngồ ngộ ấy đi thì người ta nom sẽ trơ trẽn, vô duyên như cái roi này thôi.
Bác Argianốp chìa cái roi cho Đavưđốp và, vẫn cứ cười mơ màng, nói:
- Cầm thử nó một tí, và ngẫm nghĩ xem, đầu óc anh sẽ sáng sủa ra…
Đavưđốp cáu kỉnh gạt tay bác Argianốp đi:
- Quỷ tha ma bắt bác đi! Tôi cần gì phải có cái roi của bác mới biết đường ngẫm nghĩ và xử sự ở đời!
… Rồi, suốt dọc đường, cho đến tận lán của đội sản xuất, cả hai người đều nín thinh…
Nguồn: http://tusach.mobi/