Gavroche
Từ năm 1823, gia đình Thénardier thêm ba đứa con trai. Thế là quá nhiều: giờ đây cả thảy hai gái ba trai, trong đó có Gavroche.
Mụ Thénardier giũ được hai đứa con trai út nhỏ xíu và mới tí tuổi đầu một cách sung sướng không ngờ.
Giũ được là một cách nói thôi. Mụ đem để chúng ở nhà mụ Magnon giả làm hai đứa con của mụ này đã bị chết trong trận dịch hạch. Bằng cách này mụ Magnon vẫn nhận được món trợ cấp nhỏ mà lão Gillenormand, chủ cũ của mụ, chu cấp.
Sau đó vài năm và trước lúc Eponine nhận được mẩu giấy liên quan đến căn nhà phố Plumet, trong một cuộc vây ráp cảnh sát đã bắt mụ Magnon và bạn gái của mụ là "Cô Miss". Hai đứa trẻ, đang chơi trong sân sau,.khi muốn vào nhà thì thấy cửa đóng. Một người hàng xóm đưa cho chúng một mảnh giấy và nói: - Chúng mày hãy đến địa chỉ này, từ nay không ở đây nữa.
Dọc đường hai đứa trẻ đánh mất mảnh giấy quý báu và thế là chúng lang thang ngoài phố.
Mùa xuân ở Paris hay có những cơn gió bấc lạnh buốt làm cho người ta không những tái tê mà cóng người lại. Những cơn gió bấc này khiến những ngày đẹp nhất cũng đâm buồn chẳng khác gì một gian phòng ấm áp bị những luồng gió lạnh ngắt luồn vào qua khe cửa sổ hoặc qua khe cửa ra vào đóng không chặt.
Hầu như cánh cửa u ám của mùa đông khép không kín nên từ đó gió mới lùa vào.
Vào mùa xuân năm 1832, mùa xảy ra trận dịch lớn nhất thế kỷ ở châu OEu, những cơn gió bấc này càng lạnh ngơ lạnh ngắt hơn bao giờ hết.
Đó là cánh cửa khép hờ của nơi còn rét buốt hơn cả mùa đông tháng giá: cánh cửa của nấm mồ. Người ta cảm thấy trong những cơn gió bấc này luồng gió của dịch tả.
Về mặt khí tượng mà nói thì những cơn gió lạnh này rất đặc biệt vì trong đó như có điện áp mạnh. Thời kỳ này bão luôn xảy ra kèm theo sấm chớp ầm ầm.
Một buổi tối gió rét căm căm, đến mức tưởng như tháng giêng lại trở lại, dân tư sản lại phải đem măng tô ra khoác, chú bé Gavroche, lúc nào cũng run lập cập một cách vui nhộn dưới mớ quần áo rách tả rách tơi, đứng ngây ngất trước tủ kính một cửa hàng cắt tóc ở vùng phụ cận Orme - Saint - Gervais, cổ quàng chiếc khăn san phụ nữ nhặt ở đâu không biết. Chú có vẻ đang ngắm nghía một cách say mê cô dâu bằng sáp, mặc áo hở vai, đầu đội vòng hoa cam đang quay giữa hai ngọn đèn trong tủ kính và mỉm cười với mọi người qua lại, nhưng thực ra chú đang quan sát cửa hàng xem liệu có "thó" được gì trong tủ kính bày hàng không, một bánh xà phòng chẳng hạn, để rồi đem bán cho bác "thợ cắt tóc" ở ngoại ô lấy một xu. Thường chú ăn bữa sáng từ một trong những chiếc bánh này. Chú gọi loại công việc mà chú rất thiện nghệ này là "sửa râu các lão thợ cạo".
Vừa ngắm cô dâu vừa tăm bánh xà phòng, chú lẩm bẩm giữa hai hàm răng: - Thứ ba. Không phải thứ ba rồi. Có phải thứ ba không? Có lẽ thứ ba. Đúng rồi. Thứ ba..Người ta không bao giờ biết cuộc độc thoại này liên quan đến cái gì.
Nếu vô tình mà nó liên quan đến lần cuối cùng chú ăn bữa tối thì cách đây đã ba ngày. Lão thợ cạo trong cửa hiệu có cái lò sưởi rất ấm đang cạo râu cho một khách hàng, thỉnh thoảng lại ném một cái nhìn vào tên kẻ thù tức là thằng nhóc trâng tráo đang rét cóng, hai tay thủ túi nhưng rõ ràng là đầu óc không để vào cái áo dài bó sát người kia một chút nào.
Trong khi Gavroche đang ngắm nghía cô dâu, tủ kính bày hàng và những bánh xà phòng thì có hai đứa bé, một đứa lớn hơn đứa kia, ăn mặc khá sạch sẽ, đều nhỏ tuổi hơn chú, vẻ như một đứa lên bảy một đứa lên năm, mở quả đấm cửa hàng vào nói cái gì đó, có lẽ là xin bố thí chăng, giọng thì thầm than vãn giống như một tiếng rên hơn là một tiếng cầu xin. Cả hai đứa nói cùng một lúc, chúng nói gì không ai hiểu được vì những tiếng nức nở luôn ngắt giọng thằng bé và cái rét làm răng thằng lớn va vào nhau lập cập. Lão thợ cạo quay lại, mặt sát khí bừng bừng và vẫn không rời lưỡi dao cạo, tay trái đẩy thằng lớn ra, đầu gối thì huých vào thằng bé, tống chúng ra khỏi cửa, vừa đóng cửa lại vừa nói: - Vào làm người ta lạnh thêm chẳng được ích gì! Hai đứa trẻ lại tiếp tục đi, vừa đi vừa khóc.
Trong lúc đó một đám mây dày đặc bay đến, trời trở mưa.
Chú bé Gavroche chạy theo hai đứa, bắt chuyện: - Có chuyện gì thế, hai chú mày? - Chúng cháu không biết ngủ ở đâu. - Đứa lớn trả lời.
- Tưởng gì? - Gavroche bảo. - Có thế thôi à? Có thế mà cũng khóc. Chúng mày là bọn ngốc ư? Rồi với bẻ bề trên nhạo báng, chú lấy giọng quyền uy đến mủi lòng và giọng che chở bảo hai đứa trẻ: - Đi theo tao.
- Thưa ông vâng. - Thằng lớn đáp.
Thế là hai đứa trẻ đi theo Gavroche như đi theo một vị tổng giám mục. Chúng thôi không khóc nữa.
Gavroche đưa chúng lên phố Saint - Antoine về phía ngục Bastille..Khi đi qua một lưới mắt cáo dày bằng sắt chứng tỏ đây là hiệu bánh mì bởi vì người ta đặt bánh mì đằng sau nó như đặt vàng sau lưới sắt, Gavroche quay lại: - Bọn bé này, các chú mình đã ăn cơm chưa nhỉ? - Thưa ông, - Thằng lớn đáp. - từ sớm nay chúng cháu chưa ăn gì ạ.
- Thế các chú mình không cha không mẹ ư? - Gavroche nghiêm trang nói.
- Thưa ông, xin ông tha lỗi, chúng cháu có ba mẹ nhưng chúng cháu không biết ba mẹ ở đâu.
- Nhiều khi thế mà lại hay hơn là biết cơ đấy. - Vốn là một nhà tư tưởng, Gavroche nói.
Thằng lớn nói tiếp: - Chúng cháu đi lang thang đã hai tiếng đồng hồ, tìm xem có gì ở góc các cột mốc không nhưng chẳng thấy gì cả.
- Tao biết rồi. - Gavroche nói. - Chó ăn hết rồi.
Tuy nhiên chú dừng lại, và từ vài phút nay chú lục lọi hết các ngóc ngách của mớ giẻ rách mặc trên người.
Cuối cùng chú ngẩng đầu lên với một vẻ tuy chỉ muốn tỏ ra mãn nguyện thôi nhưng thực tế hóa thành chiến thắng: - Các ông nhãi ơi, yên trí rồi. Có thứ chén cho cả ba đây rồi.
Và chú lôi từ một cái túi ra một đồng xu.
Không đợi cho hai đứa trẻ có thời giờ sửng sốt, chú đẩy hai đứa lên trước vào trong cửa hàng bánh mì, đặt đồng xu của mình lên quầy, la lên: - ông bán hàng đâu, cho năm xu bánh mì đây! Người làm bánh, cũng chính là ông chủ cửa hàng, lấy ra một chiếc bánh mì với một con dao.
- Cắt làm ba, ông bán hàng! - Gavroche nói tiếp và thêm vào một cách oai nghiêm: -Bọn này ba.
Thấy ông bán bánh sau khi ngắm nghía ba khách ăn tối lấy ra loại bánh mì nâu, chú thọc sâu ngón tay vào lỗ mũi hít mạnh một cách hống hách chẳng khác gì đầu ngón tay cái của chú là nhúm thuốc lá của Fréderic vĩ đại, ném vào mặt ông hàng bánh câu hô ngữ giận dữ sau đây: - Đolacaigi?.- Đó là bánh mì chứ còn cái gì nữa, bánh mì ngon loại hai đấy.
- ông muốn nói bánh mì đen chứ gì? -Gavroche lạnh nhạt và khinh khỉnh nói tiếp. -Bánh mì trắng, hiểu không, ông bán hàng! Bánh mì trắng! Hôm nay tôi đãi khách cơ mà! ông bán bánh không ngăn nổi một nụ cười, vừa cắt bánh mì trắng ông vừa nhìn Gavroche một cách thương hại khiến Gavroche bị chạm nọc.
- ái chà, cái ông thợ phụ lò bánh này, làm gì mà ông nhìn chúng tôi từ đầu đến chân như muốn đo xem chúng tôi cao bao nhiêu thế hả? Cả ba đứa bé chồng lên nhau chưa đủ được hai mét.
Bánh cắt xong ông bán bánh thu đồng xu, Gavroche bảo hai đứa trẻ: - Nhẵn đi! Hai đứa bé trai nhìn Gavroche sững sờ.
Gavroche bèn cười: - à phải, đúng đấy, chúng còn bé quá hiểu sao được! Và chú nói: - †n đi! Đồng thời chú đưa cho mỗi đứa một mẩu bánh.
Nghĩ rằng đứa lớn đáng để chú chuyện trò hơn do đó cũng đáng được động viên đặc biệt hơn cho nên phải được xua tan mọi ngần ngại mà ăn cho thỏa cái bụng đói, chú nói thêm với đứa lớn trong khi đưa nó phần to nhất: - Tọng vào họng súng đi! Có một phần nhỏ nhất, chú giữ lại cho mình.
Mấy đứa trẻ khốn khổ đói quá, kể cả Gavro-che.
Nhồm nhoàm ngoạm bánh, chúng làm trở ngại cửa hàng bánh mì, cho nên bây giờ khi chúng đã trả tiền xong, ông hàng bánh nhìn chúng có vẻ bực bội.
- Ta ra ngoài phố. - Gavroche nói.
Chúng nhằm hướng ngục Bastille mà đi.
Vừa ăn xong miếng bánh và đến góc con phố Ballets rầu rĩ, cuối phố có cái cửa con thấp đầy thù nghịch của sức mạnh thì có tiếng ai nói: - Này, mày đấy hả Gavroche? - Mày à, Montparnasse? - Gavroche nói.
Montparnasse và Gavroche kể cho nhau nghe những chuyện lặt vặt: tin tức nhà tù, một thằng cướp đã xổng tên là Babet, biện pháp ẩn thân ở.đất Paris khi người ta không nhà không cửa...
Qua đó Montparnasse biết Gavroche hiện nay đang ngụ trong bụng một con voi cao một mét hai, được xây dựng bằng "xương người và phấn xây" chắc thuộc một tổng thể tượng đài theo sáng kiến của Napoléon.
Gavroche dẫn hai đứa trẻ mà chú che chở tới đó, chú bắt đầu giáo dục hai đứa bằng cách dạy chúng những tiếng lóng.
Một buổi sáng Montparnasse đến tìm Gavro-che trong căn nhà kỳ quặc của chú và bảo: - Bọn tao đang cần mày đây. Đến giúp chúng tao một tay.
Thế là chú bé theo chúng, không hỏi nửa lời xem là chuyện gì.
Hóa ra chuyện giúp Brujon, Guenlemer và Thénardier đang thử vượt ngục.
Thénardier đã trốn ra khỏi xà lim nhưng đoạn dây thừng dùng để xuống phố quá ngắn.
Gravoche theo ống máng leo lên, đưa được cho Thénardier đoạn dây bị thiếu.
Vừa xuống đến đất tên chủ quán cũ hỏi ngay liệu có nên chơi một cú mới không, nghe nói có cái nhà ở phố Plumet chỉ có hai người đàn bà ở, khiến cả băng đã chú ý, chỉ riêng Eponine bảo là chỗ đó chẳng bõ bèn gì mà làm.
Gavroche bỏ bọn tù vượt ngục đấy quay về chỗ con voi, nơi hai đứa trẻ chú che chở vẫn đang ngủ ngon lành.
- Mày có nhìn cái thằng nhóc đó không thế? - Montparnasse hỏi Thénardier.
Không nhìn kỹ lắm.
- Này, tao không biết chắc lắm nhưng hình như nó là con trai mày hay sao ấy.
- Thế à, - Thénardier nói. - mày cho là thế à? Cosette và Marius tiếp tục gặp nhau mỗi buổi tối trong mảnh vườn nơi phố cổ Plumet mà Jean Valjean chẳng nghi ngờ mảy may.
Hai lần liền trong khi đi tới nơi hẹn hò Marius gặp Eponine.
Cô đi theo, ghi nhận chàng vào vườn.
Một đêm mấy tên cướp Brujon, Babet, Claquesous, Gueulemer, Montparnasse và Thénardier quyết định sẽ cướp ngôi nhà ở phố Plumet. Chúng đang chuẩn bị vượt rào sắt thì Eponine hiện ra chặn lại. Cô dọa sẽ kêu lên, gọi cảnh sát làm bọn chúng phải bỏ đi không thực hiện được cú làm ăn bẩn thỉu đó.
Trong khi cô con gái của Thénardier canh giữ hàng rào sắt thì Marius ở bên Cosette.
Chàng thấy nàng vừa mới khóc xong, nàng báo tin cho chàng biết nàng sắp đi Anh quốc.
Marius để lại địa chỉ cho Cosette khắc vào tường.
Marius nghèo, chàng không thể đi theo cô thiếu nữ được. Chính vào lúc đó chàng nghĩ đến ông chàng, lão Gillenormand, lúc này đã hơn chín mươi tuổi.
Chàng đến ông chàng, người mà thực ra trong bụng rất yêu chàng, xin phép ông được lấy vợ.
Thế là xảy ra một sự hiểu nhầm sâu sắc không sao tiêu tan được. Marius bỏ đi để không bao giờ trở lại nữa.
Mặt khác, tình hình chính trị ngày càng xấu đi và người ta đã bắt đầu nghe thấy những tiếng động khác lạ trong thành phố Paris giống như tiếng súng và tiếng la ó của quần chúng.
Cuộc nổi dậy sắp sửa chiếm lĩnh phố xá.
Vào đúng ngày hôm đó, khoảng bốn giờ chiều, Jean Valjean ngồi một mình bên bờ đoạn đất dốc trơ trụi nhất của thao trường Champ -de - Mars. Có thể vì cẩn thận, cũng có thể vì muốn tĩnh tâm hoặc đơn giản chỉ vì trong cuộc đời con người ta có những lúc muốn thay đổi thói quen chẳng biết tại sao, gần đây ông rất ít đi ra ngoài cùng với Cosette. ông mặc chiếc áo ngắn công nhân, chiếc quần vải bông màu xám, đội chiếc mũ cát có lưỡi trai dài che lấp khuôn mặt. Giờ đây ông sống bình thản và sung sướng bên cạnh Cosette. Những gì trước đây làm ông sợ hãi và bối rối nay đã tiêu tan. Nhưng từ một hai tuần nay ông lại có một nỗi lo lắng nên tính cách khác hẳn. Một hôm đang đi chơi trên đại lộ, ông bắt gặp Thénardier, nhờ ông cải trang nên Thénardier không nhận ra. Nhưng từ hôm đó Jean Valjean còn nhìn thấy Thénardier nhiều lần nữa do đó ông tin chắc Thénardier đang rình mò ở khu vực này.
Điều đó đủ để ông đi đến một quyết định lớn. Thénardier ở đâu thì ở đó có tất cả mọi nỗi hiểm nguy.
Hơn nữa Paris không yên tĩnh. Rối ren chính trị đưa đến phiền toái cho những người có chuyện.cần che giấu trong đời, hiện nay cảnh sát đang rất lo ngại và sợ bóng sợ vía những người thuộc diện ấy.
Jean Valjean quyết định rời khỏi Paris, thậm chí rời khỏi nước Pháp sang Anh quốc.
ông đã báo cho Cosette biết.
ông định khởi hành trong tám ngày nữa.
Ngồi trên bờ đất dốc ở thao trường Champ - de - Mars, biết bao ý tưởng cứ trở đi trở lại trong tâm trí ông, nào Thénardier, nào cảnh sát, nào chuyến du hành, nào khó khăn kiếm đâu cho được tấm hộ chiếu.
Mặt nào cũng làm ông băn khoăn lo lắng.
Cuối cùng, còn một việc không sao cắt nghĩa được đập vào óc ông, vẫn còn nóng hổi làm ông thêm cảnh giác.
Sáng hôm nay, mới có mình ông thức dậy, ông đi chơi trong vườn khi cửa sổ phòng Cosette còn chưa mở, bỗng nhiên ông nhìn thấy dòng chữ sau đây khắc trên tường hình như bằng một cái đinh: 16 phố Le Verrerie.
Mà khắc vừa mới đây thôi, nét chữ còn trắng tinh, nổi bật trên nền vữa đen, một khóm tầm ma mọc dưới chân tường còn vương đầy bột thạch cao mịn. Có lẽ ai đó vừa mới viết lúc đêm.
Thế là cái gì vậy? Một địa chỉ? Một tín hiệu cho những kẻ khác? Một lời cảnh báo gửi tới ông? Trường hợp nào đi nữa thì căn vườn cũng đã có kẻ xâm lăng, những kẻ lạ mặt đã vào đây. ông nhớ lại những sự kiện kỳ quặc vừa đánh động ngôi nhà. óc ông làm việc rất lung trên toàn bộ bối cảnh. ông cũng giữ kín chuyện dòng chữ trên tường không nói cho Cosette biết sợ làm nàng kinh hãi.
Giữa những nỗi lo lắng ưu tư ấy ông thấy mặt trời in hình một cái bóng trên đầu bờ đất dốc, ngay đằng sau ông.
Định quay lại thì một mảnh giấy gấp tư rơi vào lòng ông. ông nhặt mảnh giấy, mở ra và đọc những chữ lớn sau đây viết bằng bút chì.
Dọn nhà đi! Jean Valjean vội đứng dậy nhưng chẳng thấy ai trên bờ đất dốc cả. Tìm mãi quanh mình ông chỉ nhìn thấy bóng một người, lớn hơn trẻ con nhưng nhỏ bé hơn một người đàn ông, mặc áo bờ lu xám, quần nhung bông màu bụi, rảo bước về phía ụ đất và luồn vào đường hào của thao trường Champ - de - Mars..Jean Valjean về nhà ngay và càng suy nghĩ tợn.
Còn Marius thì thất vọng ra khỏi nhà ông lão Gillenormand.
Chàng bắt đầu thả bộ trong phố xá, cội nguồn của những con người đau khổ. Marius tỉnh dậy trong nhà Courfeyrac, khi Courfeyrac hỏi chàng: - Cậu có đi đưa ma tướng Lamarque không? Chàng tưởng Courfeyrac nói tiếng Tàu.
Chàng đi ra đường sau Courfeyrac ít lâu.
Chàng bỏ túi khẩu súng lục mà Javert đã giao cho chàng vào hôm xảy ra sự kiện 3 tháng hai mà chàng vẫn còn giữ. Súng vẫn nạp đạn. Khó mà nói được chàng có ý nghĩ đen tối nào trong đầu.
Chàng sốt ruột kinh khủng đợi đêm đến.
Trong chàng chỉ có mỗi một ý nghĩ rõ ràng là chín giờ tối nay sẽ gặp Cosette. Hạnh phúc cuối cùng này giờ đây là toàn bộ tương lai chàng còn sau đó chỉ là bóng tối.
Trong khi cất bước trên các đại lộ vắng vẻ nhất, thỉnh thoảng hình như chàng nghe thấy những tiếng động lạ trong thành phố Paris. Đầu óc chàng ra khỏi cơn mơ, chàng tự hỏi: người ta đánh nhau chăng? Đêm xuống, chín giờ đúng, theo hẹn với Cosette, chàng tới phố Plumet. Tới gần tấm rào sắt, chàng quên hết. Đã bốn mươi tám giờ nay chàng chưa gặp Cosette, chàng sẽ gặp lại nàng.
Mọi ý nghĩ khác biến mất hết, chàng chỉ còn một niềm vui sâu sắc, phi thường. Những giây phút đang trôi qua, đang tràn ngập trái tim ta là những phút ta tưởng như trông thấy hàng bao thế kỷ, bao giờ chúng cũng tuyệt vời, như ngự trị hồn ta.
Marius dỡ tấm rào sắt, vội vã bước vào vườn.
Cosette không ngồi ở ghế đá chờ chàng như mọi khi. Chàng qua lùm cây bước tới chỗ thụt vào ở gần thềm nhà.
- Có lẽ nàng đợi mình ở đây chăng. - Chàng tự nhủ.
Cosette không có ở đấy.
Chàng nhướng mắt thấy các cửa sổ của ngôi nhà đều đóng kín. Chàng đi một vòng quanh vườn, vườn vắng ngắt. Thế là chàng tới sát ngôi nhà. Yêu đến mất trí, say đắm, hãi hùng, kiệt lực vì đau khổ và lo lắng, chàng đập vào cánh cửa chớp tựa như một ông chủ trở về nhà mình vào một giờ khuya khoắt. Chàng đập cửa, đập mãi, chỉ sợ cánh cửa sổ mở ra và bộ mặt tối sầm của người cha xuất hiện.
- Cosette! - Chàng kêu to. - Cosette! - Chàng nhắc lại, giọng khẩn thiết.
Chẳng ai trả lời. Thế là hết.
Vườn không có ai. Nhà cũng chẳng có ai.
Marius nhìn đăm đăm vào ngôi nhà u ám vừa đen ngòm vừa lặng lẽ, trống rỗng như một nấm mồ. Chàng nhìn chiếc ghế đá nơi đã cùng Cosette trôi qua bao giờ phút yêu dấu. Chàng ngồi xuống mấy bậc thềm, lòng tràn ngập niềm dịu dàng và quyết tâm, tận sâu trong tâm tưởng chàng lấy làm sung sướng vì mối tình của mình, bụng bảo dạ Cosette đã đi thì ta chỉ còn nước chết.
Bỗng nhiên chàng nghe thấy có tiếng gọi từ ngoài phố vẳng qua cây cối: - ông Marius! Chàng đứng dậy.
- ông Marius có đấy không? - Có.
- ông Marius, - Giọng đó nói tiếp. - các bạn ông đang chờ ông ở chiến lũy phố Chanvrerie.
Giọng nói này chàng nghe quen quen, giống như giọng khàn khàn của Eponine.
Chàng chạy ra hàng rào sắt, thò cổ ra và thấy một người giống một chàng thanh niên chạy bổ vào trong ánh hoàng hôn..
Chương 8
Trên chiến lũy
Những cụm nhà và những căn nhà được đẽo gọt một cách kỳ quặc, đặt đây đặt đó như vô tình, chỉ hơi cách xa nhau một chút xíu -giống như những tảng đá trên công trường -bằ ng những kẽ hở rất hẹp.
Ta gọi là kẽ hở hẹp bởi vì nếu không gọi thế thì không sao có được ý niệm đúng về những con phố tối tăm chật hẹp, khúc khuỷu, hai bên là những ngôi nhà nát tám tầng. Những ngôi nhà này lụ khụ đến nỗi ở các phố Chanvrerie và Petite - Truanderie, mặt ngoài phải chống bằng xà từ nhà này qua nhà kia. Phố thì hẹp mà rãnh nước lại rộng, khách bộ hành qua đó phải dò dẫm trên vỉa hè lúc nào cũng ẩm ướt, dọc theo những cửa hàng giống những cái hang, những cột mốc có sắt bao quanh, những đống rác to quá mức, những cửa ra vào có cốt là lưới sắt từ đời nảo đời nào.
ở cuối một trong những con phố hẹp đó là quán rượu của bà Hucheloup hiện đang bị những người nổi dậy chiếm đóng, những người này đã lập tức bóc ngay đá lát đường, lật đổ một chiếc xe chở khách để dựng lên một chiến lũy.
Courfeyrac ở đó cùng với Enjolras, Joly, Gavroche và những người khác nữa đi theo nhóm thợ thuyền vũ trang.
Một chiến lũy nhỏ hơn cũng đang được dựng lên ở góc quán cà phê Hucheloup.
Rượu cứ chảy trong khi ở trong bếp người ta nấu tất cả những vật bằng thiếc có thể tìm được trong một cái khuôn đúc đạn.
Tất cả mọi người đều làm việc ở chiến lũy nhỏ, ai cũng muốn mình trở thành có ích. Gavro-che tham gia ở chiến lũy lớn. Hoàn toàn bay bổng vào rạng rỡ, chú phụ trách việc phát động tinh thần. Chú đi lại, chú leo lên, chú trèo xuống, rồi lại leo lên, chú xì xà xì xầm, chú bốc lửa. Tựa như chú ở đó để động viên tất cả mọi người.
Chú có niềm khích lệ nào không? Có, hẳn là có: sự khốn cùng của chú. Chú có đôi cánh nào không? Có, hẳn là có: niềm vui của chú. Chú là một cơn lốc. Lúc nào người ta cũng thấy chú, ở đâu cũng nghe tiếng chú. Chú làm đầy ắp không.khí, cùng một lúc chú ở tất cả mọi nơi, chú không dừng lại lúc nào. Cả một chiến lũy to lớn cảm thấy sự có mặt của chú. Chú quấy rầy những kẻ ngồi không, kích động những kẻ lười nhác, chú làm những người đang mệt phải hồi tỉnh, những người đang suy tư phải sốt ruột lên, chú làm người này vui, người kia căng thẳng, kẻ khác nữa thì tức giận, tất cả đều trở nên hoạt động. Chú châm chọc một anh sinh viên, nói khích một người thợ, đứng đó, dừng lại, rồi lại đi, bay bổng trên sự náo nhiệt, rì rầm, vo ve, quấy rối đoàn ngựa kéo; chú là con người lăng xăng, là con ruồi vo ve quanh cỗ xe cách mạng vĩ đại.
Hai cánh tay bé nhỏ của chú khua lên không dứt, tiếng la hét từ hai buồng phổi nhỏ xíu của chú vang lên những lời bất diệt.
- Hăng hái lên! Thêm đá lát đường nữa vào! Thêm các thùng ton-nô, thêm các cái gì nữa vào! Chiến lũy của các vị nhỏ quá. Phải cao nữa lên.
Chất tất cả mọi thứ vào đó! Quẳng tất cả vào đó! Tống tất cả vào đó! Đập cả nhà ra.
Chú hò hét không ngừng: - Một khẩu súng! Tôi muốn một khẩu súng! Tại sao lại không cho tôi một khẩu súng? - Em mà cầm súng ấy à? - Này nhé, - Gavroche đập lại. - tại sao không? Hồi năm 1830, khi người ta đấu với Charles X em chẳng có một khẩu là gì? Enjolras nhún vai.
- Khi nào người lớn đủ súng đã, rồi mới đến trẻ con.
Gavroche quay lại một cách kiêu hãnh và trả lời Enjolras: - Anh mà chết trước em, em sẽ lấy súng của anh.
- Nhóc con! - Enjolras bảo.
- Anh nhãi con thì có! - Gavroche cãi lại.
Hai chiến lũy dựng xong, cờ đỏ giương lên, một cái bàn được kéo ra khỏi quán rượu, Cour-feyrac đứng lên đó. Enjolras đem đến một cái hòm vuông và Enjolras mở ra. Trong đầy đạn.
Trông thấy đạn, những người dũng cảm rùng mình. Một lát im lặng.
Courfeyrac vừa cười vừa phân phát cho mọi người.
Mỗi người nhận ba mươi viên đạn. Nhiều người đã có thuốc súng và họ bắt đầu nhồi thêm đạn với những vỏ đạn đã nấu ở trong kia. Thùng.thuốc súng thì đặt trên một cái bàn riêng ở gần cửa, để dành.
Người ta bắt đầu nạp đạn vào súng trường và súng các-bin, tất cả các súng, họ làm việc này với vẻ trịnh trọng trang nghiêm. Enjolras đặt ba người gác bên ngoài chiến lũy, một ở góc Chan-vrerie, người thứ hai phố Prêcheurs, người thứ ba góc phố Petite - Truanderie.
Rồi, sau khi các chiến lũy đã dựng xong và đã chỉ định xong các vị trí canh gác, súng đã nạp đạn hết, nghĩa quân chỉ còn lại một mình trong những con phố đáng sợ. Không còn ai qua lại nữa, vây bọc bởi những ngôi nhà câm lặng như đã chết, không còn mạch đập nào của hoạt động con người, bao trùm trong những bóng tối ngày càng gia tăng của ánh hoàng hôn bắt đầu buông xuống, giữa cảnh tối tăm vắng lặng mà người ta cảm thấy có một cái gì đang tiến tới gần, một cái gì bi thảm và kinh hoàng. Chỉ còn mình họ, cô lập, vũ trang, kiên quyết, bình thản, họ chờ đợi.
Đêm đã xuống hẳn. Người ta nghe thấy những tiếng rì rào mờ ảo, chốc chốc lại điểm thêm tiếng súng nhưng thưa thớt, hết ngay và ở xa xa. Sự ngừng lại khá lâu này là dấu hiệu chính phủ đang tranh thủ thời gian thu thập lực lượng.
Năm mươi người ở đây đang chờ sáu mươi ngàn quân lính.
Rõ ràng là đã có một sự kiện xảy tới với Gavroche. Tất cả mọi bộ phận trong con người chú đều hoạt lên, bản năng của chú cũng đang đánh hơi kết hợp với trí thông minh phán đoán.
- Em người nhỏ bé, - Enjolras bảo. - họ không nhìn thấy em. Em hãy ra khỏi chiến lũy, luồn dọc theo dãy nhà, tới phố này phố khác rồi trở về cho anh biết ở ngoài đó đang xảy ra chuyện gì.
Gavroche vươn thẳng người: - Bé thế cũng được việc cơ đấy! Sướng thật! Em sẽ đi. Trong khi chờ đợi anh hãy cứ tin ở bọn bé, hãy cảnh giác với bọn lớn...
Gavroche vừa nói vừa ngẩng đầu lên, hạ giọng nói thêm và chỉ vào một người đàn ông ở phố Billettes: - Anh có trông thấy cái thằng lớn kễnh kia không? Mật thám đấy. Cách đây mười lăm ngày hắn vừa xách tai em trong khi em đang hóng mát trên cầu Royal..Enjolras vội bỏ thằng bé, thì thầm gì đó với một công nhân làm việc dưới cảng chuyên chở rượu đang đứng đó. Anh công nhân ra khỏi phòng và ngay sau đó trở vào cùng với ba người nữa. Họ tới đứng sau lưng người đàn ông phố Billettes, sẵn sàng lao vào hắn.
Lúc đó Enjolras tiến tới trước mặt người đàn ông và hỏi: - ông là ai? Trước câu hỏi đột ngột này người đàn ông giật mình. Hắn cười, một cái cười làm bặt hết tất cả những gì là khinh bỉ nhất, cương nghị nhất và quyết liệt nhất trên đời và trả lời với giọng trang trọng kiêu kỳ: - Ta là viên chức chính quyền. Ta tên là Javert.
Trong nháy mắt trước khi Javert kịp có thì giờ quay người, hắn đã bị vít cổ xuống, đè ra đất, trói lại và lục tìm khắp người.
Gavroche chứng kiến toàn bộ cảnh này, gật đầu im lặng tán thành. Chú tới gần Javert và bảo hắn: - Đấy là chuột nhắt bắt con mèo đấy! Rồi chú nhóc giơ tay chào kiểu quân sự, vui vẻ nhảy tót qua cái hố ngăn cách của chiến lũy lớn.
Tiếng nói trong buổi hoàng hôn gọi Marius đến chiến lũy phố Chanvrerie đối với chàng có tác dụng như tiếng nói của định mệnh.
Chàng muốn chết, thì đây cơ hội đã tới.
Chàng gõ cửa nhà mồ thì một cánh tay trong bóng tối đã đưa cho chàng chìa khóa.
Chàng đi rất nhanh. Chuông mười giờ đã điểm ở Saint - Merry. Trong chiến lũy không ai nói với ai, mọi người đều lắng nghe, cố nhận ra tiếng bước chân khẽ nhất và ở xa nhất.
Bỗng nhiên, giữa cái bình lặng thê thảm ấy, một giọng hát trong trẻo, trẻ trung, vui tươi cất lên, hình như từ phố Saint - Denis, nghe rất rõ, đó là điệu dân ca cổ Dưới ánh trăng, một bài thơ có câu sau cùng giống tiếng gà gáy: Mũi tôi chảy nước mắt ông bạn Bugeaud của tôi ơi Hãy cho tôi mượn bọn hiến binh Để tôi bảo chúng một lời Bọn mặc áo ca-pốt xanh Trên mũ sa-cô có con gà mái Ngoại thành đây rồi! Cô - cô - cô - ri - cô! - Đó là Gavroche, chú báo cho ta biết là chú đã về đấy. - Enjolras nói.
Hành trình vội vã của chú làm kinh động cả con phố hoang vu. Người ta trông thấy một bóng người còn nhanh nhẹn hơn cả thằng hề, trèo lên chiếc xe chở khách nhảy thoắt vào trong chiến lũy. Gavroche vừa thở hổn hển vừa nói: - Súng của tôi đâu! Chúng đến rồi kia kìa! Một cái rùng mình như điện giật chạy qua suốt chiến lũy, người ta nghe thấy tiếng những bàn tay quờ tìm súng.
- Em có muốn khẩu các-bin của anh không? - Enjolras bảo chú nhóc.
- Em muốn cái súng to kia cơ. - Gavroche trả lời.
Và chú cầm lấy khẩu súng của Javert.
Mỗi người đều đứng vào vị trí chiến đấu.
Bốn mươi ba nghĩa quân quỳ bên trong chiến lũy lớn, đầu ngang bờ lũy, nòng súng trường và nòng súng các-bin chĩa trên đá vỉa hè như chĩa từ các lỗ châu mai, chú ý, câm lặng, sẵn sàng nhả đạn.
ít phút trôi qua như thế, sau đó nghe có nhiều tiếng bước chân thận trọng, nặng nề ở phía Saint - Leu. Hình như nghe thấy tiếng thở của nhiều người ở đầu phố. Tuy nhiên không ai nhìn thấy gì, tít tận xa xa trong bóng tối dày đặc người ta chỉ phân biệt được rất nhiều sợi kim loại mảnh như cây kim gần như không thấy được đang lay động, tựa như một màng lưới lân tinh khó tả xuất hiện dưới đôi mi khép kín trong đám sương mù của giấc ngủ lúc mới chập chờn.
Đó là những lưỡi lê, những nòng súng trường trông mờ mờ ảo ảo do phản xạ lại ánh sáng ngọn đuốc ở xa xa.
Thêm một quãng thời gian nghỉ nữa: cả hai bên đều chờ đợi.
Bỗng nhiên tận thẳm sâu trong bóng tối có một giọng cất lên, nghe càng thê lương vì không thấy người đâu hầu như chính tự bóng tối kêu lên vậy: - Ai? Đồng thời có tiếng súng lên đạn lách cách.
Enjolras trả lời, giọng rung vang và kiêu hãnh:.- Cách mạng Pháp.
- Bắn! - Giọng nói tiếp lời.
Một ánh chớp đỏ rực mặt phố tựa như một cánh cửa của lò lửa cực lớn mở ra rồi đóng lại ngay.
Một tiếng nổ kinh hoàng vang lên trong chiến lũy. Lá cờ đỏ rơi xuống. Phát bắn quá mạnh tiện đứt luôn cán cờ.
Nhiều viên đạn nảy thia lia qua các mái nhà, xuyên qua chiến lũy làm rất nhiều người bị thương.
- Nhặt lá cờ lên! Ai lên cắm lại lá cờ trên chiến lũy nào? Không ai trả lời.
Trèo lên chiến lũy vào lúc mà người ta đang ngắm bắn tiếp có khác gì đi vào cái chết. Đến người can đảm nhất cũng ngại ngần tự kết án mình.
ông cụ Mabeuf đi thẳng tới Enjolras, các nghĩa quân trước mặt cụ giạt ra hai bên với một nỗi sợ hãi kính cẩn, cụ giật lấy lá cờ từ tay En-jolras trong khi Enjolras lùi lại, lúc đó chẳng còn ai dám ngăn cụ hay giúp đỡ cụ nữa, cụ già đã tám mươi tuổi ấy, đầu thì lắc lư nhưng hai chân vững vàng, bắt đầu chậm chạp leo lên mấy bậc thang do đá lát vỉa hè tạo nên ở chiến lũy.
Quang cảnh vừa ảm đạm vừa hào hùng làm sao, đến nỗi mọi người xung quanh cụ đều kêu lên: Tất cả hãy ngả mũ! Mỗi bước cụ bước lên đều đáng khiếp sợ, mái tóc bạc trắng, khuôn mặt già nua, trán hơi nhăn nheo, đôi mắt trũng xuống, cái miệng hé mở ngạc nhiên, cánh tay già cỗi giương cao lá cờ đỏ, nhô ra từ bóng tối và lớn dần lên trong ánh đuốc đẫm máu, người ta tưởng lại nhìn thấy bóng ma của năm 93 từ lòng đất đi lên với lá cờ kinh hãi trong tay.
Lên tới bậc cao nhất, khi cái bóng ma run rẩy và khủng khiếp này đứng trên đống vôi gạch đổ nát, trước mặt một ngàn hai trăm tay súng vô hình, ưỡn thẳng người lên trước mặt cái chết như thể mình mạnh hơn cái chết, toàn bộ chiến lũy trong bóng tối thấy một dáng hình siêu phàm và khổng lồ.
Đây là một trong những cái im lặng chỉ có thể có được trong những chuyện kỳ diệu. Giữa cái im lặng đó cụ già vẫy lá cờ và hô to:.- Cách mạng muôn năm! Cộng hòa muôn năm! Bác ái, bình đẳng! Cái chết! Cụ Mabeuf, nhợt nhạt, ngơ ngác, hai con mắt sáng rực những ánh lửa bi thảm trong cơn điên say, giơ cao lá cờ lên ngang trán và hô to một lần nữa: - Cộng hòa muôn năm! Một loạt đạn thứ hai như làn mưa rơi xuống chiến lũy. Cụ già quỵ gối rồi lại đứng dậy, để rơi lá cờ và ngã ngửa xuống mặt hè như một tấm ván nằm sóng sượt, hai tay giang ra thành hình chữ thập.
Những dòng suối máu tuôn ra từ dưới thân cụ.
- Hỡi anh em! Đây là tấm gương cụ già đã nêu cho lớp trẻ chúng ta. Chúng ta ngần ngừ nhưng cụ đi tới! Chúng ta lùi lại nhưng cụ tiến lên! Đây là những gì mà những người run lên vì tuổi già dạy cho những người run lên vì sợ hãi! Cụ đã sống, đã có một cái chết huy hoàng, sự có mặt của cụ đã khiến chiến lũy của chúng ta trở nên kiên cố không ai đánh chiếm được! Có tiếng rì rầm buồn bã và cương nghị tiếp theo những lời nói này.
Enjolras cúi xuống nâng đầu cụ, hôn lên trán cụ một cái hôn mãnh liệt, rồi giang tay cụ ra với một vẻ thận trọng, cực kỳ dịu dàng tựa như sợ làm cụ đau đớn, chàng cởi bỏ áo cụ ra, chỉ cho mọi người những lỗ thủng đẫm máu và nói: - Từ lúc này, đây là lá cờ của chúng ta.
Trong thời gian này một mình chú bé Gavro-che không rời nơi quan sát của mình, chú nhìn thấy có nhiều người đang rón rén lại gần chiến lũy. Chú chợt kêu lên: - Mọi người hãy cảnh giác! Không còn kịp nữa. Người ta thấy đầy những lưỡi lê sáng loáng nhấp nhô trên bề mặt chiến lũy. Vệ binh thành phố, toàn những tên cao lớn tràn vào, kẻ thì giẫm lên chiếc xe chở khách, kẻ thì len qua khe hở, đẩy chú bé lên đằng trước chúng, chú lùi lại nhưng không trốn chạy.
Giây phút thật là căng thẳng.
Một tên vệ binh khổng lồ, to lớn nhất bọn tiến tới Gavroche, giơ lưỡi lê ra. Chú nhóc lấy hai cánh tay bé nhỏ cầm khẩu súng của Javert và bóp cò. Súng không nổ. Javert không nạp đạn.
Tên vệ binh cười phá lên và đưa lưỡi lê vào người chú bé..Nhưng trước khi lưỡi lê chạm vào người chú bé, tên vệ binh bỗng buông súng, một viên đạn bắn vào giữa trán hắn và hắn ngã vật ra.
Đó là Marius vừa bước vào chiến lũy.
Marius, vẫn nấp trong khúc ngoặt ở phố Mondétour, đã chứng kiến giai đoạn đầu của cuộc chiến đấu, rùng mình chưa biết nên quyết định thế nào. Tuy nhiên chàng không kháng cự được lâu sự cám dỗ bí mật và cao độ tột cùng cái người ta gọi là tiếng gọi của vực thẳm.
Marius không có vũ khí, chàng vứt khẩu súng lục nay không còn đạn nữa, nhưng chàng đã trông thấy hòm thuốc súng trong căn buồng thấp, bên cạnh cửa ra vào.
Chàng vừa quay được nửa người nhìn ra phía đó thì một tên lính nhằm bắn chàng. Vừa lúc tên lính ngắm đúng Marius thì một bàn tay đặt vào họng súng bít lại. Đó là anh thợ trẻ mặc quần nhung bông nhào tới. Viên đạn xuyên qua bàn tay, có lẽ cả người anh thợ, vì anh ta ngã xuống, nhưng viên đạn thế là không chạm vào Marius. Tất cả ngập trong khói, khói đắng ngắt làm người ta ngạt thở, trong đó vẳng lên tiếng rên rỉ yếu đuối của những người hấp hối và những người bị thương. Bọn tấn công bỏ họ lại đấy, hỗn độn tháo lui ra ngoài phố và mất hút trong đêm.
Mạnh thằng nào thằng ấy chạy. Chiến lũy được giải tỏa..
Nguồn: http://vnthuquan.net/