20/3/13

Sáng, trưa, đêm (C11-12)

Chương 11



SÁNG


Julia Stanford chưa bao giờ gặp mặt cha. Nay thì ông đã chết, co lại thành một hàng tít đen trên tờ Kansas City Star: NHÀ TÀI PHIỆT HARRY STANFORD CHẾT ĐUỐI NGOÀI KHƠI!
Nàng ngồi bất động nhìn vào trang nhất tờ báo với những dòng tình cảm lẫn lộn. Mình hận ông ấy đã đối xử tàn tệ với mẹ mình hay mình yêu ông ấy vì đấy là cha mình? Lìệu mình có lỗi vì đã không thử liên lạc với ông ấy dù chỉ một lần không, hay mình nên giận ông ấy vì đã khôngbao giờ tìm cách liên lạc với mình? Chuyện ấy giờ đây chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Ông ấy đã ra đi.
Cha nàng đã chết trong nàng suốt những năm qua, nay ông ta lại chết thêm một lần nữa khiến cho nàng không còn gì để nói. Tuy vậy, nàng vẫn cảm thấy mất mát một cách không lí giải được. Rõ là ngớ ngẩn!
Làm sao có thể thương nhớ một người mình chưa bao giờ gặp mặt được? Nàng nhìn lại bức ảnh trong tờ báo. Mình có chứa đựng cái gì của ông ấy không đấy.
Julia nhìn xoáy vào gương. Đôi mắt. Mắt mình cũng nâu và xám như mắt ông…
Nàng ngồi xuống mép giường và mở cái hộp của mẹ ra. Trong hai tiếng liền nàng nhìn ngắm những kỷ vật trong đó. Có vô số ảnh của mẹ trong trang phục gia sư chụp chung với Harry Stanford và Emily Stanford cùng với ba đứa con của họ. Phần lớn ảnh đều được chụp trên du thuyền, ở biệt thự Rose Hill hoặc ở biệt thự Hobe Sound.
Julia cầm lên những mảnh cắt các bài báo đã úa màu thời gian về vụ scandal xảy ra từ bao nhiều năm trước ở Boston. Các hàng tít tuy đã phai màu song vẫn âm vang một cách rùng rợn:
TỔ ẤM TÌNH YÊU TRUỚC CUỒNG PHONG.
TỈ PHÚ HARRY STANFORD DÍNH SCANDAL.
VỢ NHÀ TÀI PHIỆT TỰ TỬ VÌ CÔ GIA SƯ.
ROSEMARY NELSON BIẾN MẤT.
Có hàng chục những cột báo viết đầy những chuyện ngồi lê đôi mách nhảm nhí.
Julia ngồi lặng yên, chìm trong suy tưởng.
Nàng sinh tạỉ bệnh viện St. Joseph ở Milwaukee.
Hồi ức về tuổi thơ ấu của nàng là một cuộc sống trong những căn hộ ổ chuột, chưa ấm chỗ ở thành phố nầy đã phải lên đường đến một thành phố khác.
Có những lúc mẹ nàng không còn một xu dính túi và thậm chí ăn còn chẳng đủ no. Bà ốm triền miên nên không tìm nổi một việc làm ổn định. Cô con gái bé nhỏ nhanh chóng nhận thấy tình cảnh nên chẳng bao giờ dám vòi mẹ quần áo mới hoặc đồ chơi.
Julia đến trường lúc lên năm. Bạn cùng lớp không ngớt chế giễu cô bé bởi ngày nào cô bé cũng chỉ mặc độc một bộ đồ tã. Khi bị bọn trẻ trêu chọc, Julia đánh lại. Cô bé có máu nổi loạn trong người nên thường xuyên bị đưa lên văn phòng hiệu trưởng để nghe khiển trách. Các thầy cô giáo không biết phải làm gì với Julia. Gần như lúc nào cô bé cũng có vấn đề. Đáng lẽ thì nhà trường đã đuổi học, song vì Julia là đứa trẻ học khá nhất lớp nên người ta còn nương tay.
Mẹ Julia nói với cô bé rằng cha nó đã chết, và Julia tin như vậy. Song khi lên mười hai, cô bé đã mở quyển album của mẹ ra xem và thấy một loạt ảnh mẹ mình chụp với những người lạ.
- Họ là những ai thế hả mẹ? - Julia hỏi.
Rosemary thấy Julia đã khôn lớn bèn quyết định nói cho con gái biết sự thật.
- Con ngồi xuống đây. - Bà nắm chặt lấy tay Julia. Không có cách gì tung cái tin ra êm thấm cả. - Họ là cha con, chị và hai anh trai cùng cha khác mẹ của con.
Julia nhìn bà bối rối:
- Con không hiểu.
Sự thật cuối cùng đã được nói ra và làm cô bé choáng váng. Cha nó vẫn còn sống! Và nó có một người chị và hai người anh. Việc nầy vượt ra ngoài sức tưởng tượng của nó.
- Sao… sao mẹ lại nói dối con?
Mẹ sợ con còn nhỏ quá nên không hiểu được chuyện. Mẹ và cha con… đã có một cuộc tình. Lúc đó ông ta đã có vợ. Tình thế buộc mẹ phải ra đi để giữ lấy con.
- Con căm thù ông ta!
Con không nên căm thù ông ta.
- Làm sao ông ta có thể làm một việc như vậy với mẹ? - Julia chất vấn.
- Thực ra thì cả mẹ lẫn ông ta đều có lỗi như nhau. - Mỗi từ bà thốt lên đều đau đớn như một nhát dao. - Cha con là một người đàn ông quá hấp dẫn, còn mẹ thời đó thì còn trẻ và nhẹ dạ quá. Mẹ biết cuộc tình đó sẽ chẳng dẫn đến đâu. Ông ta nói ông ta yêu mẹ… nhưng ông ta đã có gia đình. Và… và rồi mẹ có thai.
Bà cảm thấy khó mà kể tiếp câu chuyện.
- Một nhà báo chộp được mẩu tin đã tung ra trên tất cả các báo. Mẹ bỏ trốn. Mẹ dự tính sẽ quay lại với ông ta khi con ra đời, nhưng rồi vợ ông ta đã tự tử, và mẹ… mẹ không còn đủ can đảm để đối mặt với bọn trẻ nữa. Con thấy đấy, là lỗi của mẹ. Bời thế mẹ không oán trách ông ta.
Song còn một phần nữa của câu chuyện mà Rosemary không tiết lộ ra với con gái mình. Lúc đứa trẻ chào đời, hộ lí bệnh viện hỏi,
- Chúng tôi đang làm giấy khai sinh cho đưa bé. Tên nó là Julia Nelson?
Rosemary toan gật đầu thì nghĩ lại: Không! Nó là con gái của Harry Stanford. Nó phải được mang họ cha và được sự giúp đỡ của ông ta.
- Tên con gái tôi là Julia Stanford.
Bà gửi thư báo tin Julia ra đời cho Harry Stanford biết song đã không nhận được một lời phúc đáp nào.
Julia cảm thấy phấn kích khi biết mình cũng có một gia đình, tuy chưa được gặp bất cứ ai, và việc gia đình cô nổi tiếng đến mức được báo chí viết đến.
Cô tới thư viện và tìm mọi thông tin có thể có về Harry Stanford. Có cả chục bài viết về ông. Ông là một nhà tỉ phú, và ông sống trong một thế giới khác, cái thế giới mà Julia và mẹ nó không được phép bén mảng tới bao giờ.
Một ngày, khi bọn trẻ trong lớp chế giễu nó nghèo, Julia đã nói:
- Tao không nghèo! Cha tao là một trong những người giầu có nhất thế giới. Nhà tao có một cái du thuyền, một máy bay và hàng chục toà nhà đẹp.
Cô giáo nó nghe thấy.
- Julia, em đi lên đây.
Julia đi đến trước bàn cô giáo.
- Em không được nói dối như vậy.
- Em không nói dối, - Julia cãi lại. - Cha em là một nhà tỉ phú! Ông ấy quen biết các quốc vương và tổng thống!
Cô giáo nhìn Julia bé nhỏ và tiều tuỵ trong bộ quần áo bạc màu đứng trước mặt mình, nói:
- Julia, điều đó không phải là sự thật.
- Đó là sự thật, - Julia vẫn khăng khăng một cách bướng bỉnh.
Cô bé bị gọi lên phòng hiệu trưởng. Từ đó nó không bao giờ dám nhắc tới cha mình ở trường nữa.
Julia hiểu ra rằng lí do khiến mẹ nó không dám ổn định chỗ ở là vì bà sợ báo chí. Harry Stanford xuất hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin, và cùng với ông là những lời đồn đại mà báo chí có được về vụ scandal đã qua. Các phóng viên điều tra cuối cùng sẽ tìm thấy Rosemary Nelson, bởi thế cách duy nhất là bà phải cắp theo Julia chạy trước.
Julia đọc tất cả các bài báo viết về Harry Stanford, và mỗi lần như vậy cô bé lại muốn gọi điện cho ông.
Cô bé muốn tin rằng trong suốt những năm qua ông đã không ngớt tìm kiếm tung tích hai mẹ con. Mình sẽ gọi điện và nói: "Con gái của cha đây. Nếu cha muốn gặp mẹ và con…"
Và ông sẽ đến với cả tâm tình, rồi cưới mẹ nó, rồi mọi người lại sống với nhau hạnh phúc.
Julia Stanford lớn lên thành một cô gái đẹp. Nàng có mái tóc đen bóng mượt, cái miệng phóng khoáng, tươi cười đôi mắt như có ánh lân tinh và một thân hình với những đường cong mềm mại. Nhưng khi nàng nhoẻn cười thì người ta quên hết tất cả, chỉ còn đọng lại mỗi nụ cười của nàng thôi.
Vì hai mẹ con phải thay đổi chỗ ở thường xuyên nên Julia phải qua tới năm bang khác nhau mới học xong phổ thông trung học. Những dịp nghỉ hè nàng phải làm thêm tại các cửa hiệu hay ngồi bàn lễ tân ở các văn phòng. Nàng luôn là người tự lập.
Khi Julia tốt nghiệp đại học với học bổng thì hai mẹ con đang sống ở Kansas City. Nàng chưa biết phải làm gì với cuộc đời ở phía trước. Bạn bè, ngưỡng mộ trước sắc đẹp của nàng, khuyên nàng nên theo nghề điện ảnh để trở thành một minh tinh.
- Với nhan sắc và trí thông minh của cậu thì chỉ sau một đêm lả cậu thành ngôi sao?
Julia gạt bỏ ý tưởng đó và đùa:
- Có ai muốn sáng nào cũng phải dậy sớm đâu.
Song lí do thực khiến nàng không mấy hứng thú với nghề đó là khát vọng có một cuộc sống riêng kín, không bị quấy nhiều của nàng. Hai mẹ con chịu cái cảnh lang thang lưu lạc vì phải trốn tránh báo chí như vậy đã quá đủ.
Giấc mơ bố mẹ đoàn tụ của Julia chấm dứt khi mẹ nàng qua đời. Julia cảm thấy một nỗi mất mát không chịu đựng nổi. Cha mình phải biết chuyện nầy mới được, Julia nghĩ bụng. Mẹ là một phần của cuộc đời cha. Nàng giở danh bạ điện thoại và quay số máy văn phòng của ông ở Boston.
- Xin chào, đây là trụ sở của ông Stanford Enterpises.
Julia ngập ngừng.
- A lô, trụ sở của Stanford Enterprises đây. Tôi có thể giúp gì quí vị?
Julia chậm rãi bỏ máy xuống. Ở dưới suối vàng hẳn mẹ không muốn mình có cuộc gọi nầy.
Giờ đây nàng hoàn toàn cô độc. Nàng chẳng có ai trên đời nữa cả.
Julia an táng mẹ tại nghĩa địa Memonal Park ở Kansas City. Không có ai đi đưa tang ngoài nàng.
Julia đứng bên mộ mẹ và thầm nói với bà: Mẹ ơi như thế nầy thật bất công cho mẹ quá. Mẹ đã chỉ phạm một sai lầm song phải trả giá cho nó suốt cả cuộc đời. Con chỉ mong gánh chịu giúp mẹ được một phần nỗi đau. Con yêu mẹ nhiều lắm, mẹ ạ. Và con sẽ yêu mẹ suốt đời. Tất cả những gì bà mẹ quá cố đã để lại là một hộp đựng đầy những bức ảnh và những mảnh báo cắt đã phai mầu.
Khi mẹ đã ra đi, ý nghĩ của Julia hướng về gia đình Stanford ngày một nhiều hơn. Họ giầu. Nàng có thể tìm đến họ để được giúp đỡ. Không bao giờ, nàng cương quyết gạt ý định đó ra. Không thể làm như vậy khi Harry Stanford đã đối xử với mẹ mình bạc bẽo thế kia.
Nhưng nàng phải kiếm sống. Nàng đối mặt với sự lựa chọn con đường công danh, sự nghiệp. Hay mình làm một nhà phẫu thuật não?
Một hoạ sĩ chăng?
Hay một ca sĩ opera?
Một nhà vật lí?
Một nhà du hành vũ trụ?
Nàng bèn đi học thêm khoá đào tạo thư kí ở một trường cao đẳng của Kansas City. Một ngày sau khi nhận chứng chỉ khoá học, nàng tìm đến một đại lí giới thiệu việc làm. Có hơn một chục ứng viên đang chờ. Ngồi cạnh Julia là một cô gái đẹp, trạc tuổi nàng.
- Chào cậu. Tớ là Sally Connos.
- Julia Stanford.
- Tớ phải kiếm được việc làm trong ngày hôm nay, - Sally rên rỉ nói. - Tớ bị tống cổ khỏi căn hộ đang thuê rồi.
Julia nghe tiếng người ta gọi tên mình.
- May mắn nhé!- Sally nói.
- Cám ơn.
Nàng bước vào văn phòng bà giám đốc.
- Mời cô ngồi. Cô khai trong hồ sơ xin việc rằng cô có học vấn đại học và một vài kinh nghiệm làm việc trong các dịp nghỉ hè. Và cô được trường thư kí đánh máy đánh giá rất cao. - Bà nhìn tập hồ sơ trên bàn. - Cô có thể tốc kí chín mười từ một phút và đánh máy sáu mươi từ một phút?
- Vâng, thưa bà.
- Tôi có thể giới thiệu việc làm ngay cho cô đấy. Có một hãng kiến trúc nhỏ đang tìm một thư kí. Nhưng lương thì không được cao lắm, tôi e là thế.
- Không sao, - Julia đáp ngay.
- Tốt lắm. Tôi sẽ giới thiệu cô tới đó. Họ sẽ phỏng vấn cô vào trưa mai.
Julia cười sung sướng. "Rất cảm ơn bà".
Nàng vừa ra thì Sally được gọi vào.
- Tớ hy vọng cậu sẽ được một cái gì đó, - Julia nói.
- Cảm ơn.
Như một thứ bản năng, Julia quyết định nán lại chờ Sally. Chừng chục phút sau thì Sally bước ra, toét miệng cười.
- Tớ đã được thẩm vấn. Bà ta đã gọi điện thoại, và tớ sẽ vào làm nhân viên tiếp tân cho Công ty Bảo hiểm đầu tư Mỹ từ ngày mai. Cậu thế nào?
- Ngày mai tớ mới biết.
- Tớ tin cậu sẽ được nhận. Chúng ta cùng đi ăn trưa mừng có việc làm đi.
- Tuyệt lắm.
Trong bữa trưa hôm đó, hai cô gái trò chuyện và tình bạn giữa họ hình thành tức thì.
- Tớ tìm được một căn hộ ở Overland Park,- Sally nói. - Căn hộ có hai buồng ngủ, một phòng tắm, một bếp và một phòng khách. Nó đẹp. Song mình tớ thì khó mà đủ tiền thuê, nếu như hai chúng ta hợp lại…
Julia nhoẻn cười:
- Tớ khoái ý tưởng của cậu rồi đấy. - Nàng búng ngón tay đánh tróc. - Nếu tớ được nhận vào làm việc.
- Cậu sẽ được nhận, - Sally đoán chắc.
Trên đường tới văn phòng công ty Peters, Eastman & Tolkin, Julia nghĩ, Đây có thể là cơ hội lớn, chứ không chỉ là một việc làm đơn thuần Nó có thể dẫn mình tới bất cứ đâu. Mình sẽ được làm việc với các kiến trúc sư. Những người mơ mộng nầy đang xây dựng và hình thành những toà nhà chọc trời, tạo nên những điều kỳ diệu từ những phiến đá. Có thể mình sẽ nghiên cứu khoa học kiến trúc để có thể giúp họ và làm một bộ phận cấu thành trong những giấc mơ của họ.
***
Văn phòng công ty nằm trong một toà nhà cũ trên đại lộ Amour. Julia bắt thang máy lên tầng ba và dừng lại trước một cánh cửa đề PETERS, EASTMAN & TOLKIN, KIẾN TRÚC SƯ. Nàng hít một hơi sâu để giữ bình tĩnh rồi mới bước vào.
Ba người đàn ông đang ngồi chờ nàng trong phòng tiếp tân, chăm chú nhìn nàng đi đến.
- Cô tới để xin làm thư kí có phải không?
- Vâng, thưa các ông.
- Tôi là Al Peters. - ông nói.
- Tôi là Bob Eastman. - ông để tóc đuôi ngựa.
- Tôi là Max Tolkin. - ông bụng bự.
Bọn họ đều trạc bốn mươi.
- Chúng tôi hiểu đây là việc thư kí đầu tiên của cô - Al Peters nói.
- Đúng thế ạ, - Julia đáp, rồi mau miệng nói thêm. - Nhưng tôi có thể học rất nhanh. Tôi sẽ làm việc chăm chỉ. - Nàng quyết định chưa nói ý đồ theo học một trường kiến trúc ra vội. Nàng sẽ chờ cho đến khi họ đã biết được năng lực của nàng.
- Tốt lắm. Chúng tôi sẽ thử thách cô, - Bob Eastman nói, - để xem cô làm việc thế nào.
Julia cảm thấy phấn chấn.
- Ô, cám ơn các ông! Tôi sẽ không…
- Về lương, - Max Tolkin nói, - tôi e sẽ không thể trả cho cô được nhiều trong thời gian đầu.
- Cũng được, - Julia nói, - Tôi…
- Ba trăm một tuần, - Al Peters nói.
Họ nói đúng. Một đồng lương như vậy là quá ít ỏi.
Julia lập tức quyết định:
- Tôi chấp nhận công việc.
Ba người nhìn nhau và cùng mỉm cười.
- Tuyệt! - Al Peters thốt lên. - Để tôi đưa cô đi tham quan một vòng.
Chuyến tham quan chỉ kéo dài có vài giây. Có một phòng tiếp tân và ba phòng làm việc nhỏ bài trí như trụ sở của một đội quân cứu tế. Bồn rửa để ngoài hành lang. Cả ba đều là kiến trúc sư, song Al Peters làm kinh doanh, Bob Eastman làm bán hàng, còn Max Tolkin làm kỹ thuật công trình.
- Cô sẽ làm cho cả ba chúng tôi, - Peters nói với nàng.
- Vâng. - Julia hiểu nàng sẽ trở nên không thể thiếu được đối với họ.
Al Peters nhìn đồng hồ.
- Đã mười hai rưỡi. Chúng ta ăn trưa chứ?
Julia cảm thấy lâng lâng. Nàng đã chính thức vào đội hình của họ. Họ đang mời mình ăn trưa.
Anh ta quay sang Julia:
- Dưới nhà có một cửa hàng bán đồ ăn. Tôi sẽ dùng Sandwich thịt bò muối, mạch đen và sa lát khoai tây.
Tolkin nói:
- Tôi sẽ dùng Sandwich pastarami và súp gà.
Bob Eastman nói:
- Tôi sẽ dùng tôm hùm nướng và nước ngọt.
- Ồ nhớ là thịt bò muối phải lẳn nhé, - Al Peters bảo nàng.
- Vâng, thịt bò muối lẳn.
- Nhớ là súp phải nóng đấy. - Tolikin dặn.
- Vâng, súp nóng.
- Nước ngọt là cola ăn kiêng nhé.
- Vâng, cola ăn kiêng.
- Tiền đây, - Peters đưa cho nàng một tờ hai mươi đô la.
Mưởi phút sau Julia đã có mặt ở cửa hàng đồ ăn, nêu thực đơn của mình cho người đàn ông đứng sau quầy:
- Tôi mua một sandwich thịt bò muối và mạch đen, một sa lát khoai tây, một bánh sandwich pastarami, một súp gà thật nóng, một tôm hùm nướng và cô la ăn kiêng.
Người bán hàng gật đầu:
- Cô làm việc cho Peters, Eastman, & Tolkin hả?
***
Tuần sau Julia và Sally chuyển tới sống tại căn hộ đường Overland Park. Nhìn căn hộ tuyềnh toàng Julia thầm nghĩ: người ta sẽ không nhầm căn hộ nầy với khách sạn Ritz.
- Chúng ta sẽ thay nhau nấu nướng, - Sally đề nghị.
- Tốt thôi.
Sally nấu bữa đầu tiên và nấu rất ngon.
Tối hôm sau đến lượt Julia. Sally nếm một thìa và nói:
- Julia, tớ chưa mua bảo hiểm sinh mạng đâu. Sao cậu không để tớ làm bữa còn cậu thì giặt giũ và lau nhà cửa?
Hai cô gái cùng phòng sống với nhau rất hoà thuận, vào dịp nghỉ cuối tuần, họ thường đi xem phim ở GlenWood 4, mua sắm ở Bannister Mall. Họ mua quần áo ở cửa hàng bán đồ hạ giá Super Flea Discount House. Mỗi tuần một lần, họ đi ăn tối ở một nhà hàng rẻ tiền - Stephenson s Ole Apple Farm hay Cafe Max. Khi trong túi họ xông xênh, họ có thể đến Charhe Charlie nghe nhạc Jazz.
Julia thích công việc ở Peters, Eastman, & Tolkin lắm. Nói họ đang làm ăn khó khăn là đánh giá ba người đàn ông hơi thấp. Họ có ít khách hàng. Julia có cảm giác nàng đã không làm được gì nhiều giúp họ xây nên những toà nhà chọc trời, nhưng nàng thích được làm việc gần gũi với ba ông chủ đó. Mỗi khi có khó khăn gì họ đều thổ lộ với nàng. Với bản tính nhanh nhẹn, chỉ mấy ngày sau khi vào làm việc nàng đã tổ chức lại văn phòng một cách gọn gàng và khoa học.
Julia quyết định phải làm một việc gì đó để lôi kéo thêm khách hàng cho công ty. Nhưng bằng cách nào? Và nàng đã nhanh chóng tìm ra lời giải đáp.
Báo Kansas City Star vừa đăng tin về một bữa tiệc trưa dành cho một hội các thư kí điều hành. Thư kí hội là bà Susan Bandy.
Trưa hôm sau Julia nói với Peters:
- Chiều nay tôi có thể về muộn một chút.
- Không sao, Julia, - Al Peters nói và nghĩ họ đã may mắn khi có được nàng.
Julia tới Plaza Inn và đi thẳng vào phòng tiếp tân, nơi tiệc trưa đang diễn ra. Người đàn bà ngồi kề cửa sổ nói:
- Tôi có thể giúp gì cô?
- Vâng. Tôi tới đây để dự bữa tiệc trưa của hội thư kí điều hành.
- Tên cô là gì?
- Julia Stanford.
Người dàn bà nhìn danh sách trước mặt:
- Tôi e là không thấy tên cô…
Julia mỉm cười:
- Cũng như Susan ấy mà. Tôi có chuyện muốn nói với bà ta. Tôi là thư kí điều hành của Peters, Eastman, & Tolkin.
Người đàn bà do dự.
- Bà đừng lo. Tôi chỉ muốn vào gặp Susan một lát, rồi đi ngay thôi mà.
Trong phòng ăn là một nhóm phụ nữ ăn mặc đẹp đang trò chuyện rôm rả. Julia Stanford đi đến gần:
- Xin lỗi, tôi muốn hỏi ai là Susan Bandy?
- Bà ta ở đăng kia kỳa, - cô ta chỉ tay vào một người đàn bà lộng lẫy ở tuổi bốn mươi.
Julia đến chỗ bà ta:
- Chào. Tôi là Julia Stanford.
- Chào cô.
- Tôi làm cho Peters, Eastman, & Tolkin. Tôi tin là bà đã nghe tên công ty nầy.
- À, tôi… - Họ là hãng kiến trúc tăng trường nhanh nhất ở Kansas City.
- Tôi hiểu.
- Tôi thực không có nhiều thời gian, nhưng tôi muốn đóng góp bất cứ cái gì có thể cho hiệp hội.
- Vậy thì tốt lắm. À, cô tên là…
- Stanford
Đấy là bước khởi đầu.
Hiệp hội thư kí điều hành đại diện cho các công ty hàng đầu ở Kansas City, và Julia trở thành một bộ phận của nó từ lúc nào không biết. Nàng ăn trưa với một hoặc vài thành viên chí ít mỗi tuần một lần.
- Công ty tôi sắp xây dựng một trụ sở mới ở Olathe.
Julia lập tức báo cáo về cho ba ông chủ của mình.
- Ông Hanley muốn xây dựng một nhà nghỉ ở Tonganoxie.
Và trước khi ai đó kỵp hiểu xem chuyện gì đang xảy ra thì Peters, Eastman, & Tolki đã có hợp đồng.
Một hôm Bob Eastman gọi nàng vào và nói:
- Cô xứng đáng được tăng lương, Julia. Cô đã làm việc tốt không thể tưởng được. Cô là một thư kí tuyệt vời.
- Ông làm ơn giúp tôi một việc được không?
- Dĩ nhiên rồi.
- Hãy gọi tôi là thư kí điều hành. Như vậy tôi sẽ làm việc dễ dàng hơn với các công ty bạn.
Thỉnh thoảng Julia lại bắt gặp một bài báo viết về cha mình, hoặc thấy ông xuất hiện trên tivi. Tuy nhiên nàng chưa bao giờ cho Sally hay ba ông chủ của mình biết nàng là con gái Harry Stanford.
Ở tuổi mới lớn, một trong những mơ ước của Julia là vào một ngày nào đó nàng được một vị thần đưa ra khỏi Kansas tới một nơi huyền diệu, đầy những du thuyền, cung điện và máy bay riêng. Nhưng giờ đây khi nhận được tin về cái chết của cha, giấc mơ đó đã bị chôn vùi vĩnh viễn.
Mình không còn gia đình nữa rồi. Không, mình vẫn còn một gia đình. Mình có hai anh trai và một chị gái cùng cha khác mẹ. Họ là gia đình của mình. Mình có nên tới thăm họ không nhỉ? Phải chăng đây là một ý tưởng hay? Không biết khi gặp nhau mình và họ sẽ nghĩ thế nào về nhau nhỉ?
Quyết định của nàng hoá ra đã trở thành một vấn đề sống còn. Không chỉ với riêng nàng.


Chương 12



SÁNG


Đấy là cuộc tụ họp của một nhóm những người xa lạ Bao nhiêu năm rồi họ chẳng gặp mặt nhau hay liên lạc gì với nhau.
Thẩm phán Tyler Stanford về từ Boston bằng máy bay.
Kendall Stanford Renauld bay tới từ Paris. Marc Renauld đáp xe lửa từ New York.
Woody Stanford và Peggy đến bằng xe hơi từ Hobe Sound.
Gia quyến được thông báo rằng tang lễ sẽ cử hành tại nhà thờ King. Con phố trước cửa nhà thở được chặn lại, cảnh sát được bố trí để trông coi đám đông tụ tập ở bên ngoài xem lễ tang. Phó Tổng thống Mỹ cùng các thượng nghị sĩ, đại sứ và đại diện ngoại giao từ các nước xa xôi như Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Ả-rập Xê-út cũng có mặt. Sinh thời, Harry Stanford đã toả một cái bóng khổng lồ lên trái đất và bởi thế, bảy trăm chỗ ngồi trong nhà thờ lúc nầy đều chật khách ngồi.
Tyler, Woody và Kendall, cùng với vợ, chồng họ gặp nhau trong phòng họp nhà thờ. Cuộc gặp thật miễn cưỡng và thiếu tự nhiên. Họ xa lạ nhau quá, và vật duy nhất họ có chung là cái xác của người cha đang nằm trong chiếc xe tang bên ngoài nhà thờ.
- Đây là chồng tôi, anh Marc, - Kendall giới thiệu.
- Đây là vợ tôi cô Peggy. Peggy à, đây là chị gái anh, Kendall, và anh trai anh, Tyler.
Họ trao nhau những cái chào xã giao, rồi đứng nguyên, vụng về nhìn nhau mà chẳng nói gì cho tới khi người phụ trách tang lễ đi vào.
- Xin lỗi quí vị, - Ông ta hối hả nói. - Tang lễ sắp sửa cử hành. Xin mời quí vị theo tôi.
- Ông ta dẫn nhóm người tới một phòng riêng trước cửa nhà thờ. Họ ngồi xuống và đợi, mỗỉ người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Tyler có một cảm giác xa lạ khi trở lại Boston. Hồi ức đẹp nhất còn lại trong y là cái thời mà cả mẹ lẫn Rosemary còn sống. Năm lên mười một, Tyler được xem bức hoạ nổi tiếng Thần Xa-tuya ăn sống con trai của Goya, và chẳng hiểu sao y luôn gán nó cho cha mình.
Còn bây giờ, nhìn chiếc quan tài đang được khiêng vào nhà thờ, Tyler thầm nhủ, Xa-tuya đã đi đời nhà ma.
Tao biết cái bí mật nhỏ bẩn thỉu của mày.
- Ông mục sư bước lên bục giảng kinh.
"Đức Chúa nói với bà, Ta là sự phục sinh và là cuộc sống, ai tin ở ta, dù đã chết cũng sẽ được phục sinh, và những ai sống và tin ở ta sẽ không bao giờ chết".
Woody đang phê. Gã đã xài một liều bạch phiến trước khi đến nhà thờ, và hiệu ứng của nó vẫn chưa tan hết. Gã liếc nhìn ông anh trai và bà chị. Tyler mập lên. Anh ấy trông giống một thẩm phán. Kendall xinh ra nhiều, nhưng hình như chị ta đang rất căng thẳng. Không biết có phải vì cái chết của cha không? Không phải. Chị ta hận bố chẳng kém gì mình. Gã nhìn vợ đang ngồi bên cạnh. Mình có lỗi chưa kỵp giới thiệu Peggy với ông già Nếu mình làm việc đó sớm thì có phải lão đã ngoẻo vì đau tim rồi không?
Ông mục sư vẫn nói:
"Như người cha thương yêu đứa con, Chúa cũng dành một tình thương như vậy cho những ai tôn kính Ngài. Bởi Ngài biết thân xác của chúng ta; Ngài nhớ chúng ta là cát bụi".
Kendall không nghe bài kinh. Nàng đang nghĩ tới bộ đồ mầu đỏ. Một buổi chiều, cha nàng gọi điện cho nàng về New York: "Vậy là mày đã thành một nhà tạo mốt lớn rồi đấy Ghê thật. Hãy để tao kiểm tra xem tay nghề mày tới đâu. Tao sẽ đưa cô bạn gái mới của tao đi dự một vũ hội từ thiện vào tối thứ bảy nầy. Số đo của cô ta như của mày đó. Tao muốn mày thiết kế cho cô ta một bộ đồ thật đẹp".
- Thứ bảy nầy ư, thưa cha? Không thể kỵp được. Con không thể…
- Mày sẽ làm như tao nói.
Và Kendall đã thiết kế một bộ quần áo xấu xí nhất mà nàng có thể nghĩ ra. Nó có một cái nơ con bướm tổ bố cùng một đống đăng ten, râu ria ở trước ngực. Mặc nó vào người ta trông như quái vật ngay. Nàng gửi nó cho cha. Mấy tiếng sau, cha nàng gọi tới:
- Tao đã nhận được bộ đồ. Nhưng thật tiếc là bạn gái tao có việc bận nên không thể đi vũ hội cùng tao vào thứ báy nầy được. Bởi thế, mày sẽ đi cùng tao tới đó và mặc bộ đồ mày đã thiết kế cho cô ấy!
- Không.
Rồi nàng nghe câu nói khủng khiếp đó:
- Mày không muốn làm cha thất vọng, đúng không?
Và nàng phải đi cùng ông tới buổi vũ hội ấy, không dám mặc cái gì khác ngoài bộ đồ ông đã chi định, và đấy là buổi tối nhục nhã nhất trong đời nàng.
"Bởi chúng ta không mang đến cho thế giới nầy cái gì nên chắc chắn cũng không thể mang theo cái gì đi khỏi nó. Chúa cho chúng ta và Chúa lấy đi, sáng danh Chúa đời đời!"
Peggy Stanford thấy bất tiện. Cái nhà thờ nầy tráng lệ quá, những người tham dự lễ tang trông sang trọng quá. Cô chưa tới Boston bao giờ, song trong tiềm thức thì Boston có nghĩa là thế giới của Stanford với tất cả những gì nguy nga, tráng lệ nhất. Những con người nầy trông cao quí hơn cô nhiều quá.
Cô nắm lấy tay chồng.
"Tất cả thịt da là cỏ dại, và tất cả nhung gì tinh tuý trong đó là hoa trái trên đồng… Cỏ sẽ tàn, hoa sẽ héo, songlời của Chúa thì vĩnh cửu".
Marc đang mải nghĩ về bức thư tống tiền mà vợ chàng vừa nhận được. Lời lẽ của bức thư đã được cân nhắc rất cẩn thận và viết rất khôn ngoan. Chịu, không thể phán đoán kẻ nào đứng đằng sau bức thư đó. Chàng nhìn Kendall, xanh xao và căng thẳng.
Nàng còn chịu được bao lâu nữa? Chàng thầm hỏi và xích lại gần vợ.
"Chúng ta sống trong tình thương và sự che chở của Chúa. Chúa ban phước lành cho chúng ta và gìn giữ chúng ta. Đức Chúa chiếu sáng chúng ta và bao dung với chúng ta. Đức Chúa cho chúng ta hoà bình, hôm nay và muốn đời. Amen".
Phần hành lễ kết thúc, và vị mục sư tuyên bố:
- Lễ an táng sẽ tiến hành trong nội bộ tang gia.
Tyler nhìn chiếc quan tài và nghĩ tới cái xác trong đó Đêm qua, trước khi đóng nắp quan tài, y đã tức tốc phi thẳng từ sân bay Quốc tế Boston tới nhà tang lễ
Y muốn nhìn tận mắt cái chết của cha y.
Woody theo dõi chiếc quan tải khi nó được khiêng ra khỏi nhà thở và diễu qua trước mặt những người đưa tang. Gã mỉm cười: Hãy trao cho người ta cái người ta muốn đi.
Lễ hạ huyệt tại nghĩa địa Mount Auburn ở Cambridge diễn ra rất chóng vánh. Gia quyến nhìn xác Harry Stanford được hạ từ từ xuống nơi an nghí cuối cùng, và khi những nắm đất đầu tiên được ném xuống, ông mục sư nói:
- Quí vị tang gia có thể trở về nhà nếu không muốn ở lại đây thêm nữa.
Woody gật đầu "Đúng". Hơi bạch phiến đã tan hết và gã bắt đầu cảm thấy bứt rứt.
- Chúng ta đi khỏi cái nơi khỉ gió nầy thôi.
Marc hỏi:
- Chúng ta đi đâu bây giờ?
Tyler quay ra nói với cả nhóm:
- Chúng ta sẽ ở tại Rose Hill. Mọi thứ đã được sắp đặt cả rồi. Chúng ta sẽ ở lại đó cho đến khi vấn đề phân chia tài sản được giải quyết xong.
Vài phút sau họ đã ngồi vào chiếc xe hòm lớn, đi về toà nhà.
Boston là thành phố có đẳng cấp rõ ràng. Những gia đình cực kỳ giầu có sống ở đại lộ Commomwealth, tầng lớp thượng lưu bậc trung sống ở phố Newbury.
Những gia đình có vị thế kém cỏi hơn thì sông ở phố Marlborough. Back Bay là địa chỉ mới nhất và có thanh thế nhất, song Beacon Hill mới là dinh luỹ của những gia đình lâu đời nhất và giầu có nhất.
Đấy là một sự pha trộn xa hoa giữa những toà nhà tháp kiểu Victoria với những nhà thờ cổ và những khu thương mại sầm uất.
Rose Hill, dinh cơ của nhà Stanford, là một toà biệt thự kiểu Vitoria mới xây trên một thửa đất rộng ba acrơ trên đồi Beacon. Bọn trẻ nhà Stanford lớn lên trong toà biệt thự đầy ắp những hồi ức kinh hoàng đó.
- Tôi không thể hình dùng nổi việc cha đang không có nhà chờ chúng ta, - Kendall nói.
Woody cười hết cỡ:
- Giờ nầy ông ta đang mải điều hành công việc ở địa ngục.
Tyler hít một hơi thật sâu:
- Vào thôi.
Mọi người vừa đi đến cửa tiền thì cánh cửa cũng lập tức mở ra và Clark, vị quản gia đang đứng chờ sẵn ở đó. Ông đã ngoài bảy mươi và đã làm quản gia cho nhà Stanford hơn ba chục năm nay. Ông nhìn bọn trẻ lớn lên, trưởng thành và đã sống qua tất cả các vụ scandal trong nhà.
Trông thấy nhóm người, mắt Clark sáng lên:
- Chào các cô, các cậu chủ.
Kendall ôm chầm lấy ông:
- Bác Clark, thật hạnh phúc khi gặp lại bác.
- Lâu quá rồi nhỉ, cô Kendall.
- Cháu giờ là bà Renaud rồi đấy. Đây là chồng cháu, Marc.
- Chào ngài.
- Vợ tôi đã kể rất nhiều về bác.
- Không có gì quá khủng khiếp chứ, tôi hy vọng?
- Trái lại đấy. Về bác, cô ấy chỉ có những hồi ức rất đẹp thôi.
- Cám ơn ngài. - Clark quay sang Tyler. - Chào thẩm phán Stanford.
- Chào bác.
- Tôi rất vui được gặp lại cậu chủ.
- Cám ơn bác. Trông bác khoẻ mạnh lắm.
- Cậu chủ cũng thế. Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện buồn đã xảy ra với nhà ta.
- Cám ơn bác. Bác chuẩn bị như vậy để đón tất cả chúng cháu có phải không?
- Ồ, phải. Tôi nghĩ chúng tôi có thể làm cho mọỉ người cảm thấy dễ chịu khi ở đây.
- Cháu lại sẽ ở phòng cũ của mình chứ?
Clark cười:
- Đúng vậy. - Ông quay sang Woody. - Rất vui được gặp cậu chủ. Tôi muốn…
Woody khoác lấy tay Peggy:
- Thôi nào. Cháu đang muốn tắm gội, nghỉ ngơi cho người sảng khoái lên chút đây.
Mọi người nhìn Woody bước qua trước mặt và kéo Peggy lên lầu.
Những người còn lại tập trung ở thư phòng lớn. Gian phòng được án ngữ bởi hai cái bàn kiểu Louis XIV. Rải rác quanh tường là những chiếc bàn nhỏ kiểu tấm chìa, mặt lát đã cẩm thạch cùng một loạt ghế tựa, ghế băng có tay ngăn. Trên tường treo những bức hoạ thời trung cổ, màu tối.
Clark nói với Tyler:
- Thẩm phán Stanford, tôi có một lời nhắn cho cậu.
- Ông Simon Fitzgerald muốn cậu gọi đỉện báo cho ông ta biết lúc nào ông ta có thể gặp mặt gia đình.
- Simon Fitzgerald là ai vậy? - Marc hỏi.
- Ông ta là luật sư của gia đình. Cha thuê ông ta đã lâu lắm rồi nhưng mọi người ở đây chưa ai gặp ông ta cả.
- Tôi cho là ông ta muốn bàn chuyện chia tài sản, - Tyler nói. - Nếu các vị nhất trí, tôi sẽ mời ông ta tới đây vào sáng mai.
- Tốt thôi, - Kendall nói.
- Đầu bếp đang làm bữa tối. Các cô, các cậu dùng bữa vào lúc tám giờ có được không?
- Vâng, - Tyler đáp. - Cám ơn bác.
- Eva và Millie sẽ dẫn các cô cậu lên phòng.
Tyler nói với Kendall và chồng nàng:
- Chúng ta gặp lại nhau ở đây lúc tám giờ tối nhé.
Lên tới phòng riêng, Peggy lo lắng hỏi Woody:
- Anh có làm sao không?
- Anh không sao cả, - Woody nói lúng búng. - Hãy để anh yên.
Cô nhìn gã đi vào buồng tắm và đóng sầm cửa lại.
Mười phút sau, Woody đi ra, miệng cười rất tươi:
- Chào em yêu.
- Chào anh.
- Em có thích ngôi nhà cổ nầy không?
- Nó… nó đồ sộ quá!
- Nó là cái địa ngục. - Gã vòng tay ôm ngang người Peggy. - Đây là phòng cũ của anh. Em thấy trên tường còn treo các dụng cụ thể thao. Thời nhỏ anh muốn làm một vận động viên điền kinh. Anh có những ước mơ to lớn. Thời là học sinh ở trường nội trú anh từng làm đội trưởng đội tuyển bóng đá của trường. Anh nhận được hàng chục giấy mời của các huấn luyện viên các trường đại học khác nhau.
- Anh đã nhận lời mời nào?
Gã lắc đầu:
- Anh chối tất. Cha anh nói họ chỉ quan tâm đến cái tên Stanford thôi, rằng họ chỉ muốn đưa anh vào để nhận tài trợ của cha anh. Ông gửi anh tới một trường đại học kỹ thuật, nơi chẳng có ai đá bóng cả. - Gã im lặng một giây, rồi lẩm bẩm. - Anh đã có thể làm một vận động viên chuyên nghiệp…
Peggy nhìn Woody, bối rối:
- Anh nói sao?
Gã ngẩng lên:
- Đã bao giờ em đọc dòng chữ "Đứng đầu ngọn sóng" chưa?
- Chưa.
- Đấy là câu Marlon Brando tên một diễn viên điện ảnh Mỹ đã nói. Nó có nghĩa anh và cha anh đã không thể chịu nổi nhau thêm nữa.
- Cha anh chắc là nghiêm khắc lắm.
Woody hú lên cười:
- Chưa thấy ai nói về cha anh tốt như em. Anh còn nhớ thời nhỏ có một lần anh bị ngã ngựa. Song anh không sợ ngựa và muốn được cưỡi lại. Ông ta cấm anh làm việc đó. "Mày không bao giờ thành một kỵ sĩ được đâu", ông nói. "Mày quá ư vụng về" - Woody nhìn vợ. - Vì câu nói đó mà anh đã trở thành một cầu thủ polo chín bàn.
Họ xuống gặp lại nhau quanh bàn ăn tối, một bữa ăn của những người lạ với nhau. Họ ngồi trong cái im lặng thiếu tự nhiên, với một mối ràng buộc duy nhất là những vết thương của tuổi thơ ấu.
Mãi sau Kendall mới lên tiếng:
- Anh Tyler, em đã đọc về quyết định của anh trong vụ Fiorello. Hắn ta đáng nhận cái anh đã tuyên phạt.
- Làm một thẩm phán chắc phải thích lắm nhỉ, - Peggy nói.
- Đôi khi cũng thú vị.
- Anh xử những án gì?- Marc hỏi.
- Án hình sự: hiếp dâm, ma tuý, giết người…
Sắc mặt Kendall bỗng tái đi. Nàng toan nói cái gì đó song Marc đã bóp mạnh tay nàng ngăn lại.
Tyler nhã nhặn nói với Kendall:
- Em đã trở thành một nhà tạo mốt nổi tiếng rồi.
Kendall thấy khó thở quá:
- Dạ.
- Cô ấy khá lắm, - Marc nói.
- Còn Marc, anh làm gì?
- Tôi làm môi giới tài chính.
- Ồ ra anh là một trong những nhà triệu phú trẻ, năng động của Wall Street đấy.
- Thưa, không hẳn vậy. Tôi chỉ mới vào nghề thôi mà.
Tyler nhìn Marc thăm dò:
- Tôi cho là anh may mắn khi có được một người vợ thành đạt.
Kendall thầm thì vào tai Marc:
- Anh chớ có chấp nê anh ta làm gì. Hãy nhớ là em yêu anh.
Woody bắt đầu cảm nhận được hiệu ứng của bạch phiến. Gã nhìn vợ mà nói:
- Peggy có thể mặc đẹp, song cô ấy vốn tính tuềnh toàng, không để tâm tới ngoại hình của mình. Phải vậy không, thiên thần của anh?
Peggy ngồi lặng đi, lúng túng không biết nói gì.
- Hay em mặc đồ bồi bàn? - Woody gợi ý.
- Tôi xin lỗi, - Cô đứng dậy và chạy vội lên lầu.
Cả bọn ngây ra nhìn Woody.
Gã cười hề hề:
- Cô ấy quá ư nhạy cảm. Thế nào, ngày mai chúng ta sẽ thảo luận về tờ di chúc có phải không?
- Đúng thế, - Tyler nói.
- Tôi dám cá ông già chẳng để lại cho chúng ta một xu me.
Marc nói:
- Tài sản của ông ta đáng giá bao nhiêu là tiền…
Woody khịt mũi:
- Anh không biết cha chúng tôi đấy thôi. Tôi đồ ông ấy chỉ để lại cho chúng tôi cái áo vét cũ và hộp xì gà hút dở. Lão ta khoái dùng đồng tiền để điều khiển chúng tôi. Câu nổi tiếng của lão là "Mày không muốn làm tao thất vọng" đúng không. Và tất thẩy chúng tôi đều hành xử như những đứa trẻ ngoan ngoãn, bởi như anh nói, ông có quá nhiều tiền. Dẫu sao đi nữa, tôi thề là lão già đã tìm cách mang theo toàn bộ những đồng tiển lão có.
- Thôi, đằng nào ngày mai chúng ta cũng rõ mà. - Tyler nói.
***
Sáng hôm sau, Simon Fitzgerald và Steve Sloane xuất hiện. Clark dẫn hai người vào thư viện:
- Tôi sẽ thông báo với cả nhà rằng hai vị đã tới,- lão nói.
Thư viện là một phòng lớn mở ra một vườn hoa bằng hai cửa sổ cao tới trần. Tường phòng ốp gỗ sồi, kê những giá sách chất đầy những cuốn sách bọc da rất đẹp. Rải rác trong phòng có những chiếc ghế mềm tiện lợi và những đèn đọc sách kiểu ý. Góc phòng là bộ sưu tập súng của Harry Stanford, bày trong một chiếc tủ kính bằng gỗ dái ngựa. Tất cả toát lên một không khí cổ kính và nghiêm trang.
- Sáng hôm nay sẽ là một buổi sáng thú vị đây, - Steve nói. - Không biết họ sẽ phản ứng thế nào nhỉ?
- Chúng ta sẽ biết rất chóng thôi.
Marc và Kendall xuống đầu tiên.
Simon Fitzgerald nói:
- Xin chào ông bà. Tôi là Simon Fitzgerald, còn đây là đồng sự của tôi, Steve Sloane.
- Tôi là Kendall Renaud, còn đây là chồng tôi, Marc.
Marc bắt tay hai người đàn ông.
Woody và Peggy đi vào.
Kendall nói:
- Woody, đây là ông Fitzgerald và ông Sloane.
Woody gật đầu:
- Chào. Các ông có mang theo luôn tiền mặt cho chúng tôi không đấy?
- À thực thì…
- Tôi đùa đấy. Đây là vợ tôi, Peggy. - Woody nhìn Steve. - Lão già có để lại gì không?
Tyler đến.
- Chào mọi người.
- Ông là thẩm phán Stanford phải không ạ?
- Vâng, chính tôi.
- Tôi là Simon Fitzgerald, còn đây là Steve Sloane, đồng sự của tôi. Chính Steve đã đưa thi hài thân phụ ông từ Corsica về Mỹ.
Tyler quay sang Steve:
- Rất cám ơn ông vì việc đó. Chúng tôi thực không hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Báo chí có quá nhiều phiên bản về cái chết của cha chúng tôi. Liệu ông có thể bị sát hại không?
- Không. Đấy có vẻ là một tai nạn. Tầu của thân phụ ông gặp một cơn bão lớn ở ngoài khơi Corsica.
Căn cứ lời thuật lại của vệ sĩ Dmitri Kaminsky, thì thân phụ ông đứng ngoài sân hiên và gió đã thổi bay khỏi tay ông một số tờ giấy. Ông nhoài ra bắt, mất thăng bằng và ngã xuống biển. Lúc họ vớt được xác ông lên thì quá muộn rồi.
- Một cái chết rùng rợn quá đi, - Kendall rụt cổ lại - Ông đã nói chuyện với gã Kaminsky đó chưa? - Tyler hỏi.
- Tiếc là chưa. Khi tôi tới đảo Corsica thì anh ta đã đi khỏi đó rồi.
Fitzgerald nói:
- Thuyền trưởng của chiếc tầu chở thân phụ anh cho biết đã hết lời can ngăn ông chớ có lên đường ngày hôm đó, song vì lí do nào đấy mà ông đã rất vội về Mỹ. Ông đã bố trí sẵn một trực thăng để bay tiếp sau khi tầu thuỷ cặp bến. Tôi đoán là ông có một vất đề khẩn cấp phải giải quyết.
- Ông có biết đó là vấn đề gì không? - Tyler hỏi.
- Không. Tôi đang đi nghỉ mát thì phải quay về để gặp ông ấy ở đây. Tôi không biết rằng…
Woody nói chen ngang:
- Tất cả những chuyện đó nghe rất kỳ thú, song giờ chúng chỉ là lịch sử thôi. Chúng ta hãy nói về bản di chúc thì hơn. Nào, ông ta có để lại cho chúng tôi chút gì không?
- Chúng ta ngồi xuống đi chứ, - Tyler mời.
Fitzgerald ngồi đối diện với gia đình Stanford.
- Ông mở cặp và lôi ra một tập giấy tờ.
Woody có vẻ không chịu đựng được nữa:
- Thế nào? Vì Chúa, ông ta có để lại gì cho chúng tôi không chứ?
- Woody…- Kendall nhắc nhở em trai.
- Tôi biết câu trả lời rồi,- Woody giận dữ nói. - Lão ta chẳng để lại cho chúng ta một xu sứt nào hết.
Fitzgerald nhìn mặt đàn con Stanford và nói:
- Thực thì mỗi quí vị sẽ được hưởng một phần tài sản bằng nhau của người cha đã quá cố.
Steve có thể cảm nhận được một bầu không khí hào hứng bao trùm lên căn phòng.
Woody há hốc mồm nhìn Fitzgerald.
- Cái gì? Ông nói cái gì? - Gã nhảy dựng lên. – Kỳ diệu quá. Các anh chị có nghe thấy gì không? Cuối cùng thì lão già đáng nguyền rủa đó cũng làm được cái việc mà chúng ta mong mỏi. - Gã nhìn Fitzgerald. - Chúng ta đang nói đến một khoản tiền bao nhiêu đây?
- Tôi không có con số chính xác. Theo số mới nhất của tạp chí Forbes thì trị giá của Stanford Enterprises được ước tính vào khoảng sáu tỉ đô la. Phần lớn tài sản nầy được đầu tư vào các công ty khác nhau, chỉ có khoảng bốn trăm triệu đô la là thành khoản ngay được.
Kendall lắng nghe và run rẩy thốt.lên:
- Vậy là mỗi chúng ta được hơn một trăm triệu đô la. Thật không thể tin nổi? - Mình được tự do, nàng nghĩ. Mình trả quách số tiền chúng nó đòi hỏi và thoát khỏi chúng vĩnh viễn. Nàng nhìn Marc, ánh mắt sáng ngời.
- Xin chúc mừng, - Marc nói. Chàng hiểu nhiều hơn người khác ý nghĩa của đồng tiền.
Simon Fitzgerald lên tiếng:
- Như quí vị đã biết, chín mươi chín phần trăm cổ phần của Stanford Enterprises là do thân phụ quí vị giữ. Bởi thế, nay cổ phần nầy sẽ được chia đều cho các quí vị. Ngoài ra, thẩm phán Stanford được bảo lưu quyền của mình đối với một phần trăm cổ phần còn lại hiện đang được kí thác tại nhà băng. Dĩ nhiên, có một số thủ tục phải hoàn thành. Hơn nữa, tôi phải thông báo với quí vị rằng có khả năng còn một người thừa kế nữa can dự vào đây.
- Một người thừa kế nữa ư? - Tyler hỏi.
- Di chúc của thân phụ các vị qui định rằng tài sản của ông phải được chia đều cho tất cả con cái.
- Nghĩa là sao? - Woody hỏi.
- Ý tôi muốn nói ngoài ba vị ra có thể còn có một người thừa kế hợp pháp nữa.
- Ai vậy? - Kendall hỏi.
- Tôi tin các vị biết một sự thật rằng nhiều năm trước thân phụ các vị có một đứa con riêng với cô gia sư làm việc cho nhà ta.
- Rosemary Nelson, -Tyler nói.
- Đúng. Con gái bà sinh ở bệnh viện St. Joseph ở Milwaukee. Tên là Julia.
Gian phòng bỗng chìm trong im lặng.
- Nầy! - Woody thốt lên. - Việc đó cách đây hai mươi lăm năm.
- Hai mươi sáu năm, nếu nói chính xác.
Kendall hỏỉ:
- Có ai biết hiện cô ta đang ở đâu không?
Simon Fitzgerald như nghe được tiếng nói của Harry Stanford: "Cô ta viết thư báo cho tôi biết cô ta sinh con gái. Hừm, nếu cô ta nghĩ cô ta sẽ kiếm chác được ở tôi thì quên đi nhé!". Không, - Fitzgerald chậm rãi nói. - Không ai biết cô ta đang ở đâu.
- Vậy thì còn bàn đến cô ta làm quái gì? - Woody lầu bầu.
- Tôi chỉ muốn quý vị ý thức một điều rằng nếu cô ta xuất hiện thì cô ta sẽ được quyền thừa hưởng một phần di sản của ông Harry Stanford như mỗi quý vị ở đây.
- Tôi cho rằng chúng ta chả phải lo nghĩ đến chuyện nầy làm gì. - Woody nói với vẻ tự tin. - Cô ta thậm chí còn không biết cha mình là ai đâu.
Tyler quay sang Simon Fitzgerald:
- Ông nói ông không biết trị giá tài sản của cha tôi. Liệu tôi có thể được biết tại sao không?
- Bởi vì hãng luật của chúng tôi chỉ đại diện cho ông Stanford trong những giao dịch cá nhân thôi. Các công việc.kinh doanh của ông do hai hãng luật khác đại diện. Tôi đã liên lạc với họ và yêu cầu họ chuẩn bị các báo cáo tài chính càng nhanh càng tốt.
- Chúng ta đang nói đến một thời hạn bao nhiêu đây? - Kendall sốt sắng hỏi. Chúng tôi cần 100.000 đô la ngay lập tức để trang trải chi phí.
- Có lẽ hai, ba tháng gì đó.
Marc đọc thấy nỗi lo lắng trên gương mặt vợ. Chàng quay sang Fitzgerald:
- Có cách gì xúc tiến cho sự việc nhanh lên không?
Steve Sloane đáp:
- Tôi e là không. Bên di chúc phải được trình lên toà án nhận thực, còn lịch làm việc của họ thì đã chật lắm rồi.
- Toà nhận thực là gì vậy? - Peggy hỏi.
- Nhận thực xuất phát từ chữ chứng nhận và sự thật. Đấy là hành vi…
- Cô ta không xin ông một chầu bài giảng tiếng Anh đâu, - Woody gắt lên. - Tại sao chúng ta không thể giải quyết mọi chuyện ngay bây giờ?
Tyler nói với em trai:
- Luật không làm việc theo lối đó. Khi có một cái chết, di chúc phải được đưa ra toà chứng thực. Phải tiến hành việc thẩm định lại toàn bộ tài sản, bất động sản các công ty đang nắm giữ, tiền mặt, đồ trang sức… rồi danh mục chi tiết các tài sản đó cùng với giá trị của chúng phải được trình trước toà. Phải thu xếp các khoản thuế và thanh toán những món nợ tồn đọng. Sau đó, phải trình toà một lá đơn xin phân chia số tài sản còn lại cho những người thừa kế.
Woody nhe răng cười:
- Zích zắc quá nhỉ. Tôi đã phải đợi suốt gần bốn chục năm để trở thành một nhà triệu phú. Tôi cho mình có thể đợi thêm vài tháng nữa.
Simon Fitzgerald đứng lên:
- Ngoài tài sản thân phụ quí vị để lại cho quí vị thừa hưởng còn một số món quà phải tặng, tuy nhiên giá trị của chúng không lớn nên không ảnh hưởng tới tổng giá trị tài sản mỗi vị được chia đều. Thôi nhé, nếu không có gì…
Tyler đứng lên:
- Tôi cho là chẳng còn gì nữa đâu. Cám ơn hai vị.
Nếu có trục trặc, chúng tôi sẽ chủ động liên lạc.
Ra khỏi toà biệt thự nhà Stanford, Simon Fitzgerald hỏi Steve:
- Vậy là cậu đã gặp mặt toàn bộ gia đình nhà người ta rồi đấy. Cậu nghĩ thế nào?
- Họ đang ăn mừng ông bố chết thì đúng hơn là để tang ông ta. Nếu như ông bố ghét họ như họ ghét ông ta thì việc gì ông ta phải cho họ quyền thừa kế nhỉ?
Simon Fitzgerald nhún vai:
- Đấy là điều mà chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được. Có thể đấy chính là lí do ông ta tìm gặp tôi để trao lại tài sản cho một ai đó khác.
Đêm đó không ai trong số mấy anh em ngủ được, mỗi người chìm đắm trong ý nghĩ của mình.
"Chuyện đó đã xảy ra, - Tyler nghĩ - Nó xảy ra thật rồi. Giờ mình đã có thể cho Lee cả thế giới. Bất cứ cái gì! Tất cả!"
Kendall thì nghĩ: ngay khi nhận được tiền mình sẽ tìm cách mua đứt chúng vĩnh viễn, và chúng sẽ không bao giờ còn dám tống tiền mình nữa.
Còn Woody: mình sẽ tậu một đàn ngựa polo tốt nhất thế giới. Vĩnh viễn không phải mượn ngựa của người khác nữa rồi. Mình sẽ là cầu thủ mười bàn!
Gã nhìn sang Peggy đang ngủ say bên cạnh. Việc đầu tiên mình sẽ làm là rũ khỏi con điếm ngu dốt nầy. Rồi gã nghĩ lại, không, mình không thể làm như vậy Gã vùng dậy và đi vào phòng tắm. Lúc bước ra tâm trạng của gã đã lại lâng lâng.
Bầu không khí bữa sáng ngày hôm sau thật là cởi mở.
- Tôi cho là các anh, các chị đã lên xong kế hoạch của mình, - Woody nói.
Marc nhún vai:
Làm sao người ta có thể lên được một kế hoạch trong một tình huống như thế nầy? Một khối lượng tiền lớn đến mức không thể tin nổi.
Tyler ngẩng lên:
- Chắc chắn nó sẽ đổi đời tất cả chúng ta.
Woody gật gù:
Đáng lẽ lão già chết dẫm đó phải chia của cho chúng ta từ lúc lão còn sống mới phải. Nếu căm thù người chết không phải là hành động thiếu lịch sự thì tôi phải nói với các anh chị thế nầy…
- Woody… - Kendall nhắc em.
- Thôi đi. Chúng ta hãy chấm dứt cái trò đạo đức giả nầy đi. Thẩy chúng ta đều căm thù lão và lão đáng bị như vậy. Hãy xem lão đã làm gì?
Clark bước vào phòng ăn và nói với giọng của người có lỗi:
- Xin lỗi các cô, cậu chủ. Có cô Julia Stanford đang chờ ở ngoài.


Nguồn: http://www.sahara.com.vn/