25/3/13

Hai mươi năm sau (C29-31)

Chương 29

Bốn bạn sửa soạn gặp lại nhau


Ngồi trong sân khách sạn."Con dê cái nhỏ" (1), Porthos trông thấy d'Artagnan từ Cung giáo chủ trở về, mặt dài thuỗn ra và nhăn nhăn nhó nhó. Anh hỏi.
- Thế nào, d'Artagnan trung hậu của tôi ơi, ông ta tiếp đãi cậu tồi lắm phải không?
- Thực tình là thế đấy? Người gì mà như lợn ấy! Cậu đang làm gì thế, Porthos?
- À, cậu thấy đó, tôi chấm bánh quy vào một cốc rượu vang Tây Ban Nha. Cậu cũng làm như vậy đi.
- Cậu nói phải. Gimblou, một cốc đầy?
Tên hầu bàn được gọi bằng cái tên du dương ấy mang cốc rượu đến, và d'Artagnan ngồi uống bên cạnh bạn.
- Chuyện ấy diễn ra như thế nào?
- Ôi dào! Cậu biết đây, nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Tôi bước vào, ông ta nguýt mắt nhìn tôi; tôi nhún vai và nói: "Thế đấy! Thưa Đức ông, chúng tôi chẳng phải là những người mạnh hơn".
- Phải, tôi biết cả rồi, nhưng hãy kể chi tiết cho tôi nghe.
- Porthos, cậu hiểu rằng tôi không thể kể chi tiết mà không nói ra tên các bạn chúng ta, mà nói tên họ ra là làm hại họ.
"Mẹ kiếp! Thưa Đức ông, - tôi nói, - họ những năm mươi người mà chúng tôi chỉ có hai".
"Ừ, nhưng điều đó không ngăn cản có những phát súng bắn lẫn nhau, theo như tôi nghe nói lại, - Ông ta nói".
"Sự thực là, bên này bên kia đều có vài loạt đạn nổ".
"Thế nhưng thanh kiếm đã trông thấy ánh mặt trời chứ? - Ông ta nói thêm".
"Nghĩa là ban đêm ạ, thưa Đức ông".
"Ái chà! Tôi tuởng ông là Gascon cơ mà, ông bạn thân mến?"
"Tôi chỉ là Gascon khi tôi thành công thôi, thưa Đức ông".
Câu trả lời làm vừa lòng ông ta, vì ông ta bật cười, ông ta nói tiếp:
"Điều đó dạy tôi là phải cho các lính vệ những con ngựa tốt hơn, bởi vì nếu như họ đuổi kịp các ông và mỗi người đều có thể làm được như ông và bạn của ông, thì có thể ông đã giữ đúng lời hứa và mang hắn về đây hoặc chết hoặc sống".
- Ơ này! Nếu chuyện như vậy thì tôi thấy cũng chẳng đến nỗi dở đâu, - Porthos nói.
- Ồ, Lạy Chúa! Không đâu, bạn thân mến ơi, đó chỉ là một cách nói thôi. - Rồi d'Artagnan bất chợt nói - Không thể tưởng tượng được, những cái bánh quy này hút mật ghê thật? Cứ như là những miếng bọt biển ấy! Gimblou đâu, một chai nữa!
Chai rượu được mang đến rất nhanh chứng tỏ anh được cửa hàng kính nể như thế nào. Anh nói tiếp:
- Cho nên lúc tôi cáo lui, thì ông ta gọi lại. Ông ta hỏi tôi:
"Các ông có ba con ngựa bị chết hoặc bầm máu chân phải không?"
"Vâng, thưa Đức ông".
"Chúng đáng giá bao nhiêu?"
- Ấy - Porthos nói, - tôi thấy có lẽ là một dịp khá tốt đấy chứ!
"Một nghìn pistol, - tôi trả lời".
- Một nghìn pistol? - Porthos kêu lên. - Ô, ồ! Nhiều quá đấy; nếu ông ta sành về ngựa, chắc ông ta phải mặc cả.
- Thực tình là lão ta muốn mặc cả lắm đấy, cái lão đê tiện ấy vì lão nhảy bật lên một cái kinh khủng và nhìn tôi trừng trừng. Tôi cũng nhìn lại, lão hiểu ra và thò tay vào tủ lão lấy phiếu ra nhà băng Lyon.
- Để lĩnh một nghìn pistol à?
- Một nghìn pistol chẵn, không thêm một đồng nào; cái lão keo kiệt ấy!
- Thế cậu lấy chưa?
- Đây rồi.
- Thực tình mình thấy ông ta làm thế nào là thoả đáng rồi!
- Thoả đáng! Với những người không những vừa mới mạo hiểm tính mạng mình mà còn giúp ích lão ta một việc lớn mà gọi là thoả đáng ư?
- Một việc lớn à, việc gì thế! - Porthos hỏi.
- Chà, hình như tôi đã cho ngựa đạp phải một ông tham nghị của nghị viện.
- Sao? Cái người nhỏ nhắn, đen đen mà cậu đã xô ngã ở góc nghĩa trang Saint-Jean phải không?
- Đúng thế, bạn thân mến ạ. Này, ông ta như cái gai trước mắt giáo chủ đấy. Khốn nỗi, tôi lại không đè bẹp ông ta. Có khi ông ta sẽ trở lại và còn cản trở lão.
- Này cậu, - Porthos nói, - Chính tôi đã rẽ ngựa để nó khỏi giẫm lên người ông ta! Có lẽ để lần khác?
- Đáng lẽ lão ta phải trả tiền tôi về ông tham nghị mới phải, cái lão mặt mo ấy?
- Chà! Nếu ông ta không bị đè bẹp hẳn…
- A! Nếu là ngài giáo chủ de Richelieu, chắc hẳn ngài sẽ nói: "Năm trăm êquy về một ông tham nghị!".
- Thôi không nói chuyện ấy nữa. Porthos này, mấy con ngựa ấy của cậu đáng giá bao nhiêu?
- Ồ, bạn ơi, nếu Mouston tội nghiệp có đây, hắn sẽ nói với cậu giá tiền tính đến đồng, hào và xu lẻ.
- Không sao! Cậu cứ nói đi, tính đến mười êquy lẻ. - Vulcain và Bayard mỗi con giá chừng hai trăm pistol, và cứ cho là con Phébus giá một trăm rưởi nữa đi, tôi cho là ta định sát giá đây.
- Vậy thì còn dư ra bốn trăm rưởi pistol, - D'Artagnan nói với vẻ khá hài lòng…
- Ừ - Porthos nói, - nhưng còn yên cương?
- Đúng quá đi rồi. Yên cương giá bao nhiêu?
- Coi là cả ba bộ một trăm pistol đi…
- Được một trăm pistol, - D'Artagnan nói, - Vị chi là còn dư ba trăm rưởi pistol.
Porthos gật đầu tán thành.
- Bây giờ ta đưa ông chủ quán năm mươi pistol đề trả chi phí của chúng ta? - D'Artagnan nói, - còn ba trăm pistol ta chia nhau.
- Chia đi, - Porthos bảo.
- Việc nhỏ nhặt! - D'Artagnan lẩm bẩm, tay nắm những tờ bạc của mình.
- Hừ? - Porthos nói, - lại vẫn chuyện ấy à. Nói đi.
- Gì cơ?
- Ông ta không đả động gì đến tôi ư?
- À, có chứ, - D'Artagnan vội reo lên, anh sợ làm bạn mình nản nếu bảo rằng tể tướng chẳng hề nhắc đến bạn một tiếng. - Có chứ!
- Ông ta nói…
- Ông ta nói gì? - Porthos hỏi.
- Khoan đã, để tôi nhớ lại đúng lời ông ta. Ông ta nói rằng: "Về phần bạn ông, thì ông hãy báo ông ta cứ yên tâm chẳng có gì quản ngại".
- Tốt! - Porthos nói, - như thế là rõ như ban ngày rồi, ông ta vẫn tính phong mình là Nam tước.
Vừa lúc ấy chuông đồng hồ nhà thờ gần đó điểm chín giờ.
D'Artagnan giật mình.
- A! Đúng rồi, - Porthos nói, - Bây giờ chín giờ mà cậu nhớ chứ, đến mười giờ là ta có cuộc hẹn ở quảng trường Hoàng gia.
- Thôi, im đi, Porthos! - D'Artagnan la lên với vẻ nóng nảy, - cậu đừng nhắc lại cái kỷ niệm ấy nữa; chính nó làm cho tôi bực bội khó chịu từ ngày hôm qua. Tôi chẳng đi đâu.
- Tại sao thế? - Porthos hỏi:
- Bởi vì thật là điều đau lòng phải gặp lại hai con người ấy, họ đã làm hỏng công việc của chúng ta.
- Mà họ có lợi thế gì đâu, - Porthos nói. - Lúc ấy tôi vẫn còn một khẩu súng đã nạp đạn còn các cậu thì đã đứng đối mặt nhau, kiếm trong tay.
- Phải, - D'Artagnan nói - nhưng nếu như cuộc hẹn hò này che giấu một điều gì.
- Ồ - Porthos nói, d'Artagnan, cậu không nên tin như vậy.
Đúng thế, d'Artagnan không tin rằng Arthos có thể dùng mưu gian; song anh tìm cớ để không đi đến nơi hẹn.
- Phải đến đấy chứ, - vị lãnh chúa de Bracieux đường bệ nói tiếp. - Họ có thể cho là chúng ta sợ hãi. Này, bạn thân mến ơi, chúng ta đã dám chọi với năm mươi kẻ thù trên đường cái lớn; chúng ta cũng sẽ chọi tốt với hai anh bạn trên Quảng trường Hoàng gia.
- Phải phải, - tôi biết, - D'Artagnan nói - nhưng họ đã phải theo các hoàng thân mà không bảo cho chúng ta biết trước. Arthos và Aramis đã chơi tôi một vố làm tôi hết sức kinh ngạc. Hôm qua ta đã khám phá ra sự thật; hà tất gì hôm nay chúng ta còn phải đi tìm hiều điều khác nữa.
- Cậu thật sự nghi ngờ à? - Porthos hỏi.
- Về Aramis thì đúng vậy, từ khi hắn làm tu viện trưởng, bạn thân mến ơi, cậu không thể hình dung hắn bây giờ thế nào đâu. Hắn nhìn chúng ta vướng trên con đường dẫn dắt đến chức giám mục, cho nên có lẽ hắn sẽ chẳng phiền lòng nếu cần phải thủ tiêu chúng ta.
- A, về Aramis thì lại là chuyện khác, - Porthos nói, - và tôi chẳng lấy làm lạ.
- Ông de Beaufort cũng có thể đến lượt mình thử bắt chúng ta lắm chứ.
- Ô hay! Ông ta đã bắt được chúng mình và lại thả ra cơ mà. Với lại, chúng ta sẽ đề phòng, mang đủ vũ khí và mang theo Planchet với cây súng trường của hắn.
- Planchet là Fronde - D'Artagnan nói.
- Vứt mẹ nó những cuộc nội chiến đi? - Porthos kêu lên, - người ta không còn có thể tin cậy ở bạn bè hay người hầu nữa. A! Nếu như Mouston có đây! Còn có một người không bao giờ rời bỏ ta.
- Phải, chừng nào mà cậu còn giàu có. Này! Bạn thân mến ơi, chẳng phải là những cuộc nội chiến chia rẽ chúng ta; chẳng qua vì chúng ta không còn ở tuổi hai mươi nữa; vì những niềm hăng hái chân thành của tuổi trẻ đã mất đi rồi để nhường chỗ cho tiếng thì thầm của quyền lợi, cho hơi thở của tham vọng, cho những lời khuyên bảo của lòng ích kỷ. Phải, cậu nói có lý, ta cứ đi đến đó, Porthos ạ, nhưng ta phải vũ khí đầy đủ.
- Nếu không, họ sẽ bảo rằng chúng ta hoảng sợ. Ơ này, Planchet đâu?
Planchet xuất hiện.
- Thắng yên cương vào ngựa đi, và mang theo khẩu súng trường.
- Nhưng thưa ông, trước tiên, chúng ta đi chống lại ai?
- Chẳng chống lại ai cả, - D'Artagnan nói, - đó chỉ là một sự đề phòng trường hợp ta bị tấn công.
- Ông biết không, người ta muốn giết chết cái ông tham nghị Broussel tử tế, người cha của dân tộc ấy.
- A, thật ư? - D'Artagnan nói.
- Thật ạ. Nhưng ông đã được trả thù đích đáng, vì ông ta được mang trở về nhà trong tay dân chúng. Từ hôm qua, nhà ông ấy chẳng lúc nào vơi người: ông chủ giáo, ông de Longueville, hoàng thân de Côngty đã đến thăm ông Broussel. Bà de Chevreuse và bà de Vendôme cũng đã cho ghi tên mình đến thăm đấy. Và bây giờ, khi nào ông ta muốn…
- Khi nào ông ta muốn, thì sao?
Planchet bèn cất tiếng hát:
"Một cơn gió Fronde
Nổi từ sớm tinh mơ
Chắc là nó gầm thét
Chống lại Mazarin
Một cơn gió Fronde
Nổi từ sớm tinh mơ…"
D'Artagnan thì thầm với Porthos:
- Tôi chẳng còn ngạc nhiên về chuyện này nữa, khi bảo Mazarin đã rất mong là tôi cán chết hẳn vị tham nghị của lão thì hơn.
- Thưa ông, - Planchet nói,
- Vậy ông hiểu rằng nếu như ông bảo tôi mang súng đi để làm một công việc gì đó giống như việc người ta đã mưu hại ông Broussel, thì…
- Không, cứ yên tâm. Nhưng cậu nghe nhưng chi tiết ấy ở đâu thế?
- Ồ! Từ nguồn đáng tin cậy. Tôi nghe Friquet. nói.
- Friquet. à? - D'Artagnan nói, - Tôi biết cái tên đó.
- Đó là con trai bà đầy tớ nhà ông Broussel; một thằng nhóc rất nhộn mà tôi xin bảo đảm với ông rằng không một cuộc bạo loạn nào nó chịu mất phần đâu.
- Có phải cái thằng lễ sinh ở nhà thở Đức Bà không? - D'Artagnan hỏi.
- Đứng nó đấy; Bazin che chở cho nó.
- A, a! Tôi biết, - D'Artagnan nói. - Và là thằng hầu quầy ở quán rượu phố Calandre chứ gì?
- Đúng thế
- Thằng lỏi con ấy làm gì cho cậu? - Porthos hỏi.
- A - D'Artagnan đáp, - nó đã cho tôi nhiều tin tức hay, và nếu có dịp, chắc nó sẽ còn cho nữa.
- Cho cậu, người đã suýt cán chết chủ nó ư?
- Đúng vậy.
Vào lúc ấy, Arthos và Aramis đi vào Paris, bằng lối cửa ô Saint-Antoine. Họ nghỉ ngơi ở dọc dường và vội vã đi để khỏi lỡ cuộc hẹn.
Chỉ có Bazin đi theo họ.
Ta còn nhớ rằng, Grimaud ở lại để săn sóc Mouston và đuổi kịp cậu tử tước trẻ de Bragelonne đang đi đến đội quân Flandre.
- Bây giờ, - Arthos nói, - chúng ta cần vào một quán trọ để mặc quần áo thị dân, cất súng ống, kiếm gươm và giải giáp cả tên hầu của chúng ta nữa.
- Ồ! Không làm thế được đâu, bá tước thân mến ơi, và việc này, tôi xin anh cho phép không những tôi không tán thành anh, mà còn thử khiến anh theo ý với tôi.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì đây là một cuộc hò hẹn chiến tranh mà chúng ta đang đi tới.
- Cậu muốn nói gì thế, Aramis?
- Tôi muốn nói rằng Quảng trường Hoàng gia là sự tiếp diễn của con đường cái lớn Vendôme chứ chẳng phải cái gì khác.
- Thế nào? Các bạn của chúng ta…
- Đang trở thành những kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Arthos, tin ở tôi, chúng ta phải phòng ngừa, và nhất là anh hãy phòng ngừa.
- Ô! D' Herblay thân mến của tôi!
Ai bảo anh rằng d'Artagnan không đổ tất cả thất bại của hắn lên đầu chúng ta và không báo trước cho giáo chủ biết? Ai bảo anh rằng giáo chủ không lợi dụng cuộc hẹn hò ấy để cho tóm cổ chúng ta?
- Sao? Aramis, cậu nghĩ rằng d'Artagnan và Porthos tiếp tay cho một sự ô nhục như vậy ư?
- Arthos thân mến ơi, giữa bạn bè với nhau thì anh nói đúng, đó là một sự ô nhục; nhưng giữa những kẻ thù địch thì đó là một mưu kế.
Arthos khoanh tay và để gục cái đầu tuấn tú xuống trước ngực.
- Biết làm thế nào được, Arthos ơi? Con người ta sinh ra như vậy, và không phải bao giờ cũng ở tuổi hai mươi. Anh thấy đấy, chúng ta đã làm tổn thương một cách tàn nhẫn lòng tự ái nó điều khiển mù quáng những hành động của d'Artagnan. Hắn bị bại trận. Anh đã chẳng nghe hơi thở than tuyệt vọng trên đường sao? Còn về Porthos, danh hiệu Nam tước của hắn có lẽ tuỳ thuộc ở sự thành công của việc này. Thế đây? Hắn đã gặp chúng ta cản trở con đường đi của hắn và sẽ chưa được là Nam tước lần này đâu. Ai bảo anh rằng cái tước, thứ năm trứ danh ấy không dựa vào cuộc hội kiến chiều nay của chúng ta? Ta nên đề phòng, Arthos ạ.
- Nhưng nếu họ đến mà không mang vũ khí thì sao? Thật xấu hổ cho chúng ta biết chừng nào.
- Cứ yên tâm, bạn thân mến ơi, tôi xin cam đoan rằng sẽ không như vậy đâu. Vả chăng chúng ta có cớ để nói thác là chúng ta đi du hành tới và chúng ta là kẻ phiến loạn? Một cớ nói thác cho chúng ta! Cần phải dự kiến trường hợp chúng ta cần xin lỗi d'Artagnan và Porthos!
- Ôi! Aramis Aramis ơi, - Arthos vừa buồn rầu lắc đầu vừa nói tiếp xin lấy linh hồn ra mà thề rằng cậu làm cho tôi thành kẻ khổ sở nhất trần đời. Cậu làm thất vọng một trái tim đã không hoàn toàn chết ở tình bạn. Này, Aramis, tôi xin thề là thà người ta dứt nó ra khỏi lồng ngực của tôi còn hơn. Aramis, cậu đi đến đó thế nào thì tuỳ cậu. Còn tôi, tôi sẽ đi mà không mang vũ khí.
- Không, tôi sẽ không để anh đi như vậy đâu: Sẽ không còn là một con người, không còn là Arthos, không còn là Bá tước de La Fère nữa mà anh phản bội bằng sự yếu đuối ấy; đây là cả một đảng phái mà anh thuộc vào nó và nó tin cậy ở anh.
- Thôi thì đành làm theo lời cậu vậy, - Arthos buồn rẩu đáp.
Và họ tiếp tục đi.
Qua phố Bước Con La (1), vừa đến hàng rào sắt của bãi vắng, họ trông thấy ở dưới cửa tò vò, chỗ phố Sainte Catherine đổ ra, ba kỵ sĩ.
Đó là d'Artagnan và Porthos đang bước đi, áo choàng bị chuôi kiếm vén lên. Planchet đi đằng sau họ, súng trường thõng xuống đùi.
Nhìn thấy d'Artagnan và Porthos, Arthos và Aramis xuống ngựa.
Phía bên kia cũng vậy. D'Artagnan nhận thấy ba con ngựa kia đáng lẽ do Bazin giữ thì lại buộc ở các vòng của cổng tò vò và anh bảo Planchet cũng làm như thế.
Rồi họ tiến đến gần nhau hai người này đối diện với hai người kia, và chào nhau lễ phép.
Chợt Arthos trông thấy nhiều người dừng chân và nhìn bọn họ, giống như đây là một trong những cuộc đấu kiếm trứ danh vẫn còn sống động trong trí nhớ những người dân Paris, nhất là những người ở gần Quảng trường Hoàng gia, Anh nói:
- Này các ông ơi, các ông thích chúng ta trò chuyện với nhau ở đâu?
- Cổng rào khoá, - Aramis nói, - nhưng nếu như các ông thích mát dưới bóng cây và một sự tĩnh mịch không thể vi phạm, thì tôi sẽ lấy chìa khoá ở dinh Rôhan và chúng ta sẽ toại nguyện.
D'Artagnan phóng tầm mắt vào trong bóng tối của quảng trường, và Porthos thử chui dầu vào hai song sắt để dò bóng đêm.
Với cái giọng thanh cao và dễ thuyết phục, Arthos nói:
- Nếu các ông thích một nơi khác, thì xin cứ tự chọn.
Aramis lập tức tránh ra và dặn dò Arthos chớ đứng một mình ở trong tầm tay d'Artagnan và Porthos; nhưng kẻ được ban lời khuyên răn ấy chỉ cười vẻ khinh khi và tiến một bước về phía các bạn cũ đang đứng nguyên tại chỗ.
Quả thật Aramis đã đến gõ cửa dinh Rôhan; một người hiện ra cùng với anh, nói.
- Thưa ông, ông thề với tôi chứ?
- Cầm lấy, - Aramis đưa ra một đồng louis và bảo.
- A! Vị quý tộc của tôi, ông không muốn thề à? - Người gác cổng vừa nói vừa lắc đầu.
- Ô, có gì mà thề với thốt cơ chứ, - Aramis nói. - Tôi chỉ khẳng định với bác rằng cho đến giờ phút này các ông kia vẫn là bạn chúng tôi.
- Phải rồi, tất nhiên? - Arthos, d'Artagnan và Porthos lạnh lùng nói.
D'Artagnan đã nghe thấy cuộc đối thoại và hiểu rõ.
- Cậu có thấy không? - Anh hỏi Porthos.
- Thấy cái gì nhỉ?
- Hắn không muốn thề.
- Thề cái gì?
- Người gác cổng kia muốn Aramis thề rằng chúng ta vào Quảng trường Hoàng gia không phải để đánh nhau.
- Không thấy.
- Thế thì phải cẩn thận.
Arthos không rời mắt khỏi hai người đang nói.
Aramis mở cổng và né ra để d'Artagnan bước vào.
Khi vào, chuôi kiếm của d'Artagnan mắc vào cổng rào, buộc anh phải phanh áo choàng ra. Thế là anh để lộ cái báng súng ngắn bóng loáng ánh trắng.
Aramis bèn một tay chạm vai Arthos, một tay trỏ cho anh xem khẩu súng đeo ở đây lưng d'Artagnan.
- Chao ôi! Phải rồi, - Arthos nói và buông một tiếng thở dài não ruột. Và là người thứ ba đi vào. Aramis vào cuối cùng và đóng cổng lại. Hai kẻ hầu ở bên ngoài; nhưng do họ cũng ngờ vực lẫn nhau, nên đứng cách xa nhau.
Chú thích
Bước Con La: Pas-de-la-Mule


Chương 30

Quảng trường Hoàng gia


Họ lặng lẽ đi tới trung tâm quảng trường; nhưng do lúc ấy mặt trăng vừa ra khỏi đám mây, họ nghĩ rằng ở chỗ bãi trống trải này họ sẽ dễ bị người ta trông thấy, họ bèn đến chỗ mấy cây bồ đề bóng tối dày dặc hơn.
Có các ghế dài kê rải rác; bốn kẻ du ngoạn dừng lại trước một cái ghế. Arthos ra hiệu, d'Artagnan và Porthos ngồi xuống. Arthos và Aramis đứng yên trước mặt họ.
Sau một lát im lặng, mỗi người đang cảm thấy lúng túng không biết bắt đầu giải thích thế nào đây, thì Arthos lên tiếng:
- Các anh ơi, một chứng cớ về sức mạnh của tình bằng hữu cũ của chúng ta là sự có mặt của chúng ta ở nơi hò hẹn này. Không một ai vắng mặt, không một ai có gì để trách móc cả.
- Thưa bá tước, - D'Artagnan nói - xin hãy nghe đây, thay cho những lời tán tụng mà có lẽ chẳng có ai trong chúng ta đây xứng đáng, chúng ta hãy phát biểu như những người chân thành.
- Tôi không mong gì hơn, - Arthos đáp. - Tôi là người thẳng thắn, các anh hãy nói thẳng thắn. Các anh có điều gì cần trách tôi hoặc tu viện trưởng D'Herblay không?
Có đấy - D'Artagnan nói, - khi tôi có vinh dự được gặp anh ở lâu đài Bragelonne, tôi đã đưa ra với anh những đề nghị mà anh đã hiểu rõ. Đáng lẽ trả lời tôi như với một người bạn, thì anh đã chơi tôi như một đứa trẻ, và cái tình bằng hữu mà anh tán dương ấy tan vỡ không phải do cuộc chạm kiếm tối hôm qua mà do sự nguỵ trang của anh ở trong lâu đài mình.
- D'Artagnan! - Arthos nói với một giọng trách móc nhẹ nhàng.
- Anh cần ở tôi sự thẳng thắn, thì đấy! - D'Artagnan nói - Anh hỏi tôi nghĩ gì thì tôi đã nói rồi. Và bây giờ, ông tu viện trưởng D'Herblay, tôi cũng sẵn sàng hầu tiếp ông. Tôi cũng đã hành động với ông như vậy và ông cũng đã lạm dụng tôi.
- Ông lạ lùng thực đấy, ông ạ, - Aramis nói - Ông đến tìm tôi để đưa ra những đề nghị, nhưng ông đã nói với tôi chưa nào? Không, ông thăm dò tôi, có thế thôi. Này, tôi đã nói với ông thế nào nhỉ? Rằng Mazarin là một tên đê tiện và tôi chẳng phụng sự nó đâu. Tất cả chỉ có thế. Tôi có nói với ông rằng tôi không phụng sự một người khác đâu? Trái lại, tôi đã nói để ông hiểu rằng, tôi đứng về phía các hoàng thân. Nếu tôi không lầm thì chúng ta còn nói đùa rất thoải mái về trường hợp rất có khả năng là ông nhận nhiệm vụ của giáo chủ giao là bắt giữ tôi. Vậy thì tại sao chúng tôi không thể là người có đảng phái? Ông có bí mật của ông, cũng như chúng tôi có bí mật của chúng tôi; chúng ta đã không trao đổi bí mật với nhau, càng hay điều đó chứng tỏ là chúng ta biết giữ bí mật.
- Tôi có trách gì ông đâu, - D'Artagnan nói, - chẳng qua vì bá tước de La Fère nói về tình bạn bè, cho nên tôi mới xem xét cách đối đãi của ông thôi.
- Và ông thấy gì ở đó? - Aramis kiêu ngạo hỏi.
Máu dồn lên mặt, d'Artagnan đứng phắt dậy và đáp:
- Tôi thấy đúng là một cách đổi đãi của một môn đệ những thầy dòng Jésuites.
Thấy d'Artagnan đứng lên, Porthos cũng đứng dậy. Thế là cá bốn người đều đứng sừng sững hằm hè trước mặt nhau.
Nghe câu trả lời của d'Artagnan, Aramis giơ tay như muốn sờ vào đốc kiếm.
Arthos ngăn anh lại.
- D'Artagnan này, - anh nói, - tối nay anh đến đây vẫn còn tức giận sục sôi về cái việc tình cờ tối hôm qua của chúng ta.
D'Artagnan, tôi tin rằng lòng anh khá quảng đại để cho một tình bằng hữu hai mươi năm ròng rả có thể chống lại ở anh một sự thất bại của lòng tự ái trong khoảnh khắc. Nào, hãy nói điều đó với tôi đi. Anh thấy có điều gì khiển trách tôi không? Nếu tôi có lỗi, tôi sẽ nhận lỗi.
Cái giọng nghiêm nghị và du dương ấy của Arthos bao giờ cũng có ảnh hưởng đến d'Artagnan như xưa, trong khi giọng của Aramis trở nên chua cay và kêu gào trong những lúc bực mình càng chọc tức anh. Cho nên anh đáp lại Arthos:
- Ông bá tước ơi, tôi tưởng rằng ông có điều tâm sự nói với tôi ở lâu đài Bragelonne, và còn ông, - anh nói tiếp và trỏ sang Aramis, - Ông cũng có điều tâm sự với tôi ở tu viện, hẳn là tôi đã chẳng lao vào một cuộc phiêu lưu mà các ông chắc sẽ cản đường tôi. Tuy nhiên vì rằng tôi kín đáo, chớ có vội cho tôi là một đứa ngu ngốc.
Nếu như tôi muốn đi sâu để phân biệt những người, mà ông D'Herblay đón tiếp bằng cái thang dây với những người mà ông đón tiếp bằng chiểc thang gỗ, thì ắt là tôi đã bắt ông ta phải nói với tôi rồi.
Trong bụng ngờ rằng d'Artagnan đã rình rập mình và trông thấy mình đi cùng bà de Longueville, Aramis giận tím mặt và la lên:
- Sao ông đi dây vào việc người khác?
- Tôi chỉ dây vào việc gì can hệ đến tôi, và tôi biết giả bộ không trông thấy những cái gì không can hệ đến tôi. Nhưng tôi ghét những kẻ đạo đức giả, và trong cái loại đó tôi xếp những ngự lâm quân đi làm tu viện trưởng và những tu viện trưởng đi làm ngự lâm quân.
Rồi quay sang phía Porthos, anh nói tiếp:
- Ông đây cũng đồng ý với tôi.
Porthos từ nãy chưa nói gì, chi đáp lại bằng một tiếng nói và một cử chỉ.
Anh nói "Phải" và cầm kiếm ra tay.
Aramis nhảy lùi lại một bước và tuốt kiếm ra. D'Artagnan khom lưng lại, sẵn sàng công kích hoặc tự vệ
Arthos bèn giơ bàn tay ra với cái dáng bộ chỉ huy tối thượng chỉ ở anh mới có, anh thong thả rút cả thanh kiếm và vỏ cùng một lúc, tì kiếm lên đầu gối và bẻ gẫy lưỡi kiếm ngay trong bao, rồi vứt hai mẩu sắt sang phía bên phải.
Rồi quay về phía Aramis, anh bảo:
- Aramis, bẻ gẫy kiếm anh đi.
Aramis lưỡng lự.
- Cần phải làm như vậy, - Arthos bảo. Rồi với một giọng nhỏ hơn và dịu dàng hơn, anh nói - Tôi muốn như vậy.
Aramis, mặt càng tái hơn, nhưng bị khuất phục bởi cử chỉ ấy, bị đánh bại bởi tiếng nói ấy, anh cũng dùng tay bẻ gẫy cái lưỡi thép dẻo, rồi khoanh tay lại đợi, người run lên vì tức giận.
Động tác ấy khiến d'Artagnan và Porthos phải lùi lại; d'Artagnan chưa rút kiếm, Porthos tra kiếm vào bao.
Arthos từ từ giơ bàn tay phải lên trời mà nói:
- Chúng ta đang đứng trước Chúa, Chúa đang nhìn chúng ta và nghe chúng ta trong cảnh trang nghiêm của đêm nay, tôi xin thề là không bao giờ thanh kiếm của tôi chạm vào kiếm của các anh, không bao giờ con mắt tôi nhìn các anh bằng cái nhìn giận dữ; không bao giờ trái tim tôi có một nhịp đập thù ghét các anh. Chúng ta đã cùng sống với nhau, cùng ghét và cùng yêu. Chúng ta đã đổ ra và cùng hoà máu của chúng ta, và có lẽ, anh nói thêm, - giữa chúng ta có một mối dây liên hệ còn mạnh mẽ hơn cả tình bạn, có lẽ có cái hiệp ước của tội ác; bởi vì cả bốn chúng ta, chúng ta đã buộc tội, xét xử và giết một con người mà cớ lẽ chúng ta không có quyền trừ bỏ khỏi thế gian này, dù rằng dường như nó là người của địa ngục, chứ không phải người của trần gian(1). d'Artagnan, bao giờ tôi cũng yêu mển anh như con trai tôi. Porthos, chúng ta đã từng ngủ bên cạnh nhau mười năm; Aramis là anh em của các anh cũng như là anh em của tôi, bởi vì Aramis đã yêu mến các anh như tôi vẫn yêu mến các anh, như tôi sẽ yêu mến các anh mãi mãi. Lão Mazarin có thể là cái cóc khô gì đối với chúng ta, những người đã từng chống lại cả bàn tay và trái tim của một con người như Richelieu? Hoàng thân này hay hoàng thân nọ cũng là cái gì đối với chúng ta, những người đã từng giữ vững vương miện trên đầu một bà hoàng hậu? d'Artagnan, tôi xin lỗi anh vì đã chạm kiếm với anh hôm qua; Aramis cũng làm như vậy với Porthos. Và bây giờ nếu có thể, các anh hãy cứ thù ghét tôi đi, còn tôi, tôi xin thề rằng dù các anh có thù ghét tôi, tôi vẫn chỉ mang lòng quý trọng và tình bằng hữu đối với các anh mà thôi. Bây giờ, Aramis, hãy nhắc lại lời tôi, và nếu như các anh đây muốn, và anh cũng muốn, thì chúng ta sẽ từ giã các bạn cũ của chúng ta mãi mãi.
Một lát lặng yên trang trọng. Rồi Aramis cất tiếng. Vầng trán anh bình thản và cái nhìn trung hậu, nhưng giọng nói vẫn còn vang lên một chút run run xúc động, cuối cùng, anh nói:
- Tôi xin thề là tôi không còn thù ghét gì những người đã từng là bạn tôi, tôi rất tiếc là đã chạm kiếm với anh đấy, Porthos ạ. Cuối cùng tôi xin thề là không những thanh gươm của tôi sẽ không chĩa vào ngực các anh nữa, mà từ trong đáy lòng thầm kin nhất của tôi sau này cũng sẽ không bao giờ còn bóng dáng của những thù địch đối với các anh nữa. Lại đây, Arthos.
Arthos toan rút lui. Nhưng d'Artagnan bị cuốn hút vào một cơn phấn khích không cưỡng nổi, nó tiết lộ bầu nhiệt huyết và tâm hồn thẳng thắn bẩm sinh của anh, anh vội kêu lên:
- Ô không, không! Các anh đừng đi! Các anh đừng đi, bởi vì tôi, tôi cũng phải thề. Tôi thề rằng tôi sẽ hy sinh đến giọt máu cuối cùng, đến mảnh da thịt cuối cùng để giữ tấm lòng quý trọng đối với một con người như anh, Arthos và tình bằng hữu đối với một con người như anh, Aramis.
Rồi anh nhào vào trong vòng tay của Arthos.
- Con trai của tôi! - Arthos vừa nói vừa siết bạn vào ngực mình.
- Còn tôi, - Porthos nói - tôi khỏng thề thốt gì hết, nhưng tôi đang nghẹn ngào đây, mẹ kiếp! Nếu như phải đánh nhau với các anh thà tôi để mình bị đâm xuyên suốt người còn hơn, vì rằng ở trên đời này tôi chỉ có yêu mến các anh mà thôi.
Và chàng Porthos ruột ngựa vừa nhào vào vòng tay Aramis vừa khóc lên rưng rức.
- Các bạn ơi, - Arthos nói, - đó là điều tôi hy vọng, đó là điều tôi chờ đợi ở hai tấm lòng như các anh. Phải, tôi đã nói và tôi xin nhắc lại số phận của chúng ta ràng buộc với nhau một cách không thể nào thay đổi, dù rằng chúng ta có đi theo một con đường khác. Tôi tôn trọng quan niệm của anh, d'Artagnan; tôi tôn trọng niềm tin của anh, Porthos; nhưng dù chúng ta có chiến dấu cho những mục đích trái ngược nhau chúng ta vẫn coi nhau là bạn, các tể tướng, các hoàng thân, các vua chúa sẽ qua đi như một con thác, cuộc nội chiến như một ngọn lửa, nhưng chúng ta, chúng ta có sẽ tồn tại không? Tôi dự cảm là có đấy.
- Đúng rồi, - D'Artagnan nói, - chúng ta hãy mãi mãi là ngự lâm quân, và hãy giữ làm một lá cờ duy nhất, cái tấm khăn trứ danh ở đồn Saint-Gervais mà vị giáo chủ vĩ đại đã cho thêu lên ba bông hoa huệ.
- Phải rồi, - Aramis nói, - là người phe giáo chủ hay Fronde, chăng can hệ gì đến ta? Chúng ta lại tìm những người trợ lực cho các cuộc quyết đấu, những bạn bè tận tụy cho những công việc nghiêm, trọng, những bạn vui vầy cho những thú vui.
- Và mỗi khi mà chúng ta gặp nhau trong một cuộc hỗn chiến, - Arthos nói, - chi cần nói một tiếng: "Quảng trường Hoàng gia" là chúng ta đưa kiếm sang tay trái và giơ tay phải ra nắm tay nhau; dù ở giữa một cuộc chém giết điên loạn cũng vậy?
- Anh nói thật mê hồn? - Porthos bảo.
- Anh là con người vĩ đại nhất, - D'Artagnan nói, - và riêng anh, anh vượt chúng tôi hàng chục cái đầu.
Arthos mỉm cười với nỗi vui mừng khôn tả.
- Như thế là thoả thuận rồi nhé, - anh nói. - Nào, các anh giơ tay ra. Các anh có còn là tín đồ chút nào không?
- Đúng thế! - D'Artagnan nói.
- Chúng ta sẽ là tín đồ trong dịp này, để trung thành với lời thề của chúng ta, - Aramis nói.
- A! - Porthos nói, - tôi sẵn sàng viện bất cứ ai mà các anh muốn đưa ra để thề, cả thánh Mahomet(2) cũng được. Quỷ bắt tôi đi, nếu tôi nói sai rằng chưa bao giờ tôi sung sướng như lúc này.
Và chàng Porthos tốt bụng chùi đôi mắt vẫn còn ướt:
- Các anh có ai mang một cây thánh giá nào không? - Arthos hỏi.
Porthos và d'Artagnan nhìn nhau lắc đầu như những người bị bất ngờ.
- Aramis mỉm cười và móc ở ngực ra một chiếc thập tự kim cương đeo vào cổ bằng một chuỗi ngọc trai.
- Có đây, anh nói.
- Vậy, Arthos lại nói, - chúng ta hãy thề trước cây thánh giá này, dù nó có bằng chất gì thì vẫn là một cây thánh giá. Chúng ta xin thề là dù thế nào đi chăng nữa chúng ta sẽ đoàn kết mãi mãi và lời thề ấy không những ràng buộc bản thân chúng ta mà còn ràng buộc cả con cháu chúng ta nữa! Lời thề ấy có hợp ý các anh không?
- Có! - Mọi người cũng nói.
- A! Đồ xỏ lá! - D'Artagnan ghé sát tai Aramis mà nói thầm.
- Cậu cho chúng tớ thề trên cây thánh giá của một nữ Fronde.
Chú thích:
(1) chỉ Milady
(2) Thánh của Đạo.

Chương 31

Bến phà sông l'Oise


Chúng tôi hy vọng rằng độc giả đã không quên bẵng - người lữ khách trẻ tuổi mà chúng tôi đã để lại trên con đường đi Flandre.
Đến lúc không còn trông thấy người đỡ đầu của mình đứng ở trước ngôi nhà thờ cổ vương giả đưa mắt theo dõi mình, Raoul thúc ngựa phi lên trước hết để tránh khỏi những ý nghĩ đau buồn của mình và sau nữa để giấu Olivain nỗi xúc động đang làm mình biến sắc.
Tuy nhiên một tiếng đồng hồ phóng nhanh chẳng mấy chốc xua tan những đám mây u ám đã làm rầu rĩ trí tưởng tượng đến là phong phú của chàng tuổi trẻ. Nỗi vui thú lạ lẫm được tự do - thú vui có cái ngọt ngào của nó, ngay cả đối với những kẻ chưa từng đau khồ vì sự lệ thuộc của mình - mạ vàng cho Raoul trời và đất, và nhất là cái chân trời xa xăm và xanh biếc của cuộc đời mà người ta gọi là tương lai.
Song le sau nhiều lần thử chuyện trò với Olivain, anh nhận ra rằng những ngày dài đằng đẵng cứ trôi qua như thế cũng buồn lắm, và lời nói của bá tước thật là ngọt ngào, thật là dễ nghe, thật là thú vị lại hiện lên trong trí nhớ anh về những thành phố mà người ta đi qua, và về những nơi đó thì chẳng ại còn có thể cung cấp cho anh những tin tức quý báu như anh đã thu được ở Arthos, người hướng dẫn thông thái nhất và vui tính nhất.
Một kỷ niệm khác lại khiến Raoul buồn rầu: đến Louvre, anh đã trông thấy khuất sau một rặng cây phong, một toà lâu đài gợi nhớ da diết lâu đài ở La Vallière đến nỗi anh dừng lại để ngắm nghía đến mười phút, rồi vừa thở dài vừa tiếp tục ra đi, chẳng buồn trả lời Olivain đã kính cẩn hỏi anh vì sao lại chú ý đến thế. Cái vẻ của những vật bên ngoài là một dây dẫn bí hiểm nó nối với những sợi tơ của trí nhớ và dôi khi đánh thức những sợi tơ ấy dậy ngoài ý muốn của chúng ta; một khi sợi dây ấy thức tỉnh thì giống như sợi dây của Ariane(1) nó dẫn dắt trong một mê cung tư tưởng, nơi người ta lạc lối do lần theo cái bóng của quá khứ mà người ta gọi là kỷ niệm. Cho nên việc nom thấy toà lâu đài ấy đã quẳng Raoul trở lại phía Tây năm mươi dặm và đưa anh đi ngược lại cuộc đời mình từ lúc chia tay với cô bé Louise cho đến khi anh mới gặp cô lần đầu, và mỗi bụi cây sồi, một cái chong chóng nhìn thấy trên cao, một mái ngói đá đen đều nhắc nhở anh là đáng lẽ trở về với các bè bạn thuở ấu thơ thì anh mỗi lúc một xa rời hơn và cũng có thể anh đã xa rời họ cho đến mãi mãi.
Lòng buồn rầu, đầu nặng trĩu, anh sai Olivain dắt ngựa đến một cái quán nhỏ mà anh vừa trông thấy trên đường còn cách xa độ nửa tầm súng trường. Còn anh nhảy xuống đất và dừng chân dưới một lùm cây dẻ đang nở hoa rất đẹp xung quanh vo ve từng đàn ong mật.
Ngay tại đây có một cái bàn như đặt sẵn để viết, anh dặn Olivain bảo chủ quán mang đến cho anh bút mực và giấy viết thư.
Olivain tuân lệnh, còn Raoul ngồi xuống tỳ khuỷu tay lên bàn, cặp mắt mơ hồ chìm vào trong phòng cảnh mê hồn rải rác những cánh đồng xanh và lùm cây, thỉnh thoảng lại rắc hoa như tuyết rơi xuống người anh.
Raoul ngồi đấy đến gần mười phút thì đã năm phút đắm mình trong mộng; chợt trong khoảng thời gian mà cặp mắt lơ đãng của mình bao quát, anh thấy ngọ nguậy một khuôn mặt đỏ gay, một chiếc khăn quấn quanh mình, một khăn vắt trên cánh tay, mũ vải màu trắng đội đầu tiến lại gần, mang đến cho anh gíấy bút và mực.
- A, a! - cái quái tượng hiện hình nói - tuồng như tất cả các nhà quý tộc đều có những ý nghĩ giống nhau: chỉ cách đây mới mười lăm phút một vị lãnh chúa trẻ, cưỡi ngựa tốt như ông dáng mạo cao kỳ như ông tuổi trạc bằng ông, cũng nghỉ chân trước bụi cây này, sai mang bàn ghế ra đây và đã ăn ở đây với một bác già có vẻ là viên quản lý của ông ta xơi gọn một cái bánh nướng không để lại một mẩu và nốc cạn một chai rượu vang Mâcon không để lại một giọt; nhưng may thay chúng tôi vẫn còn loại rượu ấy và bánh ấy, và nếu ông muốn sai…
- Không, không, ông bạn ơi, - Raoul mỉm cười nói, xin cảm ơn ông, lúc này tôi chỉ cần đến những thứ đã bảo ông: song tôi sẽ rất sung sướng nếu mực thật đen, bút thật tốt, được như vậy tôi sẽ trả ông tiền bút bằng giá chai rượu và tiền mực bằng giá cái bánh nướng.
- Thế thì thưa ông, - chủ quán nói, - tôi sẽ cho tên đầy tớ của ông cái bánh và chai như vậy là ông sẽ được kèm thêm bút và mực không phải trả tiền.
- Tùy ý ông, Raoul nói, anh bắt đầu cuộc tập sự của mình với cái tầng lớp thật đặc biệt này của xã hội, trước kia khi còn trộm cướp trên những đường cái lớn thì nó thông đồng với chúng ta, và từ khi không còn trộm cướp thì nó tha hồ thay thế chúng.
Chủ quán yên tâm về khoản tiền thu, đặt giấy và bút mực lên bàn. Cũng may là bút cũng khá tốt, và Raoul hạ bút viết.
Chủ quán đứng trước anh và ngắm nghía với niềm thán phục bất ý khuôn mặt tuyệt đẹp vừa nghiêm trang vừa dịu dàng. Sắc đẹp bao giờ cũng đã và sẽ là một hoàng hậu.
Lúc ấy Olivain ra xem Raoul có cần gì không, thì chủ quán nói:
- Không phải một thực khách như ban nãy đâu, ông chủ trẻ của anh không đói đâu.
- Trước đây ba hôm, ông tôi ăn vẫn ngon, nhưng biết làm thế nào, từ hôm kia đến giờ ông ấy chăng thiết ăn uống.
Rồi Olivain và chủ quán quay về tiệm. Theo thói quen của những tên đầy tớ mãn nguyện về thân phận của họ, Olivain kể cho chủ quán nghe tất cả những gì hắn có thể nói về người quý tộc trẻ.
Trong khi ấy thì Raoul viết:
"Thưa ông, Sau bốn giờ đi đường, tôi dừng lại để viết cho ông, bởi vì lúc nào tôi cũng thấy thiếu ông, và lúc nào tôi cũng chỉ chực quay đầu lại như để trả lời khi ông nói với tôi. Tôi thật bàng hoàng trước sự ra đi của ông và thật đau lòng về sự chia ly của chúng ta, đến nỗi chỉ biểu hiện được một sự nhỏ nhoi là tất cả những gì tôi cảm thấy là trìu mến và biết ơn đối với ông. Thưa ông, ông sẽ tha thứ cho tôi, vì rằng lòng ông rất hào hiêp, ông đã hiểu cả những gì diễn ra trong lòng tôi.
Mong ông hãy viết thư cho tôi, bởi vì những lời khuyên nhủ của ông là một phần của cuộc đời tôi. Tiếp thêm nữa, nếu tôi dám nói với ông, tôi rất lo lắng, hình như chính ông, ông cũng đã chuẩn bị cho một cuộc phiêu lưu nguy hiểm nào đó mà tôi đã không dám hỏi ông, vì ông chẳng nói với tôi gì cả. Cho nên ông thấy đấy, tôi rất cần có tin tức của ông. Từ khi không có ông ở bên cạnh, lúc nào tôi cũng sợ sai hỏng. Thưa ông, ông đã nâng đỡ tôi mạnh mẽ biết chừng nào và bây giờ tôi xin thề rằng tôi thấy mình rất lẻ loi. Thưa ông, nếu ông có tin tức gì ở Blois, xin ông làm ơn nói cho tôi nghe vài lời về cô bạn gái nhỏ La Vallière của tôi, khi chúng ta ra đi, sức khỏe của cô ấy có điều đáng lo ngại. Thưa với ông và người che chở thân mến của tôi, mong ông hiểu cho rằng những kỷ niệm trong cái thời tôi được sống bên ông đối với tôi quý báu và cần thiết biết chừng nào. Đôi khi, tôi hy vọng rằng ông cũng nghĩ đến tôi và nếu trong một lúc nào đó, nếu ông cảm thấy thiếu tôi, mong nhớ tôi một chút, thì tôi sẽ vô cùng sung sướng nghĩ rằng ông đã cảm thấy tình yêu thương và lòng tận tuy của tôi đôi với ông, và rằng tôi đã biết làm cho ông hiểu những điều đó trong thời gian tôi có diễm phúc được sống bên ông".
Thư viết xong, Raoul thấy mình thanh thản hơn, anh nhìn kỹ xem Olivain và gã chủ quán có rình trộm mình không và đặt một cái hôn lên mảnh giấy, một cái vuốt ve xúc động và thầm lặng mà trái tim của Arthos có thể đoán ra khi mở phong thư.
Trong khoảng thời gian ấy, Olivain đã nốc chai rượu và ăn xong cái bánh nướng; ngựa cũng đã ăn uống nghỉ ngơi. Raoul ra hiệu gọi chủ quán đến, ném một đồng êquy lên bàn, lên ngựa và khi đến Senlis thì bỏ thư vào bưu trạm.
Chầu nghỉ ngơi đã cho phép người và ngựa tiếp tục đi, đường không dừng lại. Đến Verberie, Raoul sai Olivain hỏi tin tức về người quý tộc trẻ tuổi đi trước họ; người ta cho biết là có trông thấy anh ta đi qua trước đó bốn mươi lăm phút, nhưng vì cưỡi ngựa rất tốt như gã chủ quán đã nói, cho nên đi rất nhanh.
- Chúng ta hãy cố đuổi kịp vị quý tộc ấy, - Raoul bảo Olivain - - Ông ấy cũng đến quân đội như chúng ta, và đó sẽ là bạn đường thú vị.
Bốn giờ chiều thì đến Compiègne. Raoul nghỉ chân và ăn thấy ngon miệng. Anh lại hỏi thăm về người quý tộc trẻ đi trước mình.
Cũng như Raoul, anh ta dừng ở khách sạn "Quả chuông và cái chai" (2 )là quán sang nhất ở Compiègne, rồi lại tiếp tục lên đường và nói rằng muốn đến ngủ ở Noyon.
- Ta đến ngủ ở Noyon, - Raoul nói.
- Thưa ông, - Olivain kính cẩn đáp, - cho phép tôi nhận xét rằng sáng nay ta đã làm cho ngựa mệt nhoài rồi. Tôi thiết nghĩ ta ngủ lại đây để sáng mai đi sớm thì tốt hơn. Chặng đường đầu tiên đi mười tám dặm là vừa rồi.
- Bá tước de La Fère muốn rằng tôi phải đi gấp, - Raoul nói, - và tôi cần phải theo kịp Hoàng thân vào buổi sáng hôm thứ tư. Vậy ta hãy cố đến Noyon, chặng này cũng chỉ bằng ta từ Blois đến Paris thôi mà. Tám giờ tối là tới nơi. Ngựa sẽ được nghỉ suốt đêm và sáng mai năm giờ ta sẽ lại lên đường.
Olivain chẳng dám phản đối; nhưng hắn vừa đi theo vừa lầu bầu nói qua kẽ răng:
- Này này, hãy vứt cái hăng hái ngày đầu tiên ấy đi. Ngày mai, thay cho hai mươi dặm một ngày cậu sẽ đi mười dặm, ngày kia năm dặm và sau ba ngày nữa cậu sẽ nằm giường. Đến đây thì chắc hẳn cậu phải nghỉ thôi. Tất cả các cậu thanh niên ấy đều là những tay huênh hoang khoác lác thực sự.
Ta thấy rõ là Olivain không được dạy dỗ ở trường học của các Planchet và Grimaud.
Quả tình Raoul thấy mệt rồi; song anh muốn thử sức mình, và được nuôi dưỡng bằng những nguyên tắc của Arthos, chắc chắn là đã nghe nói hàng nghìn lần những chặng đường hai mươi dặm, anh không muốn mình ở dưới tầm người mẫu của mình. d'Artagnan, con người thép ấy, dường như thân thể chỉ toàn những gân cốt và bắp thịt đã khiến anh rất khâm phục.
Thế là anh lại tiếp tục đi và mặc dầu những lời nhận xét của Olivain, anh càng thúc ngựa mau hơn, và đi theo một con đường nhỏ dẫn đến một bến phà sẽ ngắn hơn đi đường cái một dặm như người ta đã nói chắc với anh; khi đến đỉnh một ngọn đồi, anh trông thấy trước mặt là con sông. Một nhóm người cưỡi ngựa đứng ở bờ sông và sẵn sàng xuống phà. Raoul không còn hồ nghi là trong đám ấy có chàng quý tộc trẻ và tuỳ tùng. Anh cất tiếng gọi nhưng còn xa quá; thế là ngựa đang mệt phờ anh cũng thúc nó phi nước đại; nhưng một quãng nhấp nhô lên che lấp dám lữ khách, và khi anh lên đến một chỗ cao hơn thì đã thấy phà rời bến đi sang bờ bên kia.
Đã lỡ không kịp sang phà cùng với đám lữ khách, Raoul dừng lại đợi Olivain.
Vừa lúc ấy có tiếng kêu vang lên từ ngoài sông. Raoul quay lại xem và phải lấy tay che mắt vì bị chói nắng xế chiều.
- Olivain! - anh kêu lên, - ta nhìn thấy cái gì ở ngoài kia nhỉ?
Một tiếng kêu thứ hai nổi lên còn chói tai hơn nữa.
- Ôi, ông ơi - Olivain nói, - dây kéo phà đứt và phà bị trôi.
- Nhưng cái gì ở dưới nước kìa? Nó đang giãy giụa.
- À, đúng rồi! - Raoul vừa nói vừa chăm chăm nhìn vào một điểm ở trên sông mà tia nắng mặt trời chiếu lên rực rỡ thì thấy một con ngựa và một kỵ sĩ.
- Họ đang chìm, - Olivain kêu lên.
Đúng thế và Raoul cũng vừa mới cảm thấy chắc chắn một tai nạn xảy ra và một người sắp chết đuối. Anh nới tay cương, thúc đinh vào bụng ngựa, nó đau quá và cảm thấy không vướng víu gì nữa bèn nhảy vọt qua một hàng lan can bao quanh bến đò và rơi tõm xuống sông làm nước và bọt bắn tung tóe ra xa.
- Ôi! Lạy Chúa? - Olivain kêu lên. - Ông làm cái gì thế, ông ơi!
Raoul điều khiển con ngựa đến phía kẻ khốn khổ đang bị nguy ngập. Đó chẳng qua là một trò tập dượt quen thuộc đối với anh.
Được nuôi nấng bên bờ sông Lois có thể nói anh được ru trên sông nước; hàng nghìn lần anh bơi qua sông và hàng trăm lần anh cưỡi ngựa bơi qua. Arthos lo xa đến thời cho cậu tử tước vào lính đã rèn cho cậu dày dạn trong tất cả những cuộc tập dượt đó.
- Ôi, lạy Chúa, - Olivain lại thất vọng kêu lên, - nhìn thấy ông thế này, bá tước sẽ nói sao?
- Bá tước sẽ làm như tôi, - Raoul đáp và thúc mạnh con ngựa.
- Nhưng còn tôi, còn tôi! Tôi sang bằng cách nào? - Olivain thất vọng, mặt tái mét, vừa kêu to vừa hoa chân múa tay ở trên bờ sông.
- Nhảy xuống đi, đồ nhút nhát? - Raoul bảo và vẫn bơi.
Rồi anh nói với người lữ khách đang giãy giụa ở cách anh hai chục bước.
- Cố gắng lên, ông ơi, tôi đến giúp ông đây.
Olivain tiến lên, lùi lại, cho ngựa chồm lên, cho nó quay vòng cuối cùng sợ xấu hổ, hắn băng lên như Raoul đã làm, nhưng cứ lải nhải mãi: "Tôi chết mất! Chúng ta toi mạng rồi".
Trong khi ấy, chiếc phà trôi xuôi vun vút theo dòng nước và người trong phà kêu la om sòm.
Một người đàn ông tóc hoa râm nhảy từ trên phà xuống và bơi ráo riết về phía kẻ đang chìm, nhưng ông ta tiến chậm chạp vì phải bơi ngược dòng.
Raoul tiếp tục bơi và tiến nhanh rõ rệt, nhưng con ngựa và người kỵ sĩ mà anh không rời mắt cứ chìm đi trông thấy: con ngựa chỉ còn hở lỗ mũi trên mặt nước, còn người kỵ sĩ đã bỏ dây cương và vùng vẫy tay giơ lên, đầu đã ngã ra phía sau. Chỉ một phút nữa thôi là tất cả mất hút.
- Cố lên! Cố lên! - Raoul gào to.
- Muộn quá rồi? - Muộn quá rồi! - Người thanh niên lẩm bẩm.
Nước trào qua đầu anh và dập tắt tiếng nói trong miệng anh.
Raoul nhào ra khỏi con ngựa của mình mà anh để nó tự xoay xở, và bơi ba bốn sải đã tới bên chàng quý tộc. Anh túm ngay lấy cái dây buộc hàm thiếc ngựa và nâng đầu nó lên khỏi mặt nước; con vật thở dễ hơn, và dường như hiểu rằng người ta đến cứu, nó gắng sức lên.
Đồng thời Raoul nắm lấy một tay người thanh niên và đẩy anh lên bờm ngựa, anh ta vội vàng bám chặt lấy đúng như người sắp chết đuối. Biết chắc rằng anh ta sẽ không buông ra nữa, Raoul chỉ còn lo cho ngựa, anh dẫn nó bơi về phía bờ đối diện, cắt chéo dòng nước và chậc chậc lưỡi để khuyến khích nó.
Bỗng nhiên con ngựa vấp vào một mô đất ngầm và chạm chân lên cát.
- Thoát rồi! - Chàng quý tộc bất giác lẩm bẩm, rồi buông bờm ngựa ra trườn từ trên yên ngựa xuống vòng tay Raoul.
Chỉ còn cách bờ có mười bước, Raoul vác kẻ bị nạn đã ngất đi vào bờ, đặt lên bãi cỏ, cởi dây cổ áo, tháo các khuy và kẹp áo chẽn.
Một phút sau người đàn ông tóc hoa râm đã tới bên anh.
Olivain cuối cùng cũng tới được bờ sau bao nhiêu lần làm dấu thánh và những người trên phà cũng ráng sức chống vào bờ nhờ một chiếc sào vớ được ở trong phà.
Nhờ sự săn sóc của Raoul và của người nhà chàng kỵ sĩ, sự sống trở lại trên đôi má nhợt nhạt của kẻ sắp chết, đôi mắt anh mở ra lúc đầu ngơ ngác, nhưng rồi liền sau đó nhìn chằm chằm vào người đã cứu mình.
- A! Ông ơi, - anh kêu lên, - Chính ông là người tôi đang tìm đây: không có ông thì tôi chết rồi, ba lần chết rồi.
- Nhưng người ta sống lại chứ, ông thấy đấy, - Raoul đáp, - và chúng ta cũng chỉ phải một mẻ tắm thôi.
Người tóc hoa râm nói:
- Ôi, thưa ông, đội ơn ông nhiều lắm?
- A, kìa ông, ông Arminges quý hoá của tôi! Tôi làm ông sợ hết hồn phải không? Ông là gia sư của tôi, tại sao ông không dạy tôi bơi giỏi hơn.
- Ôi thưa bá tước, - Ông già nói, - nếu ông có mệnh hệ nào, tôi sẽ chẳng bao giờ dám ra mắt ngài thống chế.
- Nhưng chuyện ấy xảy ra như thế nào nhỉ? – Raoul hỏi.
Người được tôn là Bá tước đáp:
- A, thưa ông, xảy ra một cách thật là đơn giản. Chúng tôi ra được non một phần ba sông thì dây phà đứt. Người đi phà kêu la và nhốn nháo làm cho con ngựa của tôi hoảng sợ và nhảy xuống nước.
- Tôi bơi kém quá nên chẳng dám lao xuống sông. Đáng lẽ lựa theo những cử động của con ngựa thì tôi lại làm cho nó tê liệt và tôi đang chết đuối một cách tao nhã nhất đời thì ông đến vừa đúng lúc để kéo tôi lên. Cho nên thưa ông, nếu ông vui lòng, thì từ nay trở đi chúng ta sẽ là những kẻ sống chết có nhau.
- Thưa ông, - Raoul cúi mình thi lễ, - tôi sẽ hết mình làm kẻ bộ hạ của ông, tôi xin đảm bảo như vậy.
- Tôi là bá tước de Guise, - chàng kỵ sĩ nói tiếp, - cha tôi là thống chế Grammont. Và bây giờ ông biết rõ tôi rồi, xin ông ban cho tôi vinh dự được biết ông là ai?
- Tôi là tử tước de Bragelonne, - Raoul đáp và đỏ mặt lên vì không thể nói tên của cha mình như bá tước de Guise đã nói.
- Thưa tử tước, gương mặt ông, lòng tốt của ông và tinh thần quả cảm của ông thu hút tôi đến với ông, ông đã nhận tất cả lòng biết ơn của tôi. Chúng ta hãy ôm hôn nhau, tôi cầu xin tình bạn của ông.
Raoul ôm bá tước mà nói:
- Thưa ông, tôi đã hết lòng yêu mến ông rồi đó. Tôi mong ông hãy coi tôi như một người bạn tận tụy.
- Bây giờ tử tước đi đâu? - De Guise hỏi.
- Đi đến quân đội của ngài Hoàng thân, bá tước ạ.
- Tôi cũng vậy, - chàng thanh niên mừng rỡ kêu lên.
- À? Hay lắm, chúng ta sẽ cùng đi bắn phát súng đầu tiên.
- Tốt lắm, các ông hãy thương yêu nhau? - Viên quản lý nói.
Cả hai đều trẻ tuổi, chắc hẳn có cùng một ngôi sao dẫn đường và ắt phải gặp nhau.
Hai chàng thanh niên mỉm cười với niềm tin cậy của tuổi trẻ.
- Và bây giờ, - viên quản lý nói,
- Các ông phải thay quần áo, lúc bọn đầy tớ ra khỏi phà, tôi đã sai chúng về sửa soạn, chắc giờ đã tới khách sạn. Quần áo và rượu vang làm ấm người lên đấy. Ta về đi.
Hai chàng trai chẳng có gì để phản đối đề nghị đó; trái lại còn thấy là tuyệt diệu. Họ liền lên ngựa, cùng nhìn nhau và ngắm nghía nhau: quả thật đó là hai kỵ sĩ phong nhã có vóc người dong dỏng và mảnh dẻ, khuôn mặt cao quý với vầng trán rộng, cái nhìn dịu dàng mà kiêu hãnh, nụ cười trung hậu mà tinh ranh. De Guise có lẽ mười tám tuổi, nhưng chẳng lớn hơn Raoul mới mười lăm tuổi.
Bằng một động tác bất ngờ, họ giơ tay ra với nhau, và thúc ngựa, cùng đi bên nhau quãng đường từ bờ sông đến khách sạn; một người thấy rằng cuộc đời mà mình suýt mất thật tử tế và tươi cười, còn người kia thì cảm ơn Thượng đế đã cho mình sống khá đủ để làm được một điều gì khiến người đỡ đầu của mình vui lòng.
Còn Olivain, hắn là kẻ duy nhất không thoả mãn hoàn toàn về hành động đẹp đẽ của chủ mình. Hắn vắt nước các cánh tay áo và đuôi áo của mình và tiếc rằng một cuộc nghỉ ngơi ở Compiègne chắc hẳn không những tránh cho hắn khỏi tai nạn vừa mới thoát mà còn tránh cho hắn cả những chứng sưng phổi và tê thấp dĩ nhiên sẽ đến.
Chú thích:
(1) Theo thần thoại Hy Lạp, Ariane là người con gái đã cho Têdê một cuộn dây để đi khỏi lạc khi vào mê cung giết con quái vật Minôtô.
(2)Khách sạn Quả chuông và cái chai = 'Hôtel de la Cloche et de la Bouteille,


Nguồn: http://vnthuquan.net/