25/3/13

Hai mươi năm sau (C5-7)

Chương 5

Người Gascon và người Ý


Trong thời gian ấy giáo chủ trở về phòng mình, thấy Bernouin đứng cạnh cửa. Ông hỏi xem có gi mới xảy ra không và có tin tức gì về tình hình bên ngoài không.
Nghe trả lời không, ông ra hiệu cho hắn ta lui.
Còn lại một mình, ông ra mở cửa hành lang, rồi cửa tiền sảnh; d'Artagnan mệt mỏi nằm ngủ trên một cái ghế dài nhỏ.
- Ông d'Artagnan! - Ông gọi, giọng dịu dàng.
D'Artagnan không động đậy.
- Ông d'Artagnan! - Ông gọi to hơn.
D'Artagnan vẫn ngủ.
Giáo chủ tiến về phía anh lấy đầu ngón tay chạm nhẹ vào vai anh.
Lần này d'Artagnan giật mình thức giấc và tỉnh dậy, đứng ngay đơ như một người lính trong hàng quân. Anh nói:
- Có tôi, ai gọi đấy?
- Tôi đây! - Mazarin nói, vẻ mặt rất tươi cười.
- Xin Các hạ thứ lỗi, - D'Artagnan nói, - tôi mệt quá!
- Ông không phải xin lỗi tôi, - Mazarin nói, - vì ông mệt mỏi do phục vụ cho tôi.
D'Artagnan ngắm cái vẻ duyên dáng của tể tướng.
- Ái chà! - Anh nhủ thầm, - không rõ có câu tục ngữ "điều hay đến ngay khi ngủ" có đúng không nhỉ?
- Ông theo tôi - Mazarin bảo.
- Này này - D'Artagnan lẩm bẩm. - Rochefort đã giữ lời hứa với ta, nhưng không biết hắn mất biến đi đằng nào ấy nhỉ?
Và anh nhìn vào mọi ngóc ngách trong căn phòng mà chằng thấy bóng Rochefort đâu cả.
Mazarin vừa ngồi xuống ghế bành vừa sắp xếp lại và nói:
- Ông d'Artagnan, bao giờ tôi cũng thấy ông là một con người trung hậu và phong nhã.
- Cũng có thể, - D'Artagnan nghĩ, - nhưng ông ta đã mất bao nhiêu thời gian đề nói với mình điều đó. Ý nghĩ ấy không ngăn cản anh cúi sát đất đầu đáp lại lời khen ngợi của ông ta.
- Thế này nhé. - Mazarin nói tiếp - đã đến lúc cần tận dụng tài năng và giá trị của ông đấy!
Một ánh vui mừng vụt lóe lên, rồi tắt ngấm ngay trong cặp mắt người sĩ quan, vì anh không biết giáo chủ muốn đi đến đâu. Anh nói:
- Xin Đức ông cứ ra lệnh, tôi sẵn sàng phục tùng.
- Ông d'Artagnan, - giáo chủ tiếp, - dưới triều cũ ông đã lập một số chiến công…
- Các hạ quá rộng lòng nhớ lại… Đúng thế, tôi có tham gia chiến tranh với khá nhiều thành tích.
- Tôi không nói về thành tích chiến tranh của ông, - Mazarin nói, - vì dù cho nó có gây được tiếng vang nào đó, nó cũng bị những chiến công khác vượt xa.
D'Artagnan làm bộ ngơ ngác.
- Thế nào! - Mazarin nói, - Ông không trả lời à?
- Tôi được Đức ông bảo cho biết ngài muốn nói về những chiến công nào.
- Tôi nói về câu chuyện phỉêu lưu… Hề! Ông thừa biết tôi muốn nói gì.
- Chao ôi! Thưa Đức ông, không ạ, - D'Artagnan sửng sốt đáp.
- Ông kín đáo, càng tốt. Tôi muốn nói chuyện phiêu lưu về Hoàng hậu, về chuỗi hạt kim cương, về chuyến viễn du mà ông đã thực hiện cùng với ba người bạn ông.
- Hề, hề - Chàng Gascon nghĩ - phải chăng đây là một cái bẫy? Ta phải vững mới được.
Và anh tạo trên nét mặt một vẻ kinh ngạc mà Mondori hoặc Bellerose, những tay hề xuất sắc nhất của thời ấy cũng phải ganh tị.
Rất tốt! - Mazarin cười nói. - Hoan hô! Người ta đã nói rất đúng với tôi rằng ông là người mà tôi cần. Thế nào? Ông sẽ làm điều gì tốt lành cho tôi nào?
- Tất cả những điều gì Các hạ ra lệnh cho tôi làm, - D'Artagnan đáp.
- Ông sẽ làm cho tôi cái điều mà xưa kia ông đã làm cho một bà hoàng hậu chứ?
D'Artagnan tự nhủ thầm: "Nhất định là người ta muốn bắt mình phải tuôn ra, cứ đợi đấy. Ông ta chẳng tinh khôn hơn Richelieu đâu, mẹ kiếp…". Anh nói:
- Cho một bà hoàng hậu ư, thưa Đức ông. Tôi không rõ Đức ông định nói gì.
- Ông không hiểu rằng tôi cần đến ông và ba người bạn của ông ư?
- Ba người bạn nào ạ?
- Ba người bạn ngày xưa của ông.
- Ngày xưa, thưa Đức ông, - D'Artagnan đáp, - tôi không có ba người bạn, tôi có năm mươi bạn. Ở tuổi hai mươi, người ta gọi tất cả thiên hạ là bạn của mình.
- Được được ông sĩ quan này! - Mazarin nói - Tính kín đáo là một điều hay, nhưng ngày nay ông có thể sẽ hối tiếc vì đã quá kín đáo.
- Thưa Đức ông, Pythagore đã bắt môn đồ của mình giữ im lặng trong năm năm để dạy cho họ biết ngậm miệng.
- Còn ông đã giữ im lặng trong hai mươi năm. Thế là hơn một nhà triết học phái Pythagore mười năm lăm, tôi thấy thế là phải rồi: Vậy hôm nay hãy nói đi, vì rằng chính hoàng hậu đã giải lời thề cho ông rồi.
- Hoàng hậu ư? D'artagnan nói với một vẻ kinh ngạc lần này không giả tạo nữa.
- Phải, hoàng hậu? Và để chứng thực rằng tôi nhân danh bà mà nói với ông, bà đã bảo tôi đưa cho ông xem chiếc nhẫn kim cương này mà bà cho rằng ông cũng biết, và bà đã chuộc lại ở ông des Essarts.
Và Mazarin giơ bàn tay về phía viên sĩ quan, anh thở dài khi nhận ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã tặng anh buổi tối cuộc vũ hội ở toà thị sảnh.
- Đúng thật - D'Artagnan nói, - tôi nhận ra chiếc nhẫn kim cưong này trước kia của hoàng hậu.
- Ông thấy rõ rằng tôi nhân danh bà hoàng hậu mà nói với ông. Vậy đừng đóng kịch nữa, mà hãy trả lời tôi. Tôi đã nói với ông, và tôi xin nhắc lại, vận hạnh của ông cũng trông vào đấy mà nên.
- Thưa Đức ông, thực tình tôi rất cần làm nên những chuyện lớn lao đó. Các hạ đã quên tôi quá lâu.
- Chỉ cần tám ngày để sửa chữa điều ấy. Này, ông thì đây rồi, nhưng còn các bạn của ông đâu?
- Thưa Đức ông, tôi không rõ.
- Sao, ông không biết gì về họ ư?
- Không, chúng tôi đã xa nhau lâu lắm rồi. Vì cả ba người đã rời quân ngũ.
- Thế ông sẽ tìm họ ở đâu?
- Ở bất cứ nơi nào họ sẽ đến. Việc ấy tôi lo.
- Tốt! Các điều kiện của ông?
- Tiền, thưa Đức ông, chừng nào mà những mưu sự của ta đòi hỏi. Tôi rất nhớ biết bao lần chúng tôi bị trở ngại vì thiếu tiền và không có nhẫn kim cương kia mà tôi buộc lòng phải bán thì hẳn chúng tôi đã phải ở lại giữa đường.
- Quỷ quái thật! Tiền, nhiều tiền lắm sao? – Mazarin nói. - Này ông sĩ quan, ông có biết rằng không có tiền ở trong các két bạc của nhà vua không?
- Xin Đức ông hãy làm như tôi, bán những hạt kim cương ở mũ miện; hãy tin tôi, không nên mặc cả, với những phương tiện nhỏ mọn người ta làm hỏng những việc lớn.
- Thôi này! - Mazarin nói, - chúng tôi sẽ tìm cách làm vừa lòng ông.
"Richelieu, - D'Artagnan nghĩ, - hẳn là đã cho ta năm trăm pistoles tiền đặt cọc".
- Các ông sẽ theo tôi chứ?
- Vâng, nếu các bạn của tôi muốn vậy.
- Nhưng nếu họ từ chối, tôi có thể trông cậy ở ông không?
- Một mình thì tôi chẳng làm nên trò trống gì, - D'Artagnan lắc đầu nói.
- Vậy đi tìm kiếm họ đi.
Tôi sẽ nói với họ như thế nào để khiến họ phụng sự Các hạ?
- Ông biết rõ họ hơn tôi. Tuỳ tính cách họ mà ông hứa hẹn.
- Tôi sẽ hứa hẹn gì?
- Rằng họ cứ giúp tôi như đã giúp hoàng hậu và sự trả ơn của tôi sẽ hậu hĩnh.
- Chúng tôi sẽ làm gì?
- Tất cả vì dường như ông biết làm tất cả.
- Thưa Đức ông, khi người ta tin cậy những người khác và muốn rằng họ cũng tin cậy vào mình thì người ta cho biết tình hình rõ hơn là Các hạ đã làm.
- Khi nào thời gian hành động đến sẽ hay, - Mazarin nói, - cứ yên tâm, ông sẽ biết tất cả ý nghĩ của tôi.
- Thế cho đến lúc ấy?
- Chờ đợi và đi tìm các bạn của ông.
- Thưa Đức ông, có lẽ họ không ở Paris, chẳc chắn là như vậy, phải đi xa mới được. Tôi chỉ là một viên trung uý ngự lâm nghèo xác xơ mà những chuyến đi thì tốn kém.
- Ý định của tôi, - Mazarin nói, - không phải là ông sẽ xuất hiện như một ông hoàng với tiền hô hậu ủng, kế hoạch của tôi cần bí mật và sẽ hỏng bét với những ngựa xe nghễu nghện.
- Thưa Đức ông, tôi chẳng thể đi với tiền lương của tôi: vì lương chậm đến ba tháng chưa trả, tôi cũng không thể đi được bằng tiền dành dụm lý do là từ hai mươi năm nay phục vụ trong quân đội, tôi chỉ dành dụm được những khoản nợ nần mà thôi.
Mazarin đứng đăm chiêu một lát như phải suy nghĩ một cách hết sức căng thẳng, rồi bước đến bên chiếc tủ ba lần khoá, ông lôi ra một cái túi, nhấc nhấc trên tay hai ba bận để ước lượng nặng nhẹ ra sao trước khi đưa cho d'Artagnan.
- Anh cầm lấy chỗ này, - Mazarin thở dài và nói, - đây là cho chuyến viễn du.
D'Artagnan nghĩ thầm: "Nếu là những đồng tiền vàng Tây Ban Nha hoặc những đồng êquy vàng thì chúng ta sẽ có thể cộng tác được với nhau đấy!" Anh chào giáo chủ và nhét bọc tiền vào túi áo rộng.
- Này thế là xong nhé? - Giáo chủ đáp lại. - Ông sẽ lên đường…
- Vâng, thưa Đức ông.
- Rất tốt. Nhân tiện, tên các bạn ông là gì nhỉ?
- Tên các bạn tôi ư? - D'Artagnan nhắc lại, vẻ hơi băn khoăn.
- Phải, trong khi ông đi tìm họ, về phần tôi cũng sẽ cho dò hỏi, may ra biết thêm được chút gì.
- Ông bá tước De la Fére, tức Arthos, ông Du Vallon tức Porthos. Ông hiệp sĩ De Herblay, bây giờ là tu viện trưởng Herblay, tức Aramis.
Giáo chủ mỉm cười.
- Những vị quý tộc đăng vào ngự lâm quân dưới những tên giả để khỏi phương hại đến tên họ tộc. Kiếm dài nhưng hầu bao nhẹ, người ta biết điều đó.
- Nếu Chúa muốn rằng những tay trường kiếm kia chuyển sang phụng sự Các hạ. - D'Artagnan nói, - thì tôi xin mạo muội bày tỏ một mong ước là, đến lượt cái hầu bao của đức ông nhẹ đi và hầu bao của họ tăng lên; bởi vì với ba con người kia và tôi, Các hạ sẽ khuấy động toàn nước Pháp và toàn châu Âu nữa, nên điều đó hợp ý ngài.
- Những tên Gascon này - Mazarin cười nói - cũng gần ngang với người Ý về tài huênh hoang.
- Dù sao, - D'Artagnan nói với một nụ cười tương tự như bộ mặt giáo chủ - dù sao, họ cũng hơn về tài đấu kiếm. Và anh ra đi sau khi đã xin một giấy nghỉ phép được Mazarin cấp ngay và tự mình ký.
Vừa mới ra ngoài, anh bèn đến gần một ngọn đèn ngoài sân và nhòm vội vào cái túi.
- Những đồng êquy bạc! - Anh buông một câu khinh bỉ, - ta ngờ ngay mà. A, Mazarin, Mazarin, mi không tin cậy ta! Cóc cần! Điều này sẽ mang đến những tai hoạ cho mi!
Trong lúc ấy, ông giáo chủ xoa xoa tay. Ông lẩm bẩm:
- Một trăm pistol! Mất một trăm pistol ta có được một bí mật mà Richelieu có lẽ phải trả hai mươi nghìn êquy ấy là chưa kể cái nhẫn kim cương này, - Ông ta vừa nói tiếp vừa tình tứ liếc nhìn cái nhẫn mà đáng lẽ phải đưa cho d'Artagnan, ông đã giữ lại, - chưa kể cái nhẫn kim cương này trị giá ít ra là mười nghìn livres).
Ông giáo chủ đi vào phòng mình mừng rơn về cái buổi tối này mà ông đã kiếm được món lãi đến là bở, đặt chiếc nhẫn vào trong một hộp tư trang đầy kim cương các loại; vì ông giáo chủ ham thích các loại ngọc thạch, và ông gọi Bernouin vào để cởi bỏ quần áo cho mình, chẳng bận tâm thêm nữa về những tiếng ồn ào vẫn tiếp tục dội từng cơn vào cửa kính và những tiếng súng vẫn, còn vang vọng trơng thành phố Paris, mặc dù lúc ấy đã hơn mười một giờ đêm.
Trong khi đó d'Artagnan lần về phía con đường Tiquetonne nơi quán "Con dê cái nhỏ". Ta hãy nói vài lời về d'Artagnan làm thế nào mà lại chọn nơi trú ngụ ấy.
Chú thích:
(1) Tiền cũ của Pháp, một pistol bằng ba êquy và bằng mườl livres


Chương 6

D'Artagnan ở tuổi bốn mươi


Than ôi! Từ hồi mà trong cuốn tiểu thuyết "Ba người lính ngự lâm, chúng tôi từ biệt d'Artagnan ở 12 phố Phu Đào Huyệt đến nay đã diễn ra biết bao sự việc và nhất là đã trôi qua biết bao năm trời.
D'Artagnan đã không bỏ lở các cơ hội, nhưng các cơ hội đã bỏ lỡ d'Artagnan còn ở trong tuổi thanh xuân và thơ mộng của mình; đó là một trong những bản chất tinh tế và linh lợi nó dễ dàng hấp thụ các phẩm chất của người khác. Arthos cho anh tính cao thượng, Porthos lòng hăng hái, Aramis - vẻ hào hoa phong nhã. Ví phỏng d'Artagnan tiếp tục cuộc sống với ba người ấy, anh sẽ trở thành một người cao siêu. Arthos từ giã anh đầu tiên, để lui về cái khoảnh đất nhỏ mà anh thừa kế ở mạn Blois, Porthos là người thứ hai chia tay anh để kết hôn với bà biện lý của mình, cuối cùng Aramis là người thứ ba từ biệt anh để đi hẳn với giới tu hành và trở thành tu viện trưởng.
D'Artagnan như đã đã hòa tương lai của mình vào tương lai của ba người bạn, bắt đầu từ khi ấy trở thành lẻ loi và yếu đuối, không có can đảm để theo đuổi một nghề nghiệp trong đó vớỉ điều kiện mỗi người bạn của anh sẽ nhường cho anh, nếu có thể nói như vậy, một phần chất điện khí mà họ đã thu nhận của của trời.
Như vậy, dù trở thành trung uý ngự lâm quân, d'Artagnan chỉ càng thấy mình trơ trọi hơn, anh chẳng phải con nhà gia thế như Arthos để các nhà danh giá rộng mở đón tiếp anh. Anh cũng chưa đủ huênh hoang như Porthos để khiến người ta tưởng anh cũng quen biết giới thượng lưu. Anh cũng không phải khá là lịch thiệp như Aramis để vừa đứng vững trong cái phong nhã bẩm sinh vừa rút ra vẻ phong nhã từ chính mình. Có thời kỷ niệm tuyệt diệu về bà Bonacieux(1) đã in vào tâm trí người trung uý trẻ trung một chút thơ mộng nào đó, nhưng gìống như kỷ niệm trên đời này, cái kỷ niệm có thể tiêu tan ấy cũng dần dần bị xoá nhòa; cuộc sống doanh trại thật phũ phàng, ngay cả đối với những tư chất quý phái. Trong hai bản chất trái ngược nhau tạo thành cá tính của d'Artagnan, cái bản chất vật chất dần dần lấn át, và cứ nhẹ nhàng ít một ít một không thể nhận thấy. D'Artagnan vốn luôn luôn sống cuộc đời doanh trại, cuộc đời đồn trú, luôn luôn trên mình ngựa, đã trở thành (tôi không biết thời ấy gọi thế nào) như thời nay người ta gọi là một lính già thực thụ.
Không phải vì thế d'Artagnan mất đi cái tinh khôn sơ khai, không đâu. Trái lại, có lẽ cái tinh khôn ấy càng tăng thêm, hoặc ít ra là đáng chú ý gấp đôi dưới một cái vỏ hơi thô lỗ; nhưng cái tinh khôn ấy anh đã áp dụng cho những chuyện nhỏ nhặt, chứ không phải cho những việc lớn của cuộc đời; cho hạnh phúc vật chất, cho thứ an lạc như lính tráng thường hiểu, nghĩa là có chỗ ở tốt, có bữa ăn ngon và có cô chủ nhà tử tế.
Và d'Artagnan đã tìm được cả mấy thứ đó từ sáu năm nay ở phố Tiquetonne tại quán mang tên de La Chevrette"Con dê cái nhỏ".
Trong thời gian đầu ở quán này, bà chủ người Flamande trạc hai lăm hai sáu tuổi đẹp và tươi trẻ, say mê anh một cách lạ lùng. Sau mấy chuyện tình tự, bị người chồng khó chịu ngăn trở, d'Artagnan đến chục lần làm ra bộ sắp đâm kiếm xuyên suốt người ông ta đến nơi; một buổi sáng nọ người chồng đã biến mất, chuồn đi hẳn sau khi đã bán lén dăm chai rượu vang và mang theo tiền bạc cùng tư trang. Người ta tưởng ông ta chết; nhất Ià người vợ tự phỉnh mình bằng cái ý nghĩ ngọt ngào là mình goá bụa, càng dũng cảm bảo vệ ý kiến cho rằng ông ta đã qua đời. Cuối cùng sau ba năm cố ra sức giữ gìn cho mối quan hệ khỏi bị tan vỡ, d'Artagnan thấy rằng mỗi năm chỗ trú ngụ của anh và bà chủ của anh càng thú vị hơn bao giờ hết, vì cái nọ làm tăng thêm ảnh hưởng cho cái kia, bà chủ đưa ra một yêu cầu quá đáng là trở thành vợ, và tỏ ý muốn d'Artagnan lấy bà ta.
- Á à? Xì! - D'Artagnan trả lời. - Lấy hai chồng ư, bà thân mến? Thế nào, bà không nghĩ đến điều đó sao?
- Nhưng mà ông ấy chết rồi, tôi chắc chắn như vậy.
- Đó là một tay rất ngang ngạnh và hắn sẽ trở về để treo cổ chúng ta.
- Thế thì, nếu hắn về, ông sẽ giết luôn hắn đi, ông dũng cảm và khéo léo thế kia mà!
- Ghê chưa, bà bạn thân mến? Đấy cũng là một cách khác để được treo cổ.
- Như vậy, ông từ chối yêu cầu của tôi ư?
- Ô hay! Làm gì mà quyết liệt thế!
Bà chủ quán xinh đẹp đau khổ lắm. Bà rất muốn d'Artagnan không những làm chồng bà, mà làm Chúa của bà nữa, đó là một trang nam nhi tuấn tú, một binh sĩ hiên ngang.
Vào năm thứ tư của mối quan hệ ấy xảy ra cuộc viễn chinh đến Franche-Comté. D'Artagnan được cử vào đoàn quân ấy và sửa soạn lên đường. Thế là diễn ra những đau khổ xé lòng, những dòng lệ rơi. bất tận, những nguyện thề thủy chung long trọng, tất nhiên tất cả là từ phía bà chủ. D'Artagnan thì vốn quá là ông hoàng, nên không thể không hứa hẹn gì, cho nên anh hứa sẽ làm những gì có thể làm được để thêm phần vẻ vang cho tên tuổi của anh.
Về mặt này, ai còn lạ gì tinh thần quả cảm của d'Artagnan. Anh liều thân một cách tuyệt vời, và dẫn đầu đại đội mình để công kích, anh bị một viên đạn xuyên qua người và ngã sóng soài trên trận địa.
Người ta trông thấy anh rơi từ trên mình ngựa xuống mà không thấy anh trở dậy, nên chắc là anh đã chết, và tất cả những người hy vọng kế tục chức vụ của anh đều nói phứt rằng anh chết rồi, người ta dễ tin điều mà người ta mong ước; như ở trong quân đội, từ các ông tướng sư đoàn mong ước cái chết của vị tướng tổng tư lệnh cho đến những người lính trơn mong ước cái chết của thày cai, mọi người đã mong ước cái chết của một người nào đó.
Song d'Artagnan không phải loại người dễ chịu bị giết như vậy.
Sau khi bị ngất và nằm trong cái nóng nực ban ngày, anh hồi tỉnh nhờ cái mát mẻ ban đêm, anh lần vào một làng, đến gõ cửa ngôi nhà đẹp nhất và được đón tiếp như mọi người Pháp bị thương ở mọi nơi, mọi lúc. Anh được nâng niu, chăm sóc, chữa chạy, và khỏe khoắn hơn bao giờ hết, một buổi sáng nọ, anh lên đường về Pháp, về nước rồi anh lên đường đi Paris, rồi thì anh về giữa phố Tiquetonne.
Nhưng d'Artagnan thấy căn phòng mình bị chiếm bởi một cải mắc áo treo trọn bộ y phục đàn ông chỉ thiếu thanh kiếm đặt sát tường.
Anh được biết nhà đã nuôi thằng ở mới, con hẩu mới, bà chủ nhà đang, đi dạo chơi.
- Bà ta đi một mình à? - D'Artagnan hỏi.
- Với ông ấy ạ.
- Vậy là ông ấy đã trở về ư?
- Chắc thế - cô hầu thật thà trả lời.
D'Artagnan tự nhủ thầm: "Nếu có tiền, ta sẽ ra đi ngay, nhưng vì không có tiền, ta phải ở lại đây và làm theo lời khuyên của bà chủ nhà của ta bằng cách ngăn cản những toan tính linh hoạt vợ chồng của kẻ trở về hãm tài kia".
Anh vừa kết thúc bản độc thoại ấy, điều đó chứng tỏ trong những hoàn cảnh trọng đại không có gì tự nhiên bằng độc thoại, thì cô hầu đang rình cửa bỗng kêu lên:
- A này? Đúng là bà chủ đang trở về với ông ấy.
D'Artagnan đưa mắt ra xa nhìn ngoài đường, quả nhiên thấy ở ngay con đường Montmartre, bả chủ đi về và bám vào cánh tay của một người lính Thụy Sĩ rất đồ sộ, hắn ta đi cứ núng na núng nính với những điệu bộ gợi nhớ một cách thú vị hình ảnh Porthos trong đầu người bạn thân thiết cũ.
- Đức ông chồng đấy ư? - D'Artagnan tự nhủ - Ô, ồ! Dường như hắn đã lớn vồng lên!
Và anh ngồi lại phòng ở một chỗ rất dễ nhìn thấy.
Bà chủ nhà bước vào chợt nhận ra d'Artagnan và khẽ kêu lên một tiếng.
Nghe tiếng kêu nho nhỏ ấy, d'Artagnan biết rằng bà đã nhận ra anh, bèn đứng dậy, chạy đến ôm hôn bà ta rất trìu mến.
Tên Thụy Sĩ ngơ ngác nhìn bà chủ quán đang tái nhợt cả người.
Trong lúc bối rối cực kỳ, bà nói:
- À! Ông đấy à! Ông cần gì ở tôi thế?
Không mảy may bị chưng hửng trong vai trò mình đang đóng, d'Artagnan nói:
- À! Ông đây là anh em họ bà à? Ông đây là anh bà à?
Và chẳng đợi bà trả lời, anh nhảy ra ôm tên Thụy Sĩ, hắn cứ để mặc anh làm, vẻ mặt lạnh như băng.
- Ông này là thế nào? - Hắn hỏi.
Bà chủ đáp lại bằng những tiếng nghẹn ngào.
- Người Thụy Sĩ này là thế nào? - D'Artagnan hỏi.
- Ông ấy sắp cưới tôi, - bà chủ trả lời giữa hai cơn giật.
- Vậy là chồng bà cuối cùng đã chết rồi à?
- Chuyện đó can hệ gì đến ông? - Người Thụy Sĩ nói.
- Can hệ lắm chứ? - D'Artagnan đáp - Vì ông không thể cưới bà ta mà không được sự đồng ý của tôi và vì…
- Vì sao? – Người Thụy Sĩ hỏi.
- Vì tôi không cho. – Người lính ngự lâm đáp.
Tên Thụy Sĩ mặt đỏ lên như hoa mẫu đơn, hắn bận quân phục rất bảnh mạ vàng, d'Artagnan choàng một chiếc áo choàng xẫm, tên Thụy Sĩ cao sáu bộ(2), d'Artagnan không hơn năm bộ, người Thụy Sĩ coi như ở nhà mình, d'Artagnan như một kẻ đột nhập.
- Ông có đi ra khỏi đây không? - Người lính Thụy Sĩ hỏi và giậm mạnh chân như một người bắt đầu tức giận thực sự.
- Tôi ấy à? Không đâu? - D'Artagnan nói.
- Ồ chỉ có việc đi tìm kẻ trợ lực - một thằng ở nói, hắn chỉ có thể hiểu là cái người nhỏ bé này muốn tranh chỗ với người hộ pháp kia.
Cơn giận bắt đầu lên đến cổ, d'Artagnan liền túm lấy tai thẳng ở mà quát:
- Mày, mày phải đứng yên tại chỗ và không được động đậy, nếu không tao sẽ dứt đứt cái mà tao đang cầm đây. Còn về phía ông, vị con cháu lẫy lừng của hoàng đế Guillaume Tell, ông hãy gói ghém quần áo của ông đang để trong phòng tôi và gây phiền cho tôi, và đi ngay lập tức mà tìm kiếm một quán trọ khác.
Tên Thụy Sĩ phá ra cười ầm ĩ.
- Tôi ấy à? - Hắn nói - Mà vì sao?
- A, được lắm! - D'Artagnan nói. - Tôi thấy là ông hiểu tiếng Pháp. Thế thì ông hãy đi chơi một vòng với tôi, và tôi sẽ giải thích cho ông sau.
Bà chủ quán biết rõ d'Artagnan là một tay kiếm giỏi, nên bắt đầu khóc lóc và bứt tóc bứt tai.
D'Artagnan quay lại phía người đẹp đang khóc than và bảo:
- Thế thì bà hãy đuổi hắn đi.
Tên Thụy Sĩ phải mất một lúc mới hiểu ra đề nghị mà d'Artagnan đề ra với hắn, hắn nói:
- Chà. Trước hết ông là ai mà dám đề nghị tôi đi chơi với ông một vòng.
- Tôi là trung uý ngự lâm của Hoàng thượng - D'Artagnan đáp. - do đó tôi là thượng cấp của ông. Tuy nhiên không phải là vấn đề cấp bậc ở đây mà là phiếu phân phối chỗ ở. Ông biết thủ tục rồi. Ông hãy đi lấy phiếu của ông. Ai trở lại đây trước sẽ lấy lại phòng của mình.
D'Artagnan dẫn tên Thụy Sĩ đi, mặc những lời than vãn của bà chủ quán; trong thâm tâm bà cảm thấy lòng mình nghiêng về phía mối tình xưa; nhưng cũng không bực mình vì dạy một bài học cho anh chàng ngự lâm quân kiêu căng kia đã xúc phạm đến bà khi từ chối lấy bà.
Hai địch thủ đi thẳng đến đường hào Montmartre.
Khi đến nơi thì trời đã tối, d'Artagnan lịch sự đề nghị tên Thụy Sĩ nhường phòng cho mình và đừng đến đấy nữa; hắn lắc đầu từ chối và rút kiếm ra.
- Thế thì ông hãy nằm lại ở đây, - D'Artagnan nói - chỗ trú ngụ này tồi lắm, nhưng không phải lỗỉ của tôi, mà chính ông đã muốn vậy.
Nói xong, đến lượt anh tuốt kiếm và chạm kiếm với địch thủ.
Anh gặp phải một tay cứng cựa, nhưng sự mềm dẻo của anh vượt mọi sức mạnh. Thanh trường kiếm của tên người Thụy Sĩ không lúc nào chạm được vào kiếm của người ngự lâm. Tên Thụy Sĩ xơi hai nhát kiếm trước khi nhận biết được vì quá rét, tuy nhiên bỗng chốc do mất máu và đuối sức đi trông thấy hắn buộc phải ngồi xuống.
- Đấy nhé! - D'Artagnan nói - Tôi đã bảo trước mà. Ông đã đi quá trớn và đến là bướng bỉnh! Cũng may, ông chỉ phải nằm độ mười lăm ngày thôi. Hãy ở đây, tôi sẽ cho thằng hầu mang quần áo đến cho ông. Tạm biệt, Nhân tiện xin mách ông hãy đến quán Con Mèo Mơn Trớn ở đường Montorgueil, ở đấy sẽ được nuôi dưỡng đầy đủ, nếu vẫn là bà chủ quán cũ. Vĩnh biệt nhé!
Rồi anh hí hửng trở về, sai đưa quần áo đến cho tên Thụy Sĩ. Tên hầu thấy hắn vẫn ngồi đúng chỗ mà d'Artagnan để hắn lại và táng đởm kinh hồn vì lòng gan dạ vững vàng của người địch thủ.
Tên hầu, bà chủ quán và cả nhả kính trọng d'Artagnan như người ta kính trọng thần Hercule, nếu ông trở lại trần gian để bắt đầu lại mười hai kỳ tích của ông ta.
Nhưng khi còn một mình với bà chủ nhà, anh nói:
- Bây giờ bà hiểu rõ khoảng cách từ một tên lính Thụy Sĩ đến một nhà quý tộc, còn về phàn bà, bà đã cư xử như một con mụ chủ quán. Mặc kệ bà, nhưng vì cách cư xử ấy bà làm tôi mất uy tín với khách khứa giao thiệp của tôi, tôi sẽ không trọ ở đây nữa, tôi chẳng ở cái nơi, mà mình khinh rẻ. Ơ này, thằng hầu! Cho mang va-li của ta đến khách sạn Bồn ái ân ở đường Bourdonnais. Vĩnh biệt bà!
Khi tuôn ra những lời lẽ ấy, d'Artagnan tỏ ra vừa oai nghiêm vừa ái ngại. Bà chủ quản phục xuống dưới chân anh, vừa xin lỗi vừa giữ anh lại bằng một sự hung tợn ngọt ngào. Còn biết nói thế nào nữa! Cái chĩa nướng thịt lại quay, cái chảo rán lại xèo xèo, mỹ nhân Madeleine khóc lóc, d'Artagnan cảm thấy cái đói, cái rét và tình yêu cùng đến với anh, anh tha thứ, và đã tha thứ thì anh ở lại.
Sự tình d'Artagnan đến ở quán "Con dê cái nhỏ" Tiquetonne là như thế đấy.
Chú thích:
(1) Constance de Bonacieux – vợ một người buôn hàng xén trong tập "Ba người lính ngự lâm", là thị tỳ trung thành của hoàng hậu Anne d'Autriche và là tìth nhân của d'Artagnan, sau bị Milady đầu độc chết.
(2) Đơn vị đo chiều dài cũ bằng khoản ba hai centimètre

Chương 7

D'Artagnan gặp khó khăn, nhưng một người quen biết của chúng ta đến giúp anh


D'Artagnan trở về vừa đi vừa đăm chiêu suy nghĩ. Anh thấy hào hứng khi mang túi tiền của giáo chủ Mazarin và khi nghĩ đến chiếc nhẫn kim cương đẹp trước kia đã từng là của anh và có một lát anh đã trông thấy nó lấp lánh ở ngón tay ông tể tướng. Anh tự bảo:
"Giá cái nhẫn kim cương ấy lại rơi vào tay mình, mình sẽ bán ngay lấy tiền, mình sẽ mua hết bất động sản ở chung quanh lâu đài của cha mình, ngôi nhà đẹp thật đấy, nhưng về công trình phụ chỉ có một mảnh vườn lớn gần bằng cái nghĩa trang. Những Kẻ Vô Tội. Ta sẽ ngồi nhà và đàng hoàng ngồi đợi một nàng thừa kế giàu có say mê cái tốt mã của ta và đến lấy ta; rồi ta sẽ có ba cậu con trai, ta sẽ nuôi dạy đứa lớn thành một đại thần như Arthos, đứa thứ hai - một chàng lính bảnh bao như Porthos, đứa thứ ba - một tu viện trưởng lịch sự duyên dáng như Aramis. Thực tình mà nói, như thế còn tốt hơn cuộc sống hiện nay của ta, nhưng khốn thay lão Mazarin là một tên đê tiện, chẳng có hảo ý nhường lại cái nhẫn kim cương ấy cho ta".
Không biết d'Artagnan sẽ nói thế nào khi anh biết rõ rằng hoàng hậu đã nhờ Mazarin đưa lại cái nhẫn ấy cho anh?
Về đến phố Tiquetonne, anh thấy có tiếng ồn ào và một đám tụ tập lớn ở quanh nhà anh.
- A, a! - Anh nói. - Hay là cháy ở quán "Con dê cái nhỏ"? Hay là chồng của nàng Madeleine xinh đẹp dứt khoát trở về.
Chẳng phải chuyện này cũng chẳng phải chuyện nọ. Đến gần, d'Artagnan mơi rõ là người ta tụ tập không phải ở trước nhà anh mà trước nhà bên cạnh. Người ta kêu la om xòm, người ta vác đuốc chạy và dưới ánh đuốc, d'Artagnan nhận ra những bộ quân phục.
Anh hỏi xem có chuyện gì xảy ra.
Người ta cho biết là có một thị dân cùng với hai chục người bạn đã tấn công một cỗ xe có các vệ sĩ của tể tướng đi hộ tống, nhưng có viện binh ập đến, đám thị dân bỏ chạy. Tên cầm đầu đám ấy trốn vào một nhà ở giáp quán và lính đang sục sạo trong nhà ấy.
Hồi còn trẻ, có lẽ d'Artagnan đã chạy tới chỗ anh nhìn thấy những bộ quân phục và giúp sức cho bọn lính chống lại đám thị dân; nhưng bây giờ anh đã ngán tất cả những cơn nóng đầu ấy rồi. Vả lại, trong túi đang có một trăm pistol của ngài giáo chủ, anh chẳng muốn mình phiêu lưu vào trong một đám đông.
Anh chẳng hỏi gì thêm và bước vào quán.
Xưa kia, bao giờ d'Artagnan cũng muốn biết rõ tất cả, giờ đây bao giờ anh cũng biết rõ khá nhiểu.
Anh thấy nàng Madeleine xinh đẹp không chờ đợi anh, vì tưởng anh ở đêm tại cung Louvre như anh đã dặn. Thấy anh trở về bất ngờ, bà mừng rỡ và nồng nhiệt đón tiếp anh, càng mừng hơn vì bà vừa mới trải qua một cơn sợ hãi hết hồn về việc đang xảy ra ở ngoài phố, mà bà thì không có một người lính Thụy Sĩ nào để bảo vệ cho bà.
Cho nên bà muốn bắt chuyện với anh và kể lể việc đã xảy ra; nhưng d'Artagnan bảo bà cho mang bữa ăn tối lên phòng anh và kèm theo một chai rượu vang Bourgogne lâu năm.
Bà Madeleine xinh đẹp được dạy cho quen với cách tuân lệnh kiểu nhà binh, nghĩa là theo một cử chỉ ra hiệu. Lần này d'Artagnan lại còn hạ cố nói nên lời, thành ra anh được bà tuân lệnh nhanh gấp hai lần.
D'Artagnan cầm chìa khóa và cây nến đi lên phòng mình. Để khỏi ảnh hưởng tới việc cho thuê phòng, anh tự bằng lòng với một phòng ở tận tầng tư. Vì tôn trọng chân lý, chúng tôi buộc phải nói thẳng ra rằng căn phòng ở ngay sát dưới ống máng và ở dưới mái nhà.
Đó là chiếc lều Asin(1) của anh. D'Artagnan ở lì trong buồng mỗi khi anh muốn trừng phạt Madeleine bằng sự vắng mặt của mình.
Sự quan tâm đầu tiên của anh là nhét túi tiền vào ngăn một cái bàn cổ mà khoá còn mới, anh cũng chẳng cần kiểm tra xem số tiền là bao nhiểu, rồi một lát sau, bữa cơm tối được dọn ra, chai rượu vang đem đến, anh cho tên hầu đi ra, đóng cửa và ngồi vào bàn.
Không phải suy nghĩ như người ta tưởng; nhưng d'Artagnan nghĩ rằng chỉ có thể làm tốt mọi việc bằng cách làm lần lượt từng việc một. Anh đang đói, anh ăn, rồi sau bữa ăn anh đi nằm. D'Artagnan cũng chẳng phải loại người cho rằng ban đêm thường đem đến cho người ta nhiều điều khuyên bổ ích: ban đêm d'Artagnan ngủ khì.
Nhưng trái lại buổi sáng, trong người tỉnh táo, tinh khôn hẳn, anh tìm thấy những cảm hứng hay nhất. Từ lâu anh chẳng có cơ hội để suy nghĩ vào buổi sáng, nhưng ban đêm anh vẫn ngủ.
Sớm tinh mơ, anh thức giấc, nhảy khỏi giường với một quyết tâm thật là lính và vừa đi lững thững quanh buồng, vừa ngẫm nghĩ.
- Năm 43 - anh nói - khoảng gần tháng sáu, khi cố giáo chủ qua đời mình nhận được lá thư của Arthos. Ở đâu nhỉ! Xem nào… à! Đó là tại cuộc bao vây Besançon, mình nhớ ra rồi… mình đang ở trong hào? Cậu ta nói gì nhỉ? Cậu ấy ở một mảnh đất nhỏ, phải, đúng thế, một mảnh đất nhỏ; nhưng ở đâu? Mình đọc đến đấy thì có cơn gió cuốn bay đi. Giá như ngày xưa là hắn mình sẽ đi tìm, mặc dù gió cuốn lá thư ra một chỗ trống trơn.
Nhưng tuổi trẻ là một thiếu sót lớn… khi người ta không còn trẻ nứa. Mình đã để cho lá thư bay đi đến chỗ quân Tây Ban Nha, mang theo địạ chỉ của Arthos mà chúng chẳng cần đến và lẽ ra phải trả lại mình chứ. Vậy là không nghĩ đến Arthos nữa. Xem nào… Porthos. Mình đã nhận được bức thư của cậu ta, cậu ấy mời mình đến dự một hội săn lớn trong vùng đất đai của cậu ấy, vào tháng Chín năm 1646. Rủi thay. Hồi ấy mình đang về quê ở Bearn vì ông bố mình mất, lá thư đuổi theo mình, khi mình đi thì nó lại đến. Rồi nó lại theo mình và đến Montmédy mấy ngày sau khi mình rời thành phố này. Cuối cùng nó tới tay mình vào tháng Tư, nhưng lại là tháng Tư năm 1667 mà giấy mời đến dự vào tháng chín cuối năm 1646, cho nên chẳng còn tác dụng gì. Nào ta hãy tìm bức thư ấy và chắc nó phải có tước hiệu trang ấp?
D'Artagnan mở một cái hòm nhỏ cũ kỹ nằm ở góc buồng đầy những gỉấy tờ liên quan đến đất đai của d'Artagnan, từ hai trăm năm nay giấy tờ ấy hoàn toàn ra khỏi gia đình anh, và anh thốt ra một tiếng kêu mừng rỡ: anh vừa nhận ra một nét chữ to đùng của Porthos và ở dưới có mấy dòng chữ nhỏ li ti do bàn tay khô héo của bà phu nhân xứng đáng của cậu ta viết.
D'Artagnan không buồn đọc chơi lại lá thư, anh biết nó viết gì, anh xem vội địa chỉ.
Địa chỉ là: ở lâu đài du Vallon.
Porthos đã quên béng một chỉ dẫn khác. Trong niềm kiêu hãnh của mình, anh ta tưởng tất cả thiên hạ đều phái biết cái lâu đài mà anh ta đã lấy tên mình đặt cho nó.
"Quỷ bắt cái thằng huênh hoang này? - D'Artagnan nói, - bao giờ nó cũng vẫn thế! Tuy nhiên mình cần bắt đầu từ cậu ta, chắc nó chẳng cần đến tiền nong, nó đã thừa kế tám trăm nghìn livres của ông Coquenard (2). Này, đó là người cần nhất mà mình đang thiếu. Arthos uống rượu lắm vào chắc đến đần độn người ra rồi. Còn Aramis hẳn đang chìm ngập trong việc cầu nguyện!
D'Artagnan lại đưa mắt nhìn bức thư của Porthos.
Dưới thư có một dòng tái bút như sau:
"Cùng với chuyến thư này, tôi viết cho Aramis, anh bạn xứng đáng của chúng ta ở tu viện của anh ta".
"Ở tu viện của anh ta! Ừ, nhưng mà tu viện nào? Có đến hai trăm tu viện ở Paris và ba nghìn tu viện ở nước Pháp. Lại nữa khi vào tu viện cậu ta có thể đồi tên đến ba lần. A! Ví phỏng mình thông thái về thần học và chỉ cần nhớ cái chủ đề các luận án cậu ta tranh cãi rất hay với với ông linh mục Montdidie ở Crèvecoeur và ông tăng viện trưởng dòng Jesus, mình sẽ biết cậu ta thuộc phái nào. Và từ đó suy ra cậu ta thờ phụng thánh nào. Kể ra nếu mình đến ông giáo chủ, xin ông ta cấp cho một giấy thông hành có thể vào bất cứ tu viện nào, kể cả tu viện các nữ tu sĩ nhỉ! Đó cũng là một ý hay và có khi mình sẽ tìm thấy cậu ta. Ở đấy giống như Asin… Ô, nhưng mà như thế khác gì thú nhận ngay từ đầu sự bất lực của mình, và ngay từ việc đẩu tiên mình đã đi đứt trong tâm trí của giáo chủ.
Những quan to chỉ biết ơn khi nào người ta làm cho họ cái việc không có thể. Họ sẽ bảo chúng ta rằng: "Nếu là việc có thể thì tôi tự làm lấy mình cũng được". Và những quan to nói phải. Nhưng hãy đợi tí và xem nào. Mình cũng đã nhận một bức thư của cậu ta, người bạn thân thiết, đúng thế nên cậu ta mới nhờ mình một việc nhỏ và mình đã giúp. À, đúng rồi, nhưng mình đã nhét cái thư ấy vào đâu chứ?
D'Artagnan ngẫm nghĩ một lát, rồi tiến về phía cái mắc áo treo những áo cũ của anh. Anh tìm chiếc áo khoác ngắn của mình dùng năm 1646, và do là một chàng trai có trật tự ngăn nắp, anh thấy nó được móc ở một cái đinh. Anh móc túi áo ra một mảnh giấy, đúng là thư của Aramis. Thư viết:
"Anh d'Artagnan, xin anh biết cho rằng tôi đang có chuyện xích mích với một người quý tộc, hắn đã hẹn tôi chiều nay đến quảng trường Hoàng cung. Vì tôi là một người tu hành và việc ấy có thể hại cho tôi nếu tôi cho người khác biết, ngoài một người bạn thật tin cậy như anh, nên tôi viết cho anh để nhờ anh làm người trợ thủ cho tôi.
Anh sẽ đến đường Neuve-Sainte-Catherine; tới ngọn đèn thứ hai bên phải, anh sẽ thấy địch thủ của anh. Tôi sẽ cùng địch thủ của tôi ở dưới ngọn đèn thứ ba.
Tận tình với anh, Aramis!"
Lần ấy chẳng có đến lời từ biệt. D'Artagnan cố nhớ lại kỷ niệm ấy. Anh đi đến chỗ hẹn, gặp địch thủ như đã dặn và anh chẳng biết tên, tặng hắn một nhát kiếm nên thân vào cánh tay, rồi anh đến chỗ Aramis thì Aramis cũng đã kết thúc cuộc đấu của mình rồi và đang đi đến với anh. Aramis nói:
- Xong rồi, tôi chắc là đã giết chết tên hỗn láo. Nhưng bạn thân mến ơi, nếu anh cần đến tôi thì anh biết rằng tôi hết lòng tận tụy với anh.
Nói xong Aramis bắt tay anh và biến đi dưới những ô cửa tò vò.
Thế là về chỗ ở của Aramis, d'Artagnan cũng chẳng biết rõ hơn chỗ ở của Porthos và Arthos. Vấn đề bắt đầu trở nên rối rắm, thì anh nghe như có tiếng một tấm kính ở phòng anh bị đập vỡ. Lập tức anh nghĩ ngay đến túi tiền ở trong bàn và lao ngay vào phòng.
Anh không lầm: lúc anh vào bằng cửa chính thì có một người vào qua cửa sổ.
- A! Tên khốn nạn! - D'Artagnan kêu lên, anh tưởng đó là một kẻ trộm và vớ lấy thanh kiếm.
- Ấy thưa ông? - Người kia kêu lên. - Lạy trời, xin ông hãy tra kiếm vào bao và chớ giết tôi mà không nghe tôi nói! Tôi không phải là một tên ăn trộm, trái lại, tôi là một thị dân hẳn hoi, có nhà cửa đàng hoàng. Tôi tên là… Ơ này, nếu tôi không lầm thì ông là ông d'Artagnan.
- Còn cậu, Planchet hả! - Viên trung uý kêu lên.
- Để hầu hạ ông, nếu tôi còn làm được, - Planchet mừng quýnh lên nói.
- Có thể lắm, - D'Artagnan đáp, - nhưng mà làm thế quái nào mà cậu lại chạy trên mái nhà vào lúc bảy giờ sáng giữa tiết tháng Giêng này?
- Thưa ông, ông cần biết rằng - Planchet nói, - nhưng xét ra có lẽ ông không nên biết.
- Ô hay, sao thế! Nhưng trước hết hãy đặt một cái khăn trước ô kính và kéo rèm lại.
Planchet vâng lời và khi làm xong, d'Artagnan hỏi:
- Thế nào?
Tên Planchet khôn ngoan đáp:
- Thưa ông, trước hết, ông đối với ông Rochefort thế nào.
- Rất tốt! Sao vậy? Rochefort ư, cậu có biết rằng ông ta bây giờ là một trong những người tốt nhất của tôi không?
- A, càng hay.
- Nhưng giữa Rochefort với cái cách đột nhập vào phòng tôi thì có liên quan gì với nhau hả?
- Ấy đấy thưa ông? Cần phải thưa với ông rằng ông de Rochefort…
- Mẹ kiếp! - D'Artagnan kêu - Tôi thừa biết ông ấy ở ngục Bastille.
- Nghĩa là ông ta đã ở đó, - Planchet đáp.
- Thế nào? Ông ta đã ở đó! - D'Artagnan kêu lên. - Phải chăng ông ta có diễm phúc thoát rồi?
- A, thưa ông, - đến lượt Planchet kêu lên, - nếu ông gọi đó là diễm phúc, thì mọi sự đều ổn, vậy phải nói với ông rằng, hình như hôm qua người ta cho người đến Bastille đem ông Rochefort đi.
- Mẹ kiếp, ta biết thừa, bởi vì chính ta tới kiếm ông ấy.
- Nhưng không phải ông đã đưa ông ta trở lại đó, thật may cho ông; bởi vì nếu tôi nhận ra ông trong đoàn hộ tống thì ông hãy tin rằng bao giờ tôi cũng kính trọng ông quá.
- Nói nốt đi, con khỉ! Nào, thế rồi sao?
- Ấy! Thế rồi khi đến giữa phố Hàng Sắt, nhân xe chở ông Rochefort đi qua một đám dân chúng và bọn lính áp giải hành hạ những người thị dân, thế là người ta ồn ào lên; người tù nghĩ cơ hội thật là thuận tiện, bèn tự xưng tên và kêu cứu. Lúc ấy tôi đang ở đó, tôi nhận ra tên ông bá tước de Rochefort và nhớ rằng chính ông ấy đã cử tôi làm viên đội trong trung đoàn Piémont, tôi bèn nói to lên rằng người tù này là bạn của quận công de Beaufort. Mọi người liền nổi dậy, chặn ngựa lại, đánh tan đoàn áp giải. Trong khi tôi mở cửa xe, ông Rochefort nhảy xuống đất lẫn vào đám đông. Khốn thay khi ấy một đội tuần tra đi qua, chúng hợp với toán vệ sĩ và tấn công chúng tôi. Tôi vừa đánh vừa rút về phía phố Tiquetonne, tôi bị đuổi riết phải trốn vào một nhà ở cạnh nhà này; bọn chúng đã bao vây, sục sạo nhưng uổng công. Tôi đã gặp ở tầng năm một người tốt bụng giấu tôi giữa hai tấm nệm. Tôi đã nằm lại trong chỗ ẩn nấp của tôi, hoặc gần như thế, cho đến sáng, và nghĩ rằng đến chiều họ lại bắt đầu những cuộc lục soát, tôi đánh liều bò lên ống máng, tìm kiếm một lối vào sau đó một lối ra trong một ngôi nhà nào đó không bị canh gác. Câu chuyện của tôi là thế đấy và thưa ông, xin lấy danh dự mà thề rằng tôi sẽ rất thất vọng nếu nó làm ông chán tai.
- Không đâu, - D'Artagnan nói, - thực sự tôi rất mừng là Rochefort đã được tự do, nhưng cậu có biết rõ điều này không: nếu cậu rơi vào tay những người của nhà vua, cậu sẽ bị treo cổ không dung tha.
- Mẹ kiếp, tôi biết lắm chứ! - Planchet nói- Đó chính là điều làm cho tôi sợ hết hồn, và đấy, về sau tôi rất mừng khi gặp lại ông; bởi vì nếu ông mà muốn giấu tôi thì chẳng có ai làm việc đó tốt hơn ông.
- Phải, - D'Artagnan nói, - tôi không đòi hỏi gì hơn, dù rằng tôi chỉ phải hy sinh không hơn không kém cái chức vị của tôi, nếu như người ta biết rằng tôi đã cho một tên phiến loạn ẩn náu.
- Ôi, thưa ông, xin ông biết cho rằng tôi có thể liều mạng vì ông.
- Cậu có thể thêm hẳn vào là cậu liều mạng rồi, Planchet ạ. Tôi chỉ quên những điều tôi cần phải quên, nhưng còn điều này, tôi muốn nhớ lại: Cậu ngồi xuống đây, bình tĩnh mà ăn đi, bởi vì tôi nhận thấy cậu nhìn những món ăn thừa của bữa ăn của tôi với một cái nhìn biểu hiện cảm xúc nhất.
- Vâng, thưa ông, bơi cái tủ buffet của nhà bên cạnh rất hiếm của chất bột, và vì trưa hôm qua tôi mới ăn có một lát bánh với mứt. Mặc dầu tôi chẳng chê các của ngọt khi nó đến đúng nơi đúng chốn, tôi thấy bữa ăn tối hơi nhẹ.
- Khổ thân cậu! - D'Artagnan nói. - Bình tâm lại đi.
- Ôi, ông ơi, ông đã cứu mạng tôi hai lần, - Planchet nói.
Rồi anh ta ngồi xuống bàn và ăn nghiến ngấu như những ngày nào ở phố Phu đào huyệt.
D'Artagnan tiếp tục đi đi lại lại, anh cố moi trong óc xem có cách nào tận dụng được Planchet trong những tình huống hiện nay của anh. Trong lúc đó Planchet ra sức hoạt động để bù lại những giờ đã mất.
Cuối cùng anh ta trút một hơi thở phào khoan khoái của một người đói lả báo hiệu rằng sau khi được chén một đợt đầu tiên và chắc dạ, anh ta tạm ngừng một chút.
D'Artagnan nghĩ đến lúc bắt đầu cuộc lục vấn, bèn nói:
- Nào, ta hãy tuần tự: cậu có biết Arthos ở đâu không.
- Không, ông ạ, - Planchet đáp.
Đồ quỷ! Cậu có biết Porthos ở đâu không.
- Cũng không.
- Đò quỷ! đồ quỷ! Còn Aramis?
- Cũng không nốt.
- Đồ quỷ! đồ quỷ! đồ quỷ!
- Nhưng, - Planchet nói với vẻ láu cá, - tôi biết Bazin ở đâu.
- Sao, cậu biết Bazin ở đâu à?
- Thưa vâng.
- Thế hắn ở đâu nào?
- Ở Nhà thờ Đức Bà.
- Làm gì ở Nhà thờ Đức Bà?
- Làm phụ thủ.
- Bazin phụ thủ ở nhà thờ Đức Bà? Cậu chắc chắn như vậy ư?
- Hoàn toàn chắc chắn, tôi đã trông thấy anh ta, tôi đã nói chuyện với anh ta.
- Hẳn là hắn ta phải biểt hắn ta ở đâu chứ?
- Chắc thế.
D'Artagnan ngẫm nghĩ, rôi lấy áo choàng và thanh kiếm, anh sửa soạn đi ra.
- Ông ơi, - Planchet với vẻ mặt thiểu não nói, - Ông bỏ rơi tôi thế này ư? Xin ông nhớ rằng, tôi chỉ còn hy vọng ở ông thôi.
Nhưng người ta sẽ chẳng đến đây tìm cậu đâu, - D'Artagnan bảo.
Anh chàng Planchet thận trọng nói:
- Cuối cùng người ta đến, ông nhớ cho rằng đối với những người trong nhà không trông thấy tôi vào, tôi ắt là một kẻ trộm.
- Đúng đấy, - D'Artagnan nói. - Này thế cậu có nói được một thổ ngữ nào không?
- Tôi còn biết hơn ấy chứ, thưa ông, - Planchet đáp. - Tôi nói một ngôn ngữ, ngôn ngữ Flamant.
- Cậu học nó ở nơi quái quỷ nào thế?
- Ở Artois, nơi tôi đã dự cuộc chiến tranh hai năm. Ông nghe xem: Goeden morgen, mynheer! ltk ben begeeray te weeten the ge sond hects omstand.
- Nghĩa là gì?
- Chào ông! Tôi nóng lòng muốn biết tình trạng sức khỏe của ông thế nào?
- Nó gọi đấy là ngôn ngữ? Nhưng không sao! - D'Artagnan nói, - thế mà tuyệt đấy?
D'Artagnan đi ra cửa gọi một thằng hầu và bảo nó mời bà Madeleine xinh đẹp lên.
- Ông ơi, ông làm gì đấy, - Planchet nói, - Ông định trao cái điều bí mật của chúng ta cho một người đàn bà sao?
- Cứ yên tâm, bà ta sẽ chẳng hé nửa lời.
Lúc ấy bà chủ quán vào. Bà tươi cười chạy đến, tưởng rằng sẽ thấy d'Artagnan một mình, nhưng vừa nhác thấy Planchet, bà kinh ngạc lùi lại.
- Bà chủ thân mến của tôi, - D'Artagnan nói, - tôi xin giới thiệu ông anh của bà từ xứ Flandre đến, tôi nhờ ông ấy đến giúp việc tôi mấy ngày.
- Anh tôi! - Bà chủ nói, giọng mỗi lúc một sửng sốt.
- Hãy chào cô em đi, master Peter.
- Vilkom zueter! - Planchet nói.
- Goeden day, broer! - Bà chủ ngạc nhiên đáp lại.
- Câu chuyện là thế này! - D'Artagnan nói. - Ông đây là anh bà, có thể bà không biết. Ông ấy từ Amsterdam đến. Trong khi tôi đi vắng, bà sẽ sắm sửa quần áo cho ông ấy; khi tôi về, nghĩa là độ một giờ nữa, bà sẽ giới thiệu ông ta với tôi và theo sự gửi gắm của bà. Mặc đầu ông ta sẽ chẳng nói một tiếng Pháp nào, do tôi chẳng có gì từ chối bà, tôi sẽ nhận ông ta vào giúp việc cho tôi, bà hiểu chứ!
- Nghĩa là tôi đoán ra điều ông mong muốn và chỉ cần có vậy, - Madeleine nói.
- Bà là một người phụ nữ quý hoá, bà chủ xinh đẹp của tôi ạ, và tôi tin cậy ở bà.
Nói xong, d'Artagnan làm hiệu riêng với Planchet, rồi ra để đi đến Nhà thờ Đức Bà.
Chú thích:
(1) Asin - một danh tướng á thần trong thần thoại Hy Lạp, trong cuộc chiến tranh thành Troa dựng lều trú quân gần thành
(2) chồng cũ đã chết của vợ Porthos


Nguồn: http://vnthuquan.net/