Chuyện 45: Công Tử Họ Vi ( Vi Công Tử )
Công tử họ Vi dòng dõi thế gia ở Hàm Dương (*) tính buông thả dâm dật. Những người hầu gái có nhan sắc trong nhà không ai thoát khỏi bàn tay chàng. Chàng từng mang mấy nghìn vàng ra đi, tính thưởng thức hết kỹ nữ danh tiếng trong thiên hạ. Các chốn phồn hoa không đâu không tới. Không phong nhã lắm thì ngủ một đêm rồi đi ngay. Còn như vừa ý thì lưu lại hàng trăm ngày.
Chú ruột chàng cũng là một vị quan có tiếng, mới hồi hưu, thấy hạnh kiểm cháu như vậy thì giận lắm, bèn mời thầy giỏi về nhà, dựng một cơ ngơi riêng, bắt cháu cùng các con đóng cửa học tập. Tối đến, công tử chờ thầy ngủ rồi, trèo tườing trốn về, sáng mới trở lại; như thế đã thành quen. Một hôm bị trợn chân ngã, gãy cánh tay, thầy mới biết, báo cho chú. Ông liền đánh cho một trận bò lê bò càng rồi mới thuốc thang cho. Khi khỏi ông lại giao hẹn: nếu học vược hẳn các em, văn hay chữ tốt, thì đi chơi không cấm. Nhưng vụng trộm giở trò phóng dật thì sẽ bị đánh đòn như trước.
Công tử rất thông minh, học thường vượt mức. Vài năm sau đậu khoa thi hương. Chàng muốn bỏ lời ước cũ, nhưng người chú vẫn ra sức kiềm chế. Chàng lên kinh đô, ông sai người lão bộc đi theo, giao cho một quyển sổ nhật ký, dặn phải ghi chép lời nói việc làm của chàng hàng ngày. Vì vậy liền mấy năm, chàng không có hành vi gì sai trái.
Sau khi đậu tiến sĩ, ông chú mới hơi nới lệnh cấm. Công tử muốn làm gì vẫn sợ chú biết. Vào chơi các ngỏ hẻm, phải giả danh là họ Ngụy. Một hôm, qua Tây An, thấy một thiếu niên làm con hát tên là La Huệ Khanh, tuổi độ mười sáu mười bảy, xinh đẹp như con gái. Chàng thích lắm đêm giữ lại quấn quít, rồi cho rất nhiều tiền. Ngh nói cô vợ mới cưới của Huệ Khanh lại còn phong nhã, tình tứ hơn, chàng ngỏ ý riêng với Huệ Khanh. Huệ Khanh không tỏ ra khó chịu, tối đến dấn vợ tới thực. Ba người ngủ chung một giường. Lưu lại vài hôm, quyến luyến yêu đương rất mực. Bàn tính đem nhau cùng về. Hỏi tới người nhà, Huệ Khanh đáp rằng:
- Mẹ mất sớm chỉ còn cha. Tôi vốn không phải họ La. Mẹ tôi hồi nhỏ hầu hạ nhà họ Vi ở Hàm Dương. Bị bán hết nhà họ La được bốn tháng thì sinh ra tôi. Nếu được theo công tử về, may ra cũng hỏi thăm được gốc gác.
Công tử kinh ngạc, hỏi đến họ của người mẹ. Khanh đáp:
- Họ Lã.
Chàng kinh hãi cực độ, mồ hôi toát đầm mình mẩy. Vì mẹ Khanh chính là thị tỳ nhà chàng trước kia.
Chàng không nói một lời. Lúc ấy trời đã sáng. Chàng cho Huệ Khanh rất nhiều tiền và khuyên cậu nên bỏ nghề. Rồi vờ thác còn có việc phải đi, hẹn khi nào trở về sẽ cho gọi, thế là chàng từ giã bỏ đi tuốt.
Sau được bổ làm quan huyện ở Tô Châu. Ở đây có một con hát tên là Thẩm Vi Nương, xinh nhã tuyệt trần. Chàng rất yêu, giữ lại cùng chung chăn gối. Đùa cợt, hỏi nàng rằng:
- Tiểu tự của em có phải lấy ý tứ câu thơ: " Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương" chăng?
Nàng đáp:
- Không phải thế. Mẹ em mười bảy tuổi đã là kỳ nữ nổi tiếng. Có vị công tử ở Hàm Dương cùng họ với ngài, lưu lại cùng mê em ba tháng, thề thốt chuyện cưới xin. Công tử đi rồi, tám tháng sau thì sinh ra em. Do đó mới đặt tên là Vi. Thực ra đó là họ của em. Lúc lâm biệt công tử có tặng mẹ em đôi chim uyên ương bằng vàng, đến nay hãy còn. Sau khi công tử bỏ đi, bặt không tin tức. Mẹ em vì phẫn uất buồn rầu mà chết. Tư thuở lên ba, em được bà Thẩm nuôi nấng, bèn lầy theo họ Thâm.
Công tử nghe nói xấu hổ không còn chịu nổi. Lặng đi một lúc, chợt nảy ra một kế. Chàng chợt nhỏm dậy khêu đèn, gọi Vi Nương vào uống rượu rồi ngầm bỏ thuốc độc vào trong chén. Vi Nương vừa nuốt khỏi cổ, lliền vật vã kêu rên, mọi người chạy tới, thì đã tắt thở. Chàng gọi con hát đến, giao phó tử thi, rồi đút lót cho chúng rất nhiều tiền.
Nhưng những kẻ giao hảo với Vi Nương hết thảy lại là đám con nhà thần thế. Nghe tin chúng đều bất bình, cho tiền và xúi giục con hát kiện lên quan trên. Chàng hoảng sợ, phải dốc sạch túi chạy vạy dập đi. Cuối cùng chàng bị cách chức vì tội sa đà bừa bãi.
Trở về nhà, tuổi đã ba mươi tám, chàng rất hối hận về những việc làm làm khi trước, mà vợ và hầu gái năm sáu người đều không có con. Muốn xin đứa cháu nội của ông chú về làm con kế tự, nhưng ông nghĩ cửa nhà ấy vô hạnh, vợ trẻ con nhiễm phải thói xấu, nên tuy nhận lời cho thừa kế, song phải đợi khi nào chàng già yếu mới cho sang. Chàng phẫn uất muốn cho gọi Huệ Khanh, người nhà đều cho là không được, bèn thôi.
Vài năm sau, chàng bỗng lâm bệnh, thường đấm vào ngực mà nói rằng: "Dâm bôn với con hầu, ngủ với kỹ nữ không phải là giống người". Ông chú nghe thấy thế bảo:
- Thế này thì sắp chết rồi.
Bèn cho đứa con của người con trai thứ sang nhà chàng để sớm hôm nâng giấc. Hơn một tháng, quả nhiên chàng mất.
Chú thích
(*) Hàm Dương : một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây.
Ngô Thế Long dịch
Chuyện 46: Uông Sĩ Tú
Ở Lỗ Châu (*) có chàng Uông Sĩ Tú là người cứng cỏi, khỏe mạnh, nhấc bổng đưọc cối đá. Hai bố con chàng đều giỏi đá bóng. Năm người bố ngoại tứ tuần, khi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đến Hà Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc bấy giờ trăng rằm nhô lên ở đỉnh đằng Đông, mặt nước lặn trông khác nào tấm lụa. Uông đang ngắm nhìn, bỗng thấy năm người từ dưới hồ nhô lên, mang theo chiếc chiếc rất to, trải lên mặt hồ rộng ước nửa mẫu, đoạn lăng xăng bày tiệc rượu, cốc chén chạm nhau lách cách, song tiếng va dịu trầm, không tiếng sành sứ. Bày xong ba người ngồi xuống chiếu, hai ngườikia hầu rượu. Trong số người ngồi, một áo vàng, hai áo trắng, cả ba đều đội khăn màu xám cao ngất nghiểu, đuôi khăn viền với vai và lưng,, kiểu rất khác lạ; phải nỗi trăng sáng mênh mang, trông không được rõ lắm. Hai người hầu đều mặt áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già.
Chợt nghe người áo vàng nói:
- Đêm nay trăng đẹp tuyệt phải uống cho thỏa thích mới được.
Người áo trắng đáp:
- Phong cảnh đêm nay chẳng khác nào cái hôm Quảng Lợi Vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa.
Ba người chuốc rượu lẫn nhau, nâng chén phù bạch(**) nhưng nói hơi khẽ nên không nghe được câu nào nữa.
Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha, nhưng nghe tiếng nói lại không giống. Canh hai sắp tàn, bỗng một người nói:
- Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đem bóng ra đá cho vui.
Tức thì thấy tên tiểu đồng ngụp xuống nước lấy lên một quả bóng to đẫy một ôm, bên trong chứa đầy chất gì như thủy ngân, sáng thấu từ trong ra ngoài. Mấy người ngồi đứng dậy cả. Người áo vàng gọi ông già cùng đá. Họ đá bổng lên đến hơn một trượng, bóng đi lấp loáng chói cả mắt. Lát sau nghe "bình" một tiếng, bóng từ xa bay vọt vào khoang thuyền. Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy bóng nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá, bóng vọt cao lên mấy lần, mỗi lần lên đến gần trượng, bên trong có cái gì bắn sáng ra, tia xuống tựa cầu vồng, rồi bỗng rơi xuống rất nhanh như một ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, sôi lên mấy tiếng ùng ục rồi mới tắt ngấm.
Mấy người trên tiệc chiếu đều nổi giận:
- Đứa trần tục quái nào dám làm chúng tao mất hứng thế?
Người hầu già cười:
- Không tồi! Không tồi! Đó là món "quặt sao băng" (***) của nhà tôi đấy!
Người áo trắng nghe giọng bỡn cợt ấy thì trừng mắt lên, giận dữ:
- Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám vui đùa hả? Mau cùng thằng oắt áo đen đi bắt tên ngông cuồng kia về đây, bằng không chân cẳn chúng baysẽ được xơi dùi đấy!
Uông liệu chẳng trốn đi đâu được nên cũng không sợ nữa, bèn xách dao đứng giữa thuyền. Thấy ông già và tiểu đồng cầm khí giới đi đến, Uông nhìn kỹ thì đúng là cha mình thật, vội vàng gọi to:
- Cha ơi! Con đây mà!
Ông già kinh sợ, nhìn con mà buồn đứt rả ruột. Tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già bảo:
-- Con trốn ngay đi kẻo chết cả hai cha con bây giờ.
Nói chưa dứt lời ba người kia đã lêen cả trên thuyền. Người nào người nấy mặt đen sì, mắt to hơn trái lựu. Chúng túm lấy ông già lôi đi, Uông cố sức giằng lại làm thuyền tròng trành đứt cả dây néo. Chàng dùng dao chém đứt được cánh tay một người rơi xuống. Người áo vàng bỏ chạy, một người áo trắng xông tới. Uông cứ nhằm đầu mà chém, hắn ngã "ùm" xuống nước rồi mất tăm.
Hai cha con đang tính trẩy thuyền đi ngay đêm ấy thì thấy một cái mõm rất to nổi lên khỏi mặt nước. Mõm ấy sâu, miệng như miệng giếng nước hồ bốn bên chảy cả vào đó, réo lên thành tiếng ào ào. Lát sau nó phụt nước lên, đánh sóng cao ngất đến tận nhưng vì sao, làm hàng vạn chiếc thuyền đều bị lắc tròng trành. Người trên hồ đều sợ khiếp vía. Trên thuyền của Uông có hai cái trống đá, mỗi cái nặng đến hơn trăm cân, chàng nhấc một cái ném xuống, nước bắn tóe lên vang như sấm, sóng êm dần; ném cái nữa, sóng gió lặn hẵn.
Uông ngờ cha mình là ma. Ông già nói:
-Cha chưa chết con ạ. Mười người đắm đò thì bọn yêu quái ăn thịt đến chín. Cha vì giỏi đá bóng mà được toàn tánh mạng. Bọn yêu đắc tội với Đức Vương ở sông Tiền Đường nên chúng phải tránh sang hồ Động Đình này. Cả ba đưá đều là cá thành tinh, quả bóng vừa đá là bong bóng cá đấy.
Cha con mừng rỡ, chèo thuyền đi ngay lúc nửa đêm. Sáng ra thấy trên thuyền có cái vây cá, đường kính dài đến bốn năm thước ,mới chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứ được đêm qua.
Chú thích
(*) Lô Châu : tên phủ, thuộc tỉnh An Huy.
(**) Phù bạch: tên một loại chén uống rượu.
(***) Quặt sao băng (lưu tinh quái) : tên gọi một ngón đá bóng, người đá nhấc hân trái lên trước rồi chân phải từ phía sau đá bóng bay đi.
Phạm Tú Châu dịch
Chuyện 47: Liên Tỏa
Dương Vu Úy dời nhà đến sông Tứ Thủy (*); phòng học trông ra mộ cánh đồng ruộng có nhiều ngôi mộ cổ ở ngoài tường. Đêm nghe hàng bạch dương lao xao như tiếng sóng vỗ. Đêm tàn đốt đèn ngồi, lòng đang buồn rượi bỗng nghe phía ngoài tường có tiếng ngâm thơ:
Gió lạnh xoay chiều giữa bóng đêm,
Đóm bay trong cỏ, đậu lên rèm.
Ngâm đi ngâm lại nghe rất buồn thảm. Lắng nghe giọng ngâm nhỏ nhẹ uyển chuyển như tiếng con gái, lấy làm ngờ. Sáng hôm sau, nhìn ra ngoài tường chẳng thấy dấu vết một ai, duy chỉ có một dải lụa tím rơi giữa đám gai góc; Dương nhặt về đặt lên song cửa sổ. Khoảng canh hai đêm ấy lại nghe tiếng ngâm như hôm trước. Dương bắt ghế nhòm ra, tiếng ngâm im bặt, biết là ma, nhưng vẫn có lòng ái mộ. đêmsau chàng rình nấp ở mé đầu tường. Canh một gần tàn từ trong đám cỏ, có người con gái lững thững bước ra, đến vịnh tay vào một cành cây nhỏ, cúi đầu ngâm ảo não. Dương khẽ đằng hắng, cô gái vội lẩn vào đám cỏ hoang biến mất. Từ đó Dương nấp chờ dưới tường, nghe nàng ngâm xong liền từ bên này tường ngâm tiếp:
Nỗi buồn trăm mối nào ai tỏ,
Áo chiếc trăng lên, luống lạnh thêm.
Hồi lâu vẫn thấy lặng im, Dương đi vào phòng. Vừa ngồi xuống, bỗng thấy người đẹp từ ngoài đi vào, khép vạt áo nói:
- Quân tử là bậc sĩ nhân phong nhã, thế mà thiếp sợ hãi lẩn tránh.
Dương mừng, kéo áo mời ngồi, thấy nàng gầy héo lạnh buốt, dường như không mang nổi áo. Hỏi nàng quê quán nơi nào, ngụ đây đã lâu chưa?
Đáp rằng:
- Thiếp người Lũng Tây, theo cha lưu ngụ ở đây, năm mười bảy tuổi bỗng bị bạo bệnh mà chết. Đến nay đã hơn hai mươi năm rồi. Chốn cửu tuyền hoang dã lẻ loi vắng vẻ như thân cò. Lời ngâm đó là do thiếp tự nghĩ ra để gửi gắm mối sầu hận. Nghĩ lâu rồi mà chưa nối vần được, nay đội ơn chàng làm tiếp, dưới suối vàng cũng thấy lòng vui sướng.
Dương muốn cùng nàng giao hoan, nàng buồn bã nói:
- Nắm xương nát chốn dạ đài không thể ví với người sống được. Nếu làm chuyện mây mưa tăm tối sẽ làm cho người ta đoản thọ. Thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử.
Dương bèn thôi. Đùa bỡn đưa tay thăm dò trên ngực thì thấy núm vú còn hồng mào gà, rõ ràng vẫn là gái đồng trinh. Lại toan nhìn xuống đôi giày dưới quần cô gái, nàng cúi mặt cười:
- Anh chàng cuồng si này thật là phiền nhiễu.
Dương cầm lên xem, một chiếc tất gấm màu nguyệt bạch buộc bằng những sợi tơ ngũ sắc; lại nhìn chiếc bên kia thì thắt bằng dải lụa màu tím. Hỏi sau không thắt cùng một dải giống nhau thì nàng đáp:
- Đêm trước sợ chàng, chạy trốn, không biết rơi ở chỗ nào.
Dương nói:
- Để tôi tay chiếc khác cho nàng.
Nói rồi lấy trên cửa sổ xuống đưa cho cô gái. Nàng kinh ngạc hỏi ở đâu ra, chàng nhân kể lại đầu đuôi. Bèn dứt bỏ sợi tơ đi mà buộc lại bằng dải lụa. Lúc sau lật xem sách trên án, bỗng thấy tập Liên Xương Cung Từ (**) nàng thở dài:
- Lúc sinh thời thiếp thích nhât đọc sách này. Nay nhìn thấy tưởng như trong mộng.
Rồi cùng đàm đạo thơ văn, thì thông minh lanh lợi rất đáng yêu. Liền chong đèm ngồi cửa sổ hướng Tây, như gặp được người bạn tốt. Tư đó, đêm đêm hễ nghe tiếng ngâm nga khe khẽ thì lát sau nàng đã đến. Lại dặn:
- Chàng giữ kín đừng nói với ai. Thiếp nhút nhát, sợ có kẻ thô bạo đến bắt nạt.
Dương nhận lời; Hai người hoà hợp như cá với nước. Tuy không đến nỗi quá sàm sỗ, nhưng nơi khuê phòng còn nồng nàn hơn cái tình chồng kẻ lông mày cho vợ.
Nàng thường ngồi dưới đèn chép sách cho Dương, nét chữ mềm mại và ngay ngắn. Lại tự chọn một trăm bài từ trong cung (***) chép riêng ra để đọc. Nàng bảo Dương sắm bàn cờ mua đàn tỳ bà, mỗi đêm thường dạy Dương đánh cờ, nếu không chơi cờ thì dạo khúc Tiêu song linh vũ, buồn đến não lòng. Dương không thể nào nghe trọn bài ấy được, thì nàng chuyển lại chơi khúc Hiểu uyển oanh thanh, bất giáctâm hồn chàng trở nên thanh thản. Rồi khêu đèn diễn trò, vui quên cả sáng, nhìn ra ngoài song thấy ánh dương le lói mới vội vã trốn đi.
Một hôm, thư sinh họ Tiết đến thăm, gặp Dương đang ngủ ngày. Nhìn trong phòng thì bàn cờ, đàn tỳ bà còn đó, biết là những thứ mà bạn không sành. Lại giở sách xem thì thấy tập cung từ, chữ viết đẹp và ngay ngắn, càng thêm ngờ. Dương tỉnh dậy, Tiết hỏi những đồ chơi ấy ở đâu ra.
Đáp rằng:
- Đang định học đấy!
Lại hỏi đến tập thơ, Dương nói dối là mượn của nguời bạn. Tiết lật từng trang xem, thấy ở trang cuối có dòng chữ rất nhỏ: "ngày... tháng ...Liên Tỏa chép", liền cười:
- Đây là tên tự của con gái, sao giấu nhau mãi thế?
Dương bí quá không biết nói sao. Tiết càng gặn hỏi, Dương vẫn không chịu nói. Tiết kẹp quyển sách nhất định mang đi, Dương càng quẫn đành phải nói thật. Tiết xin được gặp mặt nàng. Dương nhân nhắc lại lời nàng căn dặn; Tiết càng thiết tha ngưỡng mộ hơn, Dương bất đắc dĩ phải nhận lời.
Nửa đêm cô gái đến, Dương chuyển lời cầu khẩn của bạn. Nàng nổi giận:
- Dặn anh thế nào mà lại bép xép với người khác rồi?
Dương đem hết tình thực ra nói, nàng bảo:
- Duyên phận với chàng đến đây là hết.
Dương khuyên giải bằng trăm cách, rốt cuộc nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói:
- Thiếp tạm lánh mặt họ đã.
Hôm sau Tiết đến, Dương chuyển lời nàng rằng không được. Tiết ngờ chàng thoái thác, chiều tối bèn cùng hai người bạn đồng song đến nhà Dương ở lì lại không chịu đi, cố ý quấy nhiễu làm ầm ỹ suốt đêm, khiến Dương phải thức trắng, mà vẫn chẳng có gì. Chúng thấy mấy đêm liền vẫn yên vắng, nên bụng cũng hơi khoái chí, sự huyên náo dần dần lắng xuống. Bỗng nhiên có tiếng ngâm thơ cất lên. Cả bọn cùng để ý nghe, giọng ngâm buồn não ruột. Đương lúc Tiết lằng tay chăm chú, thì một anh chàng học võ họ Vương cùng trong đám bè bạn, nhặt hòn đá to ném ra ngoài rồi nói lớn:
- Làm bộ không cho khách gặp mặt; câu thơ thậm hay lại nỉ non rầu rĩ khiến người ta buồn phiền?
Tiếng ngâm thơ tắt ngay. Mọi người đều bực tức, Dương uất quá để lộ ra cả nét mặt, lời nói. Hôm sau, cả bọn mới kéo nhau đi. Chỉ còn Dương ở một mình trong thư trai trống vắng, hy vọng cô gái lại tới nữa, nhưng tuyệt nhiên không cìn tăm dạng gì. Qua hai ngày nữa, nàng đột nhiên bước vào, khóc rằng:
- Chàng rước đám hung tợn đến nhà quát nạt làm thiếp chết khiếp.
Dương cuống quít tạ lỗi, nhưng nàng đã vội vàng đi ra, nói rằng:
- Thiếp đã nói duyên phận đã hết rồi, từ nay xin vĩnh biệt.
Dương cố níu lại thì đã biến mất. Từ hôm đó đến hơn một tháng sau, nàng không trở lại, Dương thương nhớ đến mình gầy mặt võ nhưng không làm thế nào tìm lại được nàng.
Một đêm đang uống rượu một mình, cô gái bỗng vén màn bước vào. Dương mừng quá hỏi:
- Nàng tha thứ cho tôi rồi ư?
Cô gái nước mắt lã chã, lặng lẽ không nói một lời. Gạn hỏi mãi, nàng định nói lại thôi, chỉ đáp:
- Giận dỗi bỏ đi, bây giờ có việc khẩn cấp lại phải đến năn nỉ, thật khó tránh khỏi hổ thẹn.
Dương hỏi đi hỏi lại đôi ba phen, mới nói:
- Có một đêm nha lại cục súc không biết ở nơi nào đến, buộc thiếp nhận làm vợ lẽ hắn. Nghĩ mình con nhà thanh bạch, không lẽ chịu khuất thân làm vợ con quỷ hèn hạ đó. Nhưng tấm thân yếu đuối kháng cự sao được. Nếu chàng có lòng liệt thiếp vào hàng cầm sắc, ắt không để mặt thiếp sống chết thế nào cũng được.
Dương giận quá, phẫn uất muốn chết. Song nghĩ kẻ sống người chết hai đàng khác nhau khó mà dùng sức được. Nàng dặn:
- Đêm mai đi ngủ sớm, thiếp sẽ đón chàng trong giắc mộng.
Thế rồi cùng nhau trò chuyện, ngồi lại đợi sáng. Trước khi đi, nàng dặn ban ngày chớ có ngủ(****) chờ giữ đúng lời hẹn vào đêm. Dương nghe theo. Buổi chiều chàng uống một chút rượu, nhân lúc chếnh choáng lên giường để nguyên áo xống mà nằm. Bỗng thấy cô gái đến, đưa cho con dao rồi cầm tay dắt đi. Đến một trang viện, vừa mới khép cửa trò chuyện, đã nghe có nguời cầm đá đập vào cánh cửa ầm ầm. Cô gái sợ hãi bảo:
- Kẻ thù đến rồi.
Dương mở cửa lao ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu tua tủa quanh mồm như lông nhím, liền nổi giận quát mắng. Kẻ kia trợn mắt nhìn lại, lời lẽ hung hăng ngạo mạn. Dương càng giận đuổi hắn đi, nhưng tên nha lại nhặt đá ném rào rào như mưa, trúng cổ tay Dương, Dương không thể cầm dao được nữa. Đang lúc nguy cấp, trông xa thấy một người lưng đeo cung tên đi săn giữa đồng. Nhìn kỹ thì ra chàng võ sinh họ Vương, bèn gọi cầu cứu. Chàng Vương giương cung chạy tới, bắn một phát trúng đùi tên nha lại, bồi thêm nhát nữa y lăn ra chết. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi nguyên do, chàng kể sự tình. Vương cũng lấy làm mừng đã chuộc lỗi cũ, bèn cùng tới nhà cô gái. Nhưng nàng sợ hãi thẹn thùng, chỉ đứng xa không nói một lời. Trên thư án có con dao nhỏ dài chừng hơn một thước, khảm vàng, dát ngọc, rút ra khỏi vỏ thì sáng loáng như gương. Vương tấm tắc khen mãi, không nỡ rời tay. Cùng Dương chuyện trò thấy cô gái e ấp thật tội nghiệp, Vương liền bỏ ra, chia tay mỗi người một ngã.
Dương cũng trở về, trèo lên giường ngã sóng soài. Vừa hay giật mình tỉnh dậy, nghe trong thôn gà đã gáy ran. Chợt cảm thấy cổ tay đau nhói, sáng sớm nhìn xem thì da thịt vẫn còn tấy đỏ. Giữa trưa chàng Vương đến, nhân nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương nói:
- Có phải mơ thấy bằn cung không?
Vương lấy làm lạ sao bạn lại biết trước như vậy, Dương bèn đưa cổ tay cho xem, kể lại rõ nguyên do. Vương nhớ lại nhan sắc người đẹp trong mộng, chỉ hận rằng không được trông thấy người thật. Lại lấy làm may đã có chút công lao với nàng nên một lần nữa xin cho được thấy dung nhan. Đêm đến nàng tới cảm ơn. Dương nói công của Vương, rồi đạo đạt ý của bạn. Nàng đáp:
- Công lao giúo đỡ nghĩ chẳng dám quên, nhưng anh ta dáng dấp hùng dũng, thực lòng thiếp sợ lắm!
Lát sau lại nói:
- Anh ta thích thanh bội đao của thiếp. Thanh đao ấy vốn thực cha thiếp mua ở Việt Trung, giá một trăm đồng vàng. Thiếp thích nên mới được giữ, lại tết bằng dây kim tuyến, dát bằng ngọc minh châu. Phụ thân thương thiếp chết yểu, chôn nó theo. Nay xin dứt lòng yêu thích đưa tặng. Thâý đao cũng như thấy thiếp vậy.
Hôm sau Dương nói lại ý nàng, Vương thích lắm. Đêm đến cô gái quả mang đao lại, dặn:
- Bảo anh hãy trân trọng giữ gìn. Đao này không phải là sản vật của Trung Hoa đâu.
Từ đấy nàng lại tới lui như xưa.
Được vài tháng, bỗng một hôm nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như muốn nói điều gì, nhưng đôi ba phen đỏ mặt lại thôi. Chàng hỏi thì đáp:
- Ơn chàng yêu thương đã lâu, thiếp được tiếp hơi người sống, hằng ngày lại ăn thức ăn nấu nướng, nên bộ xương trắng lại có cơ hồi sinh. Song cần có tinh huyết của người sống nữa mơí có thể sống lại được.
Dương cười đáp:
- Tại nàng không chịu, chứ tôi nào có tiếc gì.
Nàng nói:
-Sau khi chung đụng chàng tất bị ốm nặng trong hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc vào sẽ khỏi.
Bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi mặc áo ngồi dậy, lại nói:
- Cần một giọt máu tươi. Chàng có thể vì yêu mà chịu đau được không?
Được. Lấy con dao sắc chích vào cánh tay cho chảy máu. Cô gái nằm trên giường bảo nhỏ vào rốn. Rồi ngồi dậy dặn:
- Thiếp không đến nữa. Chàng nhớ tính đủ kỳ hạn trăm ngày, hễ có con chim xanh đậu trên ngọn cây trước mộ thiếp kêu lên mấy tiếng thì phải đào mộ ngay.
Dương cẩn thận ghi nhớ lời dặn. Bước ra cửa rồi, nàng còn nghoảnh lại bảo:
- Hãy nhớ kỹ đừng quên nhé, sớm hay muộn đều không thể được!
Nói rồi ra đi. Hơn mườn ngày sau Dương quả ốm nặng, bụng trướng lên tưởng chết. Thầy lang cho thuốc uống, chàng đi ngoài ra những chất đen nhão như bùn, đúng muời hai hôm thì khỏi.
Tính đúng một trăm ngày, chàng sai người nhà vác mai thuổng ra đợi sẵn. Khi mặt trời sắp lặn, quả thấy con chim xanh kêu hai tiếng. Dương mừng nói:
- Được rồi!
Bèn phát gai góc, đào mộ. Thấy quan quách đã nát mà nét mặt vẫn tươi như người sống, sờ vào còn ấm. Trùm áo mang về, đặt chỗ nằm ấm áp, nghe có hơi thở thoảng nhẹ, mảnh như sợ tơ. Dần dần đổ cháo nóng cho, nửa đêm thì tỉnh hẳn.
Vẫn thường bảo Dương rằng:
- Hai mươi năm mà như một giấc mộng vậy.
Chú thích
(*) sông Tứ Thủy : thuộc huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông.
(**)Liên xương cung từ : tập thơ của Nguyên Chẩn (778-831) nhà thơ đời Đường.
(***) Nguyên văn : "cung từ" là những bài thơ chuyên vịnh các việc lặt vặt trong cung cấm, nhất là về số phận người cung nữ.
(****) Có bản chép : "ban ngày phải ngủ"
Trần Thị Băng Thanh dịch
Chuyện 48: Hoa Cô Tử
An Ấu Dư đỗ khoa bạt cống (*) là người ở Thiểm Tây. Tính chuộng nghĩa, hay vung tiền vì người khác, lại thích phóng sinh, gặp ai săn được chim đều không ngại giá cao, mua lấy rồi thả ra.
Gặp lúc nhà ông cậu có tang, chàng đến giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc lối quẩn quanh trong núi, lòng rất lo sợ. Chợt thấy cách một quãng xa chừng mũi tên bắn có ánh đèn, bèn xăm xăm đi lại. Được mấy bướcbỗng thấy một cụ già lưng còng kéo lê gậy, băng đường tắt đi tới rất mau. An dừng chân toan hỏi thăm thì cụ già đã hỏi trước chàng là ai. An thưa là lạc lối và nói chỗ có ánh đèn kia hẳn là xóm núi, định đến ngủ nhờ.
Cụ già bảo:
- Đấy không phải là nơi yên ổn đâu. May gặp lão đây, hãy theo về, nhà tranh cũng xếp được nơi nghỉ cho ngài.
An mừng quá, đi theo chừng một dặm tới một xóm nhỏ. Ông già gõ vào cửa phên, một bà già ra mở cửa chào hỏi:
- Ông nó đã về đấy à?
Ông già đáp:
- Phải.
An bước vào thấy nhà thấp mà hẹp. Cụ già khêu đèn giục chàng ngồi rồi bảo có gì thì bày lên mời khách. Lại bảo với cụ bà:
- Ông đây không phải ai khác, chính là ân nhân của nhà ta đó. Bà đi lại không thuận, hãy gọi Hoa Cô Tử ra lọc rượu đi.
Lát sau một cô gái bưng mâm bát vào rồi đứng cạnh ông cụ liếc mắt nhìn chàng. An nhìn lại thấy nàng nhỏ tuổi mà xinh đẹp như tiên. Ông già nghoảnh lại sai hâm rượu. Phía Tây phòng trong có lò than, cô gái vào đó cời lửa. An hỏi:
- Cô đó là người thế nào với cụ!
Cụ già đáp:
- Lão họ Chương, bảy chục tuổi đầu chỉ có một mụn con gái đó thôi. Nhà nông ít tôi tớ, lại vì ngài không phải là ai khác lạ, cho nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, mong chớ chê cười!
An lại hỏi:
- Nhà chồng cô em ở làng nào?
Cụ gìa đáp:
- Còn chưa có ai.
An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh. Cụ già vừa mới ngỏ ý khiêm nhường bô4ng nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì rượi sôi lửa bốc. Cụ giập tắt xong, mắng:
- Lớn chừng ấy, rượu trào ra không biết à?
Ngoái lại thấy bên cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô (**) ghép bằng ruột cây quỳ còn dở dang, ông già lại mắng:
- Tóc bồng bồng chừng ấy mà còn như con nít.
Bèn cầm lên cho An xem và nói:
- Nó mải làm cái trò kiếm ăn này để cho rượu sôi trào lên. Được ngài quá khen, há chẳng thẹn chết đi được ư?
An ngắm nghía thấy mắt mày xiêm áo làm rất tinh xảo, bèn khen:
- Tuy tựa đồ chơi trẻ nhỏ nhưng cũng cho thấy em nhà rất sáng dạ.
Chuốc chén giờ lâu, cô gái nhiều lần ra rót rượu, mỉm miệng cười tươi không ngượng ngùng chút nào. An nhìn chăm chú, xao xuyến tâm tình. Bỗng nghe bà cụ gọi, ông lão bèn đi vào. An thấy không có ai, bảo cô gái:
- Em đẹp quá khiến tôi mất cả hồn vía. Muốn nhờ mối lái, nhưng sợ việc không thành, ý em thế nào?
Nàng lẳng lặng ôm hồ rượu, tới bên lò, dường như không nghe tiếng. Hỏi mấy lần đều không đáp, chàng bèn vào buồng. Cô gái đứng phắt dậy nghiêm mặt nói:
- Ông khùng này vào buồng định làm gì thế?
An cứ quì nài nỉ mãi, nàng định đi nhanh tới cửa định ra ngoài. Chàng vụt đứng lên chắn lối, ôm chầm lấy, hôn vào miệng vào môi. Nàng run rẩy gọi to lên, ông già vội vàng chạy vào hỏi. An buông tay bước ra, vừa thẹn vừa sợ. Nhưng cô gái thong dong thưa với cha:
- Rượu lại sôi trào, nếu ông đây không vào thì tiêu tan cả hồ rượu rồi.
An nghe nàng nói như thế trong lòng mới yên, càng cảm ơn nàng, hồn phách đảo điên, mất cả ý định ban nãy. Bèn vờ say rời chiếu rượu, cô gái cũng bỏ ra ngoài. Ông già trải chăn nệm xong, đóng cửa rồi ra nốt. An không ngủ được, trời chưa sáng đã gọi ông cụ từ biệt.
Về đến nhà, chàng lập tức nhờ bè bạn thân tới nhà cô gái cầu hôn, nhưng mất cả ngày rồi về mà không tìm được xóm nhà đâu cả. An bèn sai người hầu thắng yên cương tự tìm đường đi đến. Đến nơi chỉ thấy vách núi cao ngất, chẳng có xóm làng nào. Hỏi thăm các thôn xóm gần quanh thì chẳng có mấy ai họ Chương . Chàng thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đấy mắc chứng ngẩn ngơ, cố ép húp tí nước cháo thì nôn naomuốn mửa. Trong cơn mê sảng cứ gọi tên Hoa Cô Tử, người nhà chẳng hiểu ra sao, đành suốt đêm đứng quanh theo dõi, thế xem ra muốn nguy. Một đêm, người canh mỏi mệt ngủ cả, chàng lờ mờ thấy có người đụng vào mình, hé mắt nhìn thì Hoa cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác thần khí tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chăm chú, hai hàng nước mắt muốn trào rơi. Nàng nghiêng đầu cười bảo:
- Anh si tình sao đến nông nỗi này?
Bèn trèo lên giường, ngồi lên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An cảm thấy mùi xạ hương thơm lạ lùng, xộc vào mũi thấm tận xương. Day một lúc, bỗng trên sống mũi đổ mố hôi, dần dần lan tới chân tay mình mẩy. Nàng khẽ nói:
- Trong nhà đông người em không tiện ở lại. Ba ngày nữa em lại đến thăm.
Lại lấy trong ống tay áo thêu ra mấy cái bánh hấp đặt ở đầu giưòng rồi lẳng lặng ra đi. Đến nửa đêm, An toát hết mồ hôi, thấy thèm ăn, bèn quờ bánh mà ăn. Không biết bánh bao nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái, rồi lấy áo đậy lên chỗ bánh còn lại, thiêm thiếp ngủ say, đến sáng bảnh mới tỉnh giấc, như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái, bèn cho ngươì nhà tản đi hết; sợ nàng đén không vào được cửa, bèn lẻn ra mảnh sân ăn thông vào thư phòng mở hết then khóa. Lát sau, quả nhiên nàng đến, cười nói:
- Anh chàng si tình kia không tạ ơn bà lang à?
An mừng quá, ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Sau đó cô gái nói:
- Thiếp mạo hiểm chịu nhơ là vì cớ báo đền ơn sâu đó thôi, thực không thể vui hòa cầm sắc dài lâu, xin chàng sớm lo nơi chốn khác.
An nín lặng hồi lâu mới hỏi:
- Vốn không rõ bình sinh đã từng giao tiếp với gia đình nàng ở đâu, quả thực không nhớ nữa.
Cô gái không chịu nói, chỉ bảo:
- Chàng tự nghĩ thì biết.
An cố nài xin được gắn bó dài lâu, nàng đáp:
- êm nào cũng trốn đi thì hẳn không được rồi, mà mãi mãi vui vầy lứa đôi cũng không được nốt.
An nghe nói rầu rầu buồn bã, cô gái bèn bảo:
- Nếu muốn nên việc, đêm mai mời chàng đến nhà thiếp.
An bèn đổi buồn thành vui, hỏi:
- Đường sá xa xôi, bước chân em nhỏ bé thế kia, sao tới được đây?
Nàng đáp:
- Thiếp đã về nhà đâu. Bà điếc ở xóm Đông này là bà dì của thiếp. Vì chàng mà thiếp nấn ná đến nay, sợ ở nhà nghi ngại.
An chung chăn với nàng chỉ thấy từ hơi thở đến thịt da, không chỗ nào không thơm,bèn hỏi:
- Nàng xức thứ dầu thơm gì mà thấm cả vào xương thịt thế?
Nàng đáp:
- Thiếp sinh ra đã như thế rồi, không phải do xức dầu thơm đâu.
An càng lấy làm lạ. Nàng dậy sớm từ biệt, An sợ mình lạc đường, nàng hẹn sẽ đứng chờ bên đường. Đến chiều tối An phóng ngựa đi, quả nhiên nàng đón đợi, cùng đi tới chốn cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu chẳng c1 món gì ngon, chỉ toàn những món rau tạp, ăn xong mời khách đi nghỉ. Cô gái chẳng ngó ngàng gì đến, An càng nghi ngại. Canh khuya nàng mới đến, nói:
- Cha mẹ rì rầm mãi không ngủ khiến chàng vất vả chờ đợi lâu.
Hai người quấn quít suốt đêm, rồi nàng mới bảo An:
- Gặp đêm nay để rồi xa cách trăm năm đấy.
An sửng sốt hỏi lại, nàng đáp:
- Cha thiếp thấy xóm này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời đi xa. Sum vầy với chàng đêm nay là hết.
An không nỡ buông nàng ra, thở than buồn bã. Trong lúc bịn rịn màn đêm dần tan, ông già bỗng sồng sộc bước vào mắng:
Con ranh, làm nhơ nhuốc cửa nhà thanh sạch khiến tao xấu hổ muốn chết.
Cô gái tái mặt vội vội vàng vàng chạy mất. Ông già cũng ra theo, vừa đi vừa chửi mắng con. An kinh sợ cuống quít, không còn biết làm thé nào đành lẻn trốn về nhà. Mấu ngày bồi hồi, trong lòng bức rứt không yên, nhân nghĩ rằng đến đêm lần tới đó, trèo tường vào xem sao. Ông cụ đã nói ta có ơn với họ, thì dù việc có bại lộ chắc cũng không khiển trách quá nặng nề. Bèn thừ lúc đêm tối cấ lẻn ra đi. Chàng lần mò giữa núi,, lạc lối chẳng biết đường nào. Sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hẻm núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đến nơi thấy tường cao cổng rộng tựa nhà thế gian, mấy lớp cử vào còn chưa đóng. Chàng hỏi thăm người gác cổng về nhà họ Chương. Có cô hầu áo xanh ra hỏi:
- Đêm hôm ai hỏi thăm nhà họ Chương thế?
An đáp:
- Đó là người quen thân với tôi, tự nhiên lạc mất lối đến nhà.
Cô hầu nói:
- Ông không phải hỏi họ Chương nữa. Đây là nhà mợ của cô ấy, Hoa Cô hiện đang ở đây, để tôi báo với cô ấy.
Cô hàu vào một lát rồi trở ra mời An vào. Vừa mới bước vào hành lang, Hoa Cô đã bước nhanh ra đón, rồi bảo cô hầu:
- Chàng An xuôi ngược đêm hôm hẳn đã mệt mỏi, hãy sửa soạn chỗ ngủ đi!
Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi:
- Nhà mợ sao không còn ai khác nữa?
Cô gái đáp:
-Mợ đi vắng để thiếp lại trông nhà. May được gặp chàng, há không phải có duyên số từ trước hay sao?
Nhưng trong lúc tựa kề bên nhau, An thấy mùi rất tanh hôi, lòng ngờ có điều lạ. Nàng ôm lấy cổ An, thè ngay lưỡi liếm vào lỗ mũi, như mũi kim đâm buốt lên tận óc. An sợ quá chỉ muốn trốn thoát nhưng thân thể như bị dây chão trói chặt, giây lát băn bặt thiếp đi.
An không về, người nhà tìm hết những nơi có thể tìm được. Có người mách một chiều tối gặp An trên đường vào núi. Người nhà bèn vào núi, tìm thấy chàng trần truồng nằm chết dưới chân vách núi cao, lạ lùng kinh sợ chẳng rõ nguyên do, khiêng về nhà. Cả nhà xúm lại than khóc thì có một cô gái đến viếng, từ ngoài cửa gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi, nước mắt rỏ ròng ròng, rồi kêu to:
- Trời ôi! Trời ôi! Sao lại ngu muội đến thế?
Nàng đau đớn kêu khóc khản cả tiếng, một lúc sau mới nguôi, bảo với người nhà:
- Xin để đó bảy ngày đừng liệm vội!
Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì nàng không chào hỏi gì hết, chỉ nuốt nước mắt lừng lững đi ra, giữ lại cũng không thèm nghoảnh mặt. i theo dấu chân, chớp mặt đã không thấy đâu nữa. Ai nấy ngờ là thần, kính cẩn vâng theo lời dặn. Đêm, nàng lại đến khóc như ngày hôm trước. Đến đêm thứ bảy, An bông hồi tỉnh, trở mình ren rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào ngẹn ngào nhìn chàng. An giơ tay vẫy bảo mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ tươi, nấu với chừng một đấu nước rồi cho uống ngay trên giường. Lát sau An nói được, thở dài bảo nàng:
- Giết chết tôi lần nữa là nàng mà tái sinh tôi cũng là nàng đấy!
Nhân đó kể lại những chuyện đã gặp. Nàng bảo:
- Con yêu rắn giả mạo làm thiếp đó. Hôm chàng lạc lối đầu tiên nhìn thấy ánh đèn chính là của nó đấy!
An hỏi:
- Sao nàng có thể làm cho người chết hồi sinh, xương khô mọc được thế? Chẳng phải là tiên ư?
Cô gái đáp:
- Bấy lâu nay định nói nhưng lại e chàng kinh lạ. Năm năm trước đây, trên đường núi Hoa Sơn, chàng từng mua lại con chương săn được rồi thả ra, có phải thế không?
An đáp:
- Đúng, có việc đó.
Nàng bảo:
- Con chương ấy là cha thiếp. Trưóc đây thiếp nói ơn lớn chính là về cớ đó. Hôm mới rồi chàng đã đầu thai vào nhà ông ph3 chính họ Vương ở thôn Đoài, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương, nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp tình nguyện hủy đạo để chết thay cho chàng, nài nỉ đến bảy ngày mới nên việc. Buổi gặp gỡ hôm nay là may mắn lắm. Nhưng chàng tuy sống lại vẫn bị tê liệt, phải lấy được máu rắn ấy hoà với rượu mà uống thì bệnh mới khỏi hẳn.
An nghiến răng căm giận nhưng lo nghĩ không có phép gì bắt được nó. Cô gái bảo:
- Không khó đâu. Có điều giết nhiều sinh mạng sẽ để lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ ấy, vào lúc xế trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài phòng bị thêm nỏ cứng ắt bắt được con yêu ấy.
Nói xong, nàng từ biệt rằng:
- Thiếp không thể hầu chàng mãn đời, thực rất đau buồn. Nhưng vì cứu chàng mà sự nghiệp tổn thất hết bảy phần rồi, xin chàng thương xót dùm thiếp. Một tháng nay nghe máy trong bụng, chắc là nghiệt căn. Con trai hay con gái, sang năm sẽ gửi cho chàng.
Rồi rơi lệ mà ra đi. Qua đêm ấy, An thấy từ thắt lưng trở xuống như chết rồi, cấu vét cũng không biết đau, bèn đem lời cô gái dặn bảo với người nhà. Người nhà tới nơi, hun đốt hang như lời nàng. Có con rắn trắng lớn xông qua lửa trườn ra, bị cung nỏ bắn một loạt giết được. Lửa cháy vào hang, rắn lớn rắn bé mấy trăm con đều chết cháy, mùi tanh nồng mũi. Người nhà ra về, đưa máu rắn cho An. Chàng uống ba ngày, hai chân dần dần có thể xoay trở, nửa năm mới đứng lên được.
Sau đó,một mình vào núi, gặp bà già ôm đứa trẻ quấn tã cói trao cho, bảo rằng:
- Con gái già gửi cho chàng đây.
An toan hỏi thăm, loáng đã không thấy đâu nữa. Giở tã ra xem thì là trai. Chàng bế về nhà, rồi suốt đời không lấy ai nữa.
Chú thích
(*) bạt cống: Tên một khoa thi đời Thanh. Cứ 12 năm một lần, quan học chính đề bạt những người học giỏi lên kinh, triều đình khảo hạch xong, tùy hạng đỗ mà trao chức.
(**) nữ thần Tử Cô : Tên mộ cô gái làm lễ nhà người, bị vợ cả ghen, chết vào ngày rằm tháng giêng. Dân thờ làm thần, đón vào ngày rằm tháng giêng để bói việc tằm tang và nhiều việc khác.
Phạm Tú Châu dịch
Nguồn: http://www.sahara.com.vn/