4/4/13

Hiệp sĩ Sainte Hermine (C112-114)

Chương 112: Hai chàng trai chia tay, một người tiếp tục chiến đấu bên tướng quân Murat, người kia đến xin tòng quân dưới quyền tướng Reynier

Ngày hôm sau, Manhès và bá tước Léo thuận theo lời mời của vua Joseph đi săn lợn lòi ở Asproni. Họ thích có trong thực đơn con mồi của vùng Capodimonte. Họ đã bắn được mười hai con và phải dùng xe kéo, thịt được chia đều cho các binh lính.
Vốn tự hào về thành Naples của mình, ông Saliceti đòi hai chàng trai lưu lại năm, sáu ngày để thưởng ngoạn cảnh trí và chính ông cũng theo họ đi vài chuyến dã ngoại.
Họ đi thăm Nisida, thành cổ của Lucullus, thăm Pouzzole từng là cố đô của Campanie, thăm đền Sérapis, xem những gì còn lại của cây cầu Caligula, tới hồ Lucrin đến bên dòng sông mà Énée đã hái cành vàng giúp mình mở cánh cửa địa ngực và cuối cùng đến Achéron. Bằng một con đường tuyệt đẹp trải một tấm thảm cây xanh và cây thạch thảo vàng, họ đến vùng biển Misène nơi người La Mã từng có những hạm đội thuyền chiến do Pline l'Ancien làm đô đốc. Chiến hạm đã tách một thuyền để lại gần xem hiện tượng núi lửa Vésuve và bị cát chôn phủ giữa Stabia và Pompei. Họ còn tới thăm Baies(1) nơi Cicéron từng xây một toà nhà mà chính ông ta cũng không dám thừa nhận vì tiếng xấu trong cách tắm ở đó. Họ cũng đến Bauli xem gác chuông ngoại đạo ánh lên dưới nắng mặt trời nơi hình như Néron đã giảng hoà với mẹ mình, hôn lên ngực bà trước khi chia tay, một cử chỉ bày tỏ sự chú ý và tôn trọng của một người con trai dành cho mẹ.
Cách đó chừng một trăm bước là chiếc thuyền mạ vàng dẫn bà đến toà nhà Baies. Agrippine không kêu cứu, không hò hét đã bơi đến ngôi nhà của mình và được các nô lệ chào đón. Những chỉ một tiếng sau, khi Anicetus đến, bà đã buông ra câu nói khủng khiếp cuối cùng với con trai: Fen Ventrem (Hãy đâm vào bụng!).
Bà đã trừng phạt kẻ giết cha như vậy.
Qua một miền cảng Naples, họ trở lại Poltici, Tolte del Greco, Castellammare, nơi từng lấy tên một pháo đài bị đổ đặt cho mình.
Mặc những nguy hiểm khi phải qua rừng La Cava để đến Salerme, hai chàng trai không thể cưỡng lại ý muốn tới thăm đền Paestum và đi viết tên của mình lên những công trình từ thời Hy Lạp cổ đại đã bị đổ nát từ thời hoàng đế Auguste.
Giữa đám cây ngấy và đám cỏ cao khổng lồ mọc chắn lối vào những kỳ quan của thời cổ đại, René phải nhọc công lắm mới tìm được những bông hồng mà ở Naples bày đầy trong các giỏ, để đặt lên bàn của Apicius và Lucullus.
Một con rắn hốt hoảng khi nghe tiếng động, lao ra khỏi bụi cây ngấy, cuộn tấm thân vàng choé thành từng vòng trên những tấm lát xỉn màu rồi mất hút trong khoảng để tượng trong đền.
Có lẽ đó là vị thần canh giữ chốn hoang vu này.
Khi trở lại, họ dừng chân ở Salerme để thám lăng mộ của giáo hoàng Grégoire VII người sau khi truy hại cha mình là vua Henri Đệ tứ nước Đức đã lại bị ông ta đánh trả. Trước khi chết ông đã ra lệnh khắc trên bia dòng chữ:
Ta đã yêu công lý, ta đã chạy trốn sự bất công, chính thế mà ta chết trong nghèo đói và lưu đày.
Cuối cùng đã đến lúc phải chia tay thành Naples tuyệt đẹp và lòng hiếu khách của ông Saliceti. Léo và Manhès kết nghĩa anh em rồi chia tay.
Riêng với bá tước Léo, ông Saliceti khuyên anh nên chờ một đội quân sắp đi Calabre để đi cùng họ. Nhưng René đâu phải là người quá lo lắng đến mạng sống của mình đến vậy. Khi được biết anh sẽ đến đầu quân cho tướng Reynier mà người ta không biết giờ này ông ở đâu do mọi tin tức đều bị gián đoạn, có chăng thì ông ta đang ở Amantea hay Cotrone; thế là anh tuyên bố tự mình sẽ đến gặp ông ta.
- Anh chỉ cần xưng tên - ông Saliceti nói - ông ấy sẽ biết mình phải liên kết với anh để đạt kết quả tốt nhất.
Tiểu thư Lavello muốn chìa tay cho anh hôn nhưng anh chỉ cúi mình trước người con gái đẹp ấy và nói:
- Thưa quý cô, một ân huệ như vậy phải dành làm phần thưởng chứ không phải cho một lời động viên.
René trèo lên con ngựa tuyệt đẹp mà người ta chuẩn bị cho anh trước cửa dinh của ông Saliceti, ông này bảo đó là một món quà của vua Joseph. René mặc bộ quân phục sĩ quan cấp thấp, súng cạc bin trên cốt yên ngựa, hai khẩu súng ngắn bên thắt lưng gọn gàng rồi ra đi bỏ mặc lời khuyên của ông Saliceti bảo nên chờ thêm.
Ngày ngày đầu tiên, anh đã ngủ tại Salerme. Con ngựa của anh chỉ nghỉ hai tiếng trong lúc tiết trời nóng nực nhất, sau đó nó có thể chạy mười tiếng một ngày không biết mệt.
Ngày thứ hai, anh đến Capaccio. Tại đây, anh hỏi thăm và biết đường sẽ rất khó đi vì vừa chằng chịt đan xen nhau lại vừa có những băng cướp nằm cách xa quân đội Pháp ở Naples. Chúng chặn mọi tin tức giữa thủ đô và tướng quân. Người ta còn đồn tướng Stuart của nước Anh đã đưa đội quân khoảng năm đến sáu nghìn và ba trăm tù khổ sai vào vịnh Sainte-Éuphénie.
Không vì thế mà René không đến Capaceti. Anh chẳng lo đường khó đi hay bọn cướp. Ngày thật dài. Anh phải đến Lagonegro và dọc đường không có mái nhà nào, anh thận trọng cho vào túi bánh mì, thịt gà và một chai rượu vang.
Đi được năm tiếng từ lúc tờ mờ sáng, anh bắt gặp một ngã tư và ba ngã rẽ phơi ra trước mắt anh đây là khó khăn đầu tiên như người ta đã báo trước. René tin sẽ gặp được ngôi sao may mắn như Fouché tưởng đã thấy trong cơn bão của ông ta.
Anh xuống ngựa, đặt khẩu cạc bin, hai khẩu súng ngắn và chai rượu vang trong tầm tay phải, đặt thịt gà và bánh mì trong tầm tay trái rồi ngồi xuống ăn bữa trưa thản nhiên như trong công viên Asproni hay ở Capodimonte.
Anh hy vọng sẽ gặp vài nông dân đi ngang qua và chỉ đường cho anh. Anh đã không nhầm. Vừa xẻ chỗ thịt gà và uống được phần tư chai rượu, anh đã nghe thấy tiếng ngựa rồi thấy xuất hiện một người như thợ cối xay trắng xoá vì bột, một con mắt bị che dưới cái khăn mùi xoa, cái mũ rộng vành che gần nửa khuôn mặt.
René gọi anh ta.
Nghe giọng nói, ông phó cối dừng ngay ngựa lại, đưa con mắt còn lại nhìn người vừa nói với mình.
- Này bạn hữu - René hỏi - Anh có khát không?
René chìa chai rượu ra.
- Lại đây uống đi. Anh có đói không?
Anh chìa thịt gà ra.
- Lại đây ăn đi.
Người đàn ông nọ vẫn không nhúc nhích.
- Ông đâu có biết tôi - Anh ta nói.
- Nhưng anh, anh biết tôi đấy. Tôi là người lính Pháp. Anh sẽ nói cho tôi trong ba con đường kia, đường nào dẫn đến chỗ quân đội và chúng ta sẽ chia tay. Nếu anh muốn kiếm vài đồng louis anh sẽ dẫn đường cho tôi.
- Tôi không đói cũng không khát - Người đàn ông đáp - Nhưng tôi sẽ dẫn đường cho ông.
- Tốt lắm.
Người nông dân vẫn ngồi nguyên trên lưng ngựa.
René tiếp tục ăn trưa. Ăn xong, anh để chai rượu, bánh mì vừa con gà lại cho người nào đói đi ngang qua rồi lên ngựa, chìa một đồng louis cho người nông dân bảo:
- Anh đi trước đi, đây là tiền đặt cọc.
- Cảm ơn - Người đàn ông nọ đáp - Nếu ông hài lòng, ông sẽ trả nó cùng với chỗ còn lại một thể.
Người nông dân đi trước, René đi theo sau anh ta. Dù nhìn con ngựa của anh ta cà tàng nhưng nó lại phi rất nhanh khiến cho René rất hài lòng vì thấy chuyến đi của mình không bị chậm lại.
Họ đến Lagonegro suôn sẻ. René nhận ra trong suốt dọc đường người dẫn đường của mình đã nói vài lời với những người bất thình lình xông ra từ cánh rừng hai bên đường, đám người ấy lẩn đi ngay lập tức. Anh đoán người dẫn đường của mình là người trong vùng nên quen biết những kẻ kia.
René ăn tối rất ngon. Anh gọi một suất ngon tương tự cho người đưa đường của mình và dặn gọi anh dậy từ sớm hôm sau.
Ngày mai anh phải đến Laino hay Rotonda: một ngày dài với hơn chục dặm đường nữa đang chờ anh.
Ngày hôm sau diễn ra như mấy ngày trước, con ngựa của người thợ xay bột cũng vẫn giữ được nước chạy như trước, với nước chạy ấy, người ta có thể đi được hai dặm một giờ. Dọc đường sau những mỏm đá lớn, ở giữa khu rừng thưa, người dẫn đường tiếp tục gặp vài người quen. Anh ta nói vài câu và những người kia lẩn đi.
Ngày hôm sau nữa, thay vì đi theo đường lớn, nếu ở Calabre vào thời đó có được con đường đáng được gọi là đường lớn, người dẫn đường lại đưa René rẽ phải, bỏ lại Cosenza phá bên trái.
Đêm ấy họ ngủ lại San Mango.
René hỏi thăm và biết chỉ còn vài dặm nữa là đến chỗ quân đội Pháp đang đóng quân bên vịnh Sainte-Éuphénie. Anh nhận ra những câu trả lời dành cho anh có vẻ rất xấc và ông chủ tỏ vẻ mặt khó chịu với anh.
- Vậy là anh đối xử với ông ta theo cách coi ông ta là kẻ khôn ngoan. Thế là ông ta kính cẩn đưa chìa khoá và cây đèn của mình cho anh.
René lên phòng và thấy chìa khoá ở chốn này là một thứ đồ xa xỉ vì cánh cửa chỉ khẽ níu với chiếc đinh bằng một sợi chỉ.
Anh vào phòng thấy một thứ có hình dạng như cái giường bèn để nguyên quần áo ngả lưng xuống đó không quên cẩn thận đặt khẩu súng cạc bin và hai khẩu súng ngắn lên bàn ngay cạnh đó.
Anh mới chỉ ngủ được một tiếng thì nghe thấy tiếng bước chân trong phòng bên cạnh. Những bước chân ấy lại gần cánh cửa René trong lúc chờ cánh cửa mở ra với một khẩu súng ngắn sẵn sàng nhả đạn.
Nhưng anh rất lấy làm lạ, cánh cửa rung rung hai lần mà không mở ra. Anh cầm súng tự mình đi ra mở và thấy một người đàn ông ngủ bên ngoài. Anh cúi xuống nhìn và nhận ra đó là người đưa đường của mình.
- Vì Chúa, - Người này nói - ông đừng ra khỏi đây.
- Sao vậy? - René hỏi.
- Ông chưa đi được mười bước đã bị giết rồi.
- Thế anh làm gì ở đây?
- Tôi canh cho ông - Người đưa đường nói.
René đăm chiêu trở lại giường, thả mình xuống đó rồi thiếp đi.
Hình như anh đã nghe thấy giọng nói này ở đâu đó.
Chú thích:
(1) Thành phố nước cổ xưa, nơi giải trí của người La Mã

Chương 113: Tướng quân Reynier

Tướng Reynier, người mà René sắp đến gặp, vào năm 1792 nhờ sự tiến cử của tướng La Harpe đã được bổ nhiệm vào ban tham mưu cho tướng quân Dumouriez với tư cách là trợ lý. Nhanh chóng trở thành sĩ quan tuỳ tùng của tướng Dumouriez, ông được tham gia chiến dịch Hà Lan lừng danh khi mà các trung đoàn kỵ binh nhẹ của địch phải bỏ chạy bằng chiếm hạm rồi đâm vào băng gần đảo Texel. Nhờ chiến dịch này, ông được phong thiếu tướng và nhanh chóng làm trưởng ban tham mưu quân đội sông Rhin do tướng Moreau chỉ huy.
Bonaparte từng đưa ông sang Ai Cập và tin tưởng giao cho ông chỉ huy một sư đoàn. Sư đoàn này bao gồm các cánh quân thắng trận Pyramides.
Thành Cai-rô bị chiếm, tướng quân Reynier chịu trách nhiệm đẩy lùi quân Ibrahim bey ở Syrie và trở thành chỉ huy cao cấp tỉnh Charki. Nhân cách cao thượng nhanh chóng đưa tướng quân Reynier vượt trội trong mọi hoàn cảnh và chiếm được cảm tình của dân A Rập. Bonaparte rời Ai Cập. Chỉ huy toàn quyền quân đội nơi đây lẽ ra phải thuộc Reynier nhưng lại rơi vào tay tướng Menou. Quân đội xì xào bàn tán một vài hôm, Menou cho bắt Reynier, cho ông lên tàu chiến hạng vừa đưa về Pháp không một lời giải thích.
Về đến Paris, Reynier không chiếm được cảm tình của Bonaparte và bị đẩy đến Nièvre.
Tính khảng khái và tự trọng như Reynier không hợp với Napoléon, tuy vậy, ông vẫn được huy động vào chiến dịch năm 1805. Sau trận Austerlitz, hoàng đế giao cho ông chỉ huy quân đội giúp anh mình thôn tính vương quốc Naples.
Chúng ta cũng thấy việc lên ngôi của vua Joseph không vấp phải kháng cự nào. Dễ để thuyết phục trong những lần trao đổi với em trai là Hoàng đế nước Pháp, vua Joseph cũng mang cái dễ dãi ấy với dân chúng Naples mà theo quan điểm của em ngài đó là những điều kiện quá thoải mái. Việc chần chừ ở mảnh đất Gaète đã cho những bè đảng cũ nhà Bourbon kịp có thời gian ngóc đầu dậy. Thật ra đó là những tên trộm cướp biết nắm cơ hội để tô vẽ cho lá cờ hòng che đậy cái nghề mạt hạng đáng phỉ báng của chúng, cho chúng cơ may tập hợp thêm nhiều băng đảng mới và mượn cớ chính trị hòng cướp bóc hay trả thù tư.
Thế là tướng quân Reynier được cử đến Calabre với đội quân bảy tám nghìn người. Không một thành phố hay băng đảng nào dám trực diện chống lại ông. Cứ thế ông dẹp yên đến Scilla và Reggio nơi đặt đội quân đồn trú của mình.
Những những kẻ lưu đày khỏi Palerme, tức vua Ferdinand và hoàng hậu Caroline đã kịp thông đồng với người Anh, tạo thành liên minh vĩnh viễn hòng chống lại nước Pháp: Dọc bờ biển Calabre, lực lượng nói trên bắt đầu hành động bằng việc rải tiền, súng đạn cho những kẻ nổi dậy trong lúc chờ đợi một chiến hạm trang bị từ Messine để mang tới cho chúng quân tiếp viện liệu quả hơn.
Do đó, ngày nào tướng quân Reynier cũng bị đe doạ quân địch sẽ đổ bộ lên bờ biển, mặt khác các thủ lĩnh băng đảng Panedigrano, Benincasa, Parafante, Bizzarro như cá thêm vây ngày nào cũng nhũng nhiễu tập kích sát hại người của ông.
Từ một tháng qua, ông đã trình lên vua Joseph bản báo cáo về sự xuất hiện tại Calabre rất nhiều tiền Anh. Số tiền này được dùng làm phương tiện kích động dân chúng làm phản. Ông đã cho nhiều cánh quân cơ động truy lùng chúng.
Cuối cùng, chiến hạm rình rập cũng rời eo biển Messine. Tướng Reynier nhanh chóng báo tin cho tướng Compère người mà ông cử lại ở hai trận đánh giữa Scilla và Reggio rằng chỉ cử đến hai thành phố trên số quân cần thiết để trấn thủ các lâu đài và bệnh viện còn lại đưa quân đến tập hợp với ông tại sông Angitola đồng thời gởi thư cho các trung đoàn rải rác, ra lệnh tập trung cũng tại sông này.
Vừa đến Monteleone, tướng quân Reynier đã hay tin quân Anh đổ bộ vào Sainte-Éuphénie đêm hôm trước. Ba cánh quân Ba Lan muốn chống lại cuộc đổ bộ đã bị đầy lùi và rút vào sâu phía sau Angitola. Tướng Digonet cũng mới đến đêm trước, đóng quân bên sông Lamato với đội quân liên minh Ba Lan và trung đoàn săn bắt cướp số 9.
Về phía tướng Reynier, với gần bốn nghìn năm trăm quân, ông cho họ hạ trại miền thưởng lưu sông Angitola. Từ vị trí cao nguyên ấy, ông đã bao quát toàn bộ vịnh Sainte-Éuphénie. Kẻ thù có khoảng sáu đến bảy nghìn quân vẫn chưa di chuyển vị trí kể từ lúc đổ bộ. Cánh phải là giàn hoả tiễn dưới chân tháp pháo đài Malte, cánh trái của chúng là làng Sainte-Éuphénie. Quân địch đã cử những toán quân đến Sambiase và Nicastro. Dưới con mắt của quân Anh, đó là hai địa điểm nổi dậy, trưng cờ đỏ và chịu xuống hợp quân với chúng. Suốt ngày có những băng cướp xuống núi theo toán hai mươi, ba mươi hay bốn mươi tên.
Từ trên cao, tướng quân Reynier quan sát hết thảy những động tĩnh ấy. Ông nghĩ càng chờ đợi, quân Anh càng nhận thêm viện trợ nữa nên dù yếu hơn về số quân, ông vẫn quyết định tấn công ngay hôm sau hoặc hôm sau nữa.
Kết quả là đúng hôm René ngủ tại Amantea, tướng Reynier đã cho quân tràn từ trên Angitola xuống gần sông Lamato, gần Maida để có thể tấn công với kẻ thù hai tiếng tại địa điểm giữa núi và biển để vừa nằm ngoài tầm súng của bọn cướp tụ tập phía chân núi vừa tránh hoả tiễn của chiến hạm ven biển.
Ngày hôm trước, René đã được người dẫn đường của mình thông báo rằng quân Pháp chỉ cách họ vài dặm nữa và ngày hôm sau là anh có thể gặp họ. Mới sớm tinh mơ hôm sau, anh đã nai nịt gọn gàng mở cửa và gặp người dẫn đường cũng sẵn sàng như anh.
Anh ta ra liệu cho anh im lặng và đi theo mình. Họ không đi qua cổng mà trèo qua cửa sổ xuống đất nhờ một cái thang dựng sẵn. Người đưa đường xuống trước, hai người lên ngựa đã đóng yên sẵn đang chở ở cổng hậu.
- Nhưng mà này - René nói khi thấy người dẫn đường lên ngựa chực lao đi - Hình như chúng ta chưa trả tiền.
- Chuyện ấy xong rồi - Người dẫn đường trả lời - chúng ta đừng để lỡ giây phút nào nữa.
Rồi kẻ đó lên ngựa lao đi với vận tốc mà René đã biết.
Khoảng tám giờ sáng, họ đến đỉnh núi Sainte-Éuphénie nơi họ nhìn rõ hai đạo quân, chiến hạm quân Anh và cả một đường xanh nhạt xa tít chính là đảo Sicile cùng vài chấm đen bốc khói chính là núi lửa Stromboli.
René dừng lại một lát để chiêm ngưỡng khung cảnh non xanh nước biếc nơi tụ hội của những gì đẹp nhất, và đáng sợ nhất của thiên nhiên. Nào là núi non, rừng, biển, đảo, vịnh cát vàng nơi hai đạo quân cách nhau khoảng một dặm, hai đạo quân đang chuẩn bị tàn sát lẫn nhau.
- Chúng ta đã đến nơi rồi - Người đưa đường nói - Đây là quân Pháp và kia là quân Anh mà ông cũng biết họ đổ bộ đêm qua đấy.
René lục túi quần.
- Đây là sáu Louis thay vì ba như tôi đã hứa - Anh nói.
- Cảm ơn! - Người đưa đường đáp và gạt tay anh ra - Tôi còn một nửa số tiền ông đưa cho khi chia tay tôi ở nhà tù Vicana đấy.
René ngạc nhiên nhìn người đàn ông.
Người này bỏ mũ, tháo tấm khăn nửa khuôn mặt và dù anh ta đã cắt râu tóc, René vẫn nhận ra tên cướp anh đã bắt được ở đầm Pontins.
- Gì thế này! Là ngươi à? - Anh hỏi.
- Đúng vậy Tên cướp cười đáp.
Ngươi trốn được à?
- Vâng - Hắn nói - cai ngục là bạn của tôi, định mệnh đã cho tôi gặp ông, tôi vẫn nhớ những gì ông đã làm cho tôi.
- Ta đã làm gì cho ngươi?
- Ông đã có thể giết tôi nhưng lại tha mạng cho tôi. Tôi chết vì khát nhưng không xin, ông đã cho ăn uống lại cả tiền, khi rời cửa nhà tù ông đã luồn một đồng louis vào tay tôi. Chúng tôi là kẻ cướp, nhưng chúng tôi vẫn là người. Về phần mình, tôi đã ngăn người ta giết ông đôi ba bận đấy. Thôi chúng ta chia tay.
Nói rồi tên cướp lao ngựa đi không phải chậm rãi mà phi nước đại, biến mất trước khi René hết ngạc nhiên.
Rồi anh nhún vai tự nhủ:
- Quỷ tha ma bắt, không biết lòng biết ơn ấy trú ẩn ở chỗ nào không biết.
Sau đó, anh đưa mắt nhìn về phía bãi biển nơi sắp diễn ra trận đánh. Đã có sự di chuyển lớn trong hàng ngũ quân Anh. Các toán quân đã tiến về phía biển khiến trong chốc lát René tưởng họ sắp rời đi nhưng họ chia thành hai cánh tiếp tục đi về cửa sông, họ qua sông, một thuyền chiến hạng nặng, một thuyền chiến hạng vừa và nhiều xà lan chở đại bác tiếp tục đi theo họ. Sau đó, cánh quân tiến về mạn phải ngược dòng Lamato, hình như chúng muốn chặn quân Pháp trên đường Monteleone.
Vào lúc đó cánh quân qua cửa sông cũng tiến về phía trại lính Pháp. Mới nhìn qua cũng thấy lực lượng hai bên ra sao. Quân Pháp ít hơn địch rất nhiều. Quân Anh, cùng với lực lượng hợp nhất của đám cướp bóc lên đến tám nghìn trong khi quân Pháp chỉ có năm nghìn.
Tuy vậy, tướng Reynier vẫn nghĩ đó là thời điểm thích hợp để tấn công. Khi bị dòng Lamato chia làm hai, ông có thể sẽ dễ dàng tấn công vào giữa băng hoả lực mạnh. Một khi đã chia làm hai, phần quân đi dọc bờ biển chắc chắn sẽ có thể quay lại nhưng cánh trái của Reynier sẽ buộc phải trốn trong các đầm hay rừng Sainte-Éuphénie.
Quả nhiên, khi qua đường Lamato, tướng Reynier có thể tiếp giáp quân địch không gặp trở ngại nào với quân bộ binh, pháo binh hạng nhẹ và đội kỵ binh của mình, tiếc là đội kỵ binh này chỉ có một trăm năm mươi nghìn người của đội sàn bắt cướp số 9.
Trong khi đó, nếu để quân địch qua sông ông sẽ mất hết lợi thế vì buộc phải chiến đấu ở địa hình nhiều khe và đầm lầy không cho phép ông sử dụng pháo binh và quân kỵ binh.
Đứng cách chiến trường chưa đầy một phần tư dặm, René quan sát thấy tướng quân Reynier cho hai đội khinh binh chận đầu để bắn tia dọc theo cánh quân Anh đã qua cửa sông Lamato và dưới quyền chỉ huy của một vị tướng mà anh không biết, hai trung đoàn chủ lực khoảng hai nghìn bốn trăm đến hai nghìn năm trăm quân cũng qua sông hình thành thế trận phía bờ bên kia. Theo sau họ có tiểu đoàn thuỵ Sĩ số bốn và mười hai đại đội của trung đoàn quân Ba Lan, tắt cả khoảng gần một nghìn năm trăm người.
Cuối cùng, trung đoàn bộ binh số hai mươi ba, dưới sự chỉ huy của tướng quân Digonet sẽ trấn giữ cánh phải trong khi bốn toán pháo binh hạng nhẹ và một nghìn năm trăm quân kỵ binh sẽ ở giữa.
Tướng Reynier đã ra lệnh cho tướng Compère đứng đầu ngay trung đoàn tiên phong tiến lên theo tuyến hướng về phía quân Anh trung khi quản Thuỵ Sĩ và quân Ba Lan theo ở tuyến sau còn trung đoàn bộ binh số hai mươi ba, vì ở quá xa bên cánh phải, sẽ sáp lại gần quân Thuỵ Sĩ toàn lực hỗ trợ cho tướng Compère đánh khu giữa trung tâm quân Anh.
Đây là lần đầu tiên René tham dự vào một cuộc chiến bày binh bố trận như thế. Anh như đứng chôn chân một chỗ vì tò mò. Vả lại anh tự hỏi không biết thêm một người như anh thì làm được gì trong cái mớ hỗn độn kia.
Hai cánh quân tấn công tiến lên rất bình tĩnh và tỉnh táo, đi đầu là tướng Compère của họ. Phát hiện quân Pháp đang tiến đến, quân Anh dừng lại ở nửa tầm súng trường, vũ khí sẵn sàng những chưa khai hoả.
Thế là trung đoàn tiên phong nạp đạn rồi xông lên, trung đoàn bộ binh sĩ bốn mươi hai cũng noi theo. Tướng Compère và hai sĩ quan tuỳ tùng cùng một trung uý lọt lại ở giữa.
Khi quân Pháp chỉ còn cách mười lăm bước, quân địch nổ súng ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai. Quân Pháp tiếp tục tràn sang nhưng hàng thứ ba của quân Anh đã truyền súng cho tốp đầu nên lại một loạt súng nữa vang lên.
Trong loạt đạn thứ hai này tướng Compère trúng đạn cả ở đầu lẫn ở tay.
Vừa nhìn tướng phe mình ngã ra đất, quân lính trung đoàn tiên phong đã quay lưng định tháo chạy. Trung đoàn số bốn mươi hai nhận ra hành vi hèn nhát ấy nên lưỡng lự. René hiểu rằng nỗi sợ này có thể sẽ lan ra toàn quân. Lập tức chân ngựa của anh như nhấc bổng khỏi mặt đất và không quản việc có thể vấp phải chướng ngại vật khác trên đường, anh thả dây cương và chỉ chốc lát đã hai tay hai súng đứng giữa đám người bỏ trốn.
Cố gắng đầu tiên của anh là ngăn họ nhưng nhận thấy họ giương súng ra doạ anh nên anh bỏ sang một bên chạy lại cứu tướng Compère mà quân Anh đang muốn bắt sống vì phát hiện ông chỉ bị thương. Hai phát súng ngắn và hai phát súng cạc bin khiến khối người bu gần tướng Compère tản ra chút ít. Vì cả hai loại súng đều hết đạn, anh mắc khẩu cạc bin vào yên ngựa, tra súng lục vào bên sườn nó, vẫn ngồi trên ngựa, lượm một thanh gươm rồi phi thẳng vào năm sáu tên lính Anh đang hùng hổ xáp lại tướng Compère.
René điều khiển thanh gươm điêu luyện như đấu kiếm. Chỉ trong giây lát, ba tên lính Anh đã ngã ra hoặc bị chết hoặc bị thương ba tên kia cắm đầu bỏ chạy trong đó một tên bị giết bởi sĩ quan tuỳ tùng của tướng Compère.
Tuy nhiên, tướng quân Reynier đã xông vào giữa đám quân nháo nhác dẫn theo một trăm năm mươi quân kỵ binh. Từ trên cao, ông đã thấy René dũng mãnh lao vào chiến trường và chiến đấu. Ban đầu ông rất ngạc nhiên. Không nhận ra anh thuộc cánh quân nào vì quân phục khá lạ, ông lưỡng lự một lát nhưng rồi ông hiểu ngay bộ quân phục anh mặc dù thuộc đơn vị nào cũng bọc trong nó trái tim của một con người anh dũng.
- Hãy chỉ huy các chiến sĩ này - ông hét lên - và hãy làm cho thật tốt
- Các anh có muốn tôi chỉ huy các anh không? - René hỏi to.
- Có! - Họ đồng thanh trả lời.
Thế là anh đặt cái mũ lên đầu thanh gươm, lao lên phía trước, lẳng nó vào giữa tốp quân Anh đầu tiên vừa hạ một tên lính vừa nói:
- Hai mươi đồng louis cho người nào lấy lại cái mũ cho tôi.
Thế là bị kích thích vừa bằng lòng dũng cảm của anh vừa vì hy vọng được món tiền thưởng, lính sĩ Pháp xuyên thủng hàng ngũ quân Anh và đánh đến tuyến thứ ba. Nhưng họ không thể tiến sâu hơn. René đưa thanh gươm lên miệng dùng răng cắn chặt, rút súng ngắn hạ hai tên rồi tra lại vào bao tiếp tục dùng gươm.
- Này - Anh nói và lấy lại chiếc mũ mà chỉ mình anh mới lại gần được - Này, hình như tôi lại kiếm được hai mươi louis của tôi rồi.
Quân Anh khép lại vòng vây anh. René đã xuyên qua hai tuyến quân địch và chọc vòng thứ ba bằng cách hạ hai tên đối diện khi chúng mắt tròn mắt dẹt thấy chỉ có mỗi một lính Pháp trong quân đội Anh.
Một toán sĩ quan đang bao quanh tướng Stuart. Hai trong số họ tách ra xông lại phía René.
René hiểu rằng họ muốn dành cho anh một cuộc so gươm nhưng là cuộc đụng độ hai chọi một.
Anh dừng ngựa, bắn khẩu cạc bin vào một tên cách mình năm bước tên kia cách hai chục bước: cả hai đều gục xuống.
Lập tức, một kỵ sĩ thứ ba tách khỏi nhóm và khua tít thanh gươm ý muốn nói anh ta sẽ đọ gươm. René mắc khẩu súng cạc bin vào cốt yên ngựa và lao lại phía đối thủ mới.
Thế là giống như thời cổ đại hay thời kỳ của các hiệp sĩ xa xưa giống như những anh hùng trong trường ca của Homère, hay những hiệp sĩ thời trung cổ, René và địch thủ lao vào nhau trong trận quyết tử dữ dội trong đó ai cũng tỏ ra có bản lĩnh và khéo léo tuyệt vời. Cuối cùng, sau mười phút chiến đấu, sĩ quan người Anh bị thương vào tay phải và bị mũi gươm của René dí vào ngực buộc phải chịu thua.
- Thưa ngài - Anh ta nói bằng tiếng Pháp rất chuẩn với René - Ngài có muốn tôi quay lại nói một câu với tướng quân của tôi không?
- Được đi đi!
René nhân cơ hội ấy để nạp đạn vào hai loại vũ khí của mình và đặt nổ trở lại vị trí.
Một lát sau, anh thấy viên sĩ quan Anh quay trở lại, tay phải buộc một chiếc khăn và đầu gươm phất phơ một chiếc khăn tay màu trắng.
- Chiếc khăn màu trắng kia có ý nghĩa gì vậy - René vừa nói vừa cười - ông đến thương thuyết và khuyên tôi đầu hàng chăng?
- Tôi đến để mời ngài đi theo tôi, thưa ngài. Để ngài không gặp bất hạnh nào khi vượt qua hàng ngũ của chúng tôi trở về quân đội của ngài, tôi được hân hạnh nhận lệnh của tướng quân Stuart, mở lối cho ngài ra.
- Thế tướng quân Stuart tưởng tôi không biết cách mở vòng vây sao?
- Ông ấy không nghi ngờ điều đó, thưa ngài, nhưng ông muốn ngài được bình an vô sự trở về, ông ấy còn nói nếu ngài từ chối tôi dẫn đường, tự ông ấy sẽ đến làm việc đó.
- Rất cảm ơn - René nói - Tôi không muốn quấy rầy ông ấy đến thế. Ông đi trước đi, tôi sẽ theo sau.
Trong khi đó, số phận của trận đánh đã được quyết định: tướng Compère bị bắt, chỉ huy tiểu đoàn tiên phong hy sinh chỉ huy tiểu đoàn quân Thuỵ Sĩ bị thương rất nặng, chỉ huy tiểu đoàn số hài mươi ba của trung đoàn cũng bị thương, đường thông lên Monteleone bị cắt đứt, quân Pháp bị quân Anh truy đuổi đến tận thung lũng Lamato. Đến đó, quân Anh ngần ngại không đuổi tiếp và để tướng Reynier được thảnh thơi rút lui từ chỗ đó.
Khi gặp quân Anh, người dẫn đường cho René kêu to:
- Theo lệnh của tướng quân Stuart, hãy hạ vũ khí và giữ nguyên vũ khí bên mình!
Binh sĩ Anh tuân lệnh ngay, René đi qua hai hàng quân mà không việc gì. Họ đi như vậy đến cửa vào thung lũng nơi quân Anh dừng chân.
- Thưa ngài - René nói với người đưa đường - Bây giờ chỉ còn ngài mới có thể xứng đáng thay mặt tôi gởi lời cảm ơn trân trọng của tôi tới tướng Stuart.
Sau khi chào rất kiểu cách tù nhân đã trả tự do cho mình, René phi ngựa đuổi theo hậu quân Pháp đang dừng ở Catanzaro tức là cách đó sáu dặm.

Chương 114: René đã thấy ông Saliceti giữ lời ra sao

René tới trại đóng quân ngoài trời của trung đoàn săn bắt cướp số chín mà anh được lệnh của tướng Reynier chỉ huy họ khi họ đang tơi tả giữa quân bộ binh Anh.
Những người này lúc đuổi theo anh đã thấy anh lao vào hàng ngũ quân Anh rồi mất hút cứ ngỡ anh đã chết. Chính vì vậy khi thấy anh trở về, họ reo lên sung sướng ai cũng chia cho anh một phần rơm để anh làm giường, chia một phần quân lương để anh có cái cho vào bụng thay bữa tối.
René nhận một nắm rơm, rải áo măng tô lên và nhận một cái bánh mì nhưng lại chia cho con ngựa một nửa.
Tờ mờ sáng hôm sau, anh bị một số quan cận vệ của tướng quân Reynier đánh thức. Anh này nhận lệnh của vị tổng chỉ huy đi tìm chàng trai trẻ mặc áo đại uý hải quân và đã chiến đấu rất anh hùng. Trừ phi bị giết hoặc bị bắt, với trang phục ấy thì không khó tìm cho lắm.
René thức dậy, lắc lắc cái đầu rồi lên ngựa đi theo viên sĩ quan cận vệ. Anh ta đưa anh đến một toà thị chính của thành phố.
Đây là nơi tướng quân Reynier đặt làm tổng hành dinh.
René bước vào phòng hội đồng mà ông tướng coi phòng làm việc ông đang có người ra trước tấm bản đồ lớn vùng Calabre nơi mỗi ngôi nhà mỗi thân cây, khe suối đều có đánh dấu. Những ngọn nến đã cháy đến tận chân, những ngọn đèn cạn dầu cho thấy ông đã làm việc suốt đêm.
Khi nghe tiếng thông báo: "Sĩ quan mà ngài cần tìm đã đến, thưa tướng quân" thi ông quay lại phía René, nhổm người ngồi trở lại ghế của mình và đưa tay ra hiệu chào anh.
- Thưa ngài - ông nói - hôm qua, tôi đã thấy ngài thể hiện một tinh thần quật cường tuyệt vời đến nỗi tôi không nghi ngờ gì nữa ngài đúng là chàng trai mà ngài Saliceti đã tiến cử cho tôi thậm chí còn do người cấp cao hơn ông ấy giới thiệu nữa kia. Ngài là bá tước Léo có phải không?
- Vâng thưa ngài.
- Ngài đã bày tỏ với bộ trưởng Saliceti muốn nói chuyện với tôi về việc sẽ tham gia quân đội của tôi.
- Ông ấy đã khẳng định với tôi, thưa tướng quân, rằng vì điều này có lợi cho công cuộc của chúng ta nên ngài sẽ đồng ý.
- Chắc ngài đói rồi - Reynier nói - Tôi đoán ngài cũng khó tìm được gì lót dạ quanh vùng Catanzaro này. Chúng ta vừa ăn sáng vừa nói chuyện cho thoải mái.
Hai binh sĩ khiêng bàn ăn đã bày sẵn sàng vào: bốn miếng thịt lườn, hai con gà, một trong những loại phô mai mà người ta lấy treo trên trần các quầy tạp phẩm có tên gọi Cacciocavallo, kèm với chai rượu vang Calabre làm nên vẻ thịnh soạn cho bữa sáng.
- Suốt đêm qua - ông tướng nói - tôi đã viết thư cho các sĩ quan của mình tập trung lực lượng của chúng ta về Catanzaro. Khi tin thất trận ngày hôm qua lan ra, cả miền Calabre sẽ nổi dậy. Hôm qua, lúc tôi đến đây, đã có vài kẻ khởi xướng thay lá cờ quốc gia bằng cờ trắng, thay cờ ba màu bằng cờ đỏ. Tối qua, tôi đã cho bắt thị trưởng và thị phó thành phố. Đêm nay sẽ cho hỏi cung chứng, nếu có sự đồng ý trong việc thay cờ này, chúng sẽ bị xử bắn vào sáng mai. Trong hôm nay, tôi định trình báo lên đức vua Joseph. Nếu ngài thấy có cách nào giúp chúng ta thoát khỏi tình hình này hãy nói cho tôi với, tôi sẽ sửa sai lầm ấy.
- Thưa tướng quân - René nói - Ngài đánh giá tôi quá cao đấy. Tôi không phải là nhà chiến thuật hay kỹ sư. Vả lại thua trận như tôi hôm qua giữa quân Anh, đánh đấm túi bụi thì tôi còn nhìn thấy gì nữa.
- Phải phải, tôi biết ngài có cuộc chiến rất xuất sắc với ba sĩ quan Anh trong đó ngài hạ hai, bắt tên thứ ba làm tù binh. Tôi còn biết chính ngài James Stuart ngưỡng mộ lòng dũng cảm của ngài đã ra lệnh cấm không cho binh sĩ bắn ngài thậm chí còn làm cổng chào danh dự tiễn ngài ăn đi chàng trai trẻ, những thứ này rất ngon đấy.
René không phải để mời lần thứ hai. Anh ăn ngon lành như một người đánh suốt một ngày dài chưa được ăn gì vào bụng.
- Tất cả những gì tôi đã thấy - Tướng quân Reynier thân mật nói với chàng trai trẻ - cộng với những gì tôi nghe nói về ngài hôm qua khiến tôi thấy rõ có một nhiệm vụ mà tôi phải nghiêm túc hỏi đó là ngài muốn phục vụ bên tôi thế nào.
- Nếu tướng quân thật lòng muốn hỏi tôi về chuyện này, tôi muốn có một toán quân mà không những tôi là chỉ huy mà phải là chủ của họ. Tôi sẽ chọn họ trong số các tay bắn tỉa xuất sắc, tôi nghĩ họ sẽ rất được việc. Ban nãy ngài có nhắc đến bọn cướp sắp nổi dậy. Chính ngài Saliceti cũng đích thân nhắc đến vài toán, một trong số đó tôi muốn hạ chúng lắm?
- Ngày mai - Tướng Reynier nói - ngài sẽ được toại nguyện. Ngài cần bao nhiêu người?
- Không nhiều cũng không ít quá - René đáp - Chỉ bốn mươi đến bốn mươi lăm người là đủ.
- Ngày mai, đích thân ngài sẽ chọn trong số những tay súng cừ khôi nhất. Chuyện này không khó khăn gì ngoại trừ vài phát đạn cũng phải gây xôn xao một tí chứ. Ngài đã tạo được cảm giác kinh hoàng cho kẻ thù, sự kinh hoàng ấy sẽ còn tăng hơn nữa qua không gì chúng tôi tạo điều kiện cho ngài. Ngài sẽ tự do nhắm vào băng nào tuỳ thích và truy quét chúng không còn một mống. Vả lại, một chàng trai như ngài dẫn đầu một đội quân bốn mươi lăm người sẽ đi được bất cứ nơi nào. Ngài sẽ là sĩ quan tuỳ tùng của tôi và khi có mệnh lệnh quan trọng, ngài sẽ là người tôi phải trông cậy.
- Như vậy tôi được phép chọn người của mình chứ?
- Ngài sẽ chọn ai?
- Những tay súng giỏi nhất, vì tôi sẽ giao cho họ những công việc nặng nhọc hơn và phải xuất đầu lộ diện nhiều hơn nên tôi muốn trả tiền cho họ cao hơn.
- Tôi thấy không có vấn đề gì miễn là không gây ra sự ganh tị và đừng lấy hết quân đội của tôi nếu ngài đủ giàu có để trả tiền cho họ. Còn lại, cơ hội dành cho ngài truy quét bọn cướp là rất lớn bởi lẽ thất bại mà chúng tôi vừa nếm trải sẽ nhanh chóng thu hút bầy quạ và linh cẩu kéo đến bữa thịt mồi.
- Mong tướng quân ra lệnh chuyển quyền của mình.
- Hãy yên tâm, ngài cứ chọn người và cho tập bắn đi. Cầu Chúa dẫn lối cho ngài! Về phần tôi, trong vòng hai tuần tới tôi chưa thể được trợ cứu, nhưng một khi tôi có thể tập hợp được năm hay sáu nghìn quân, tôi sẽ chống lại toàn bộ Calabre. Với quân Anh, chúng sẽ không bao giờ dám tiến sâu vào lục địa.
- Xin tướng quân ra lệnh việc thi bắn sẽ diễn ra vào ngày mai. Mỗi trung đoàn sẽ có năm mươi tay súng giỏi nhất, mỗi người có ba viên đạn. Người đặt giải nhất sẽ được một chiếc đồng hồ bằng vàng, giải nhì được chiếc đồng hồ bạc, giải ba là sợi dây chuyền bạc có một móc ghim ở đầu. Qua đó tôi sẽ tự mình chọn bốn mươi lăm người bắn giỏi nhất. Ngoài khoản thu nhập bình thường mỗi binh sĩ được chọn sẽ hưởng thêm mỗi ngày một phăng.
- Ngài có thể chịu được khoản chi phí này trong bao lâu?
- Suốt quãng thời gian tôi ở bên tướng quân và tôi mong rằng nó kéo dài càng lâu càng tốt.
Tướng Reynier cho khua trống thông báo mỗi trung đoàn ngày hôm sau cử năm mươi người đến trường bắn. Ba giải thưởng do bá tước Léo đi mua tại Catanzaro.
Suốt ngày hôm ấy, khoảng một trăm binh sĩ bị lạc sau trận đánh lần lượt tập trung về trại Catanzaro.
Cuộc tuyển chọn diễn ra vào ngày hôm sau. Để chứng tỏ mình xứng đáng chỉ huy những người tài giỏi nhất, bá tước Léo là người đầu tiên giương súng bắn ba phát trúng vào chấm đen.
- Vậy là cuộc thi bắt đầu.
Tất cả có bốn trăm xạ thủ. Có năm mươi ba viên đạn bắn trúng vòng tròn đỏ bao quanh hồng tâm xách đó năm mươi bước.
Nhưng trong số đó có ba viên đạn bắn không trúng vòng nên bị loại chỉ còn năm mươi được chọn vào đội ngũ săn lùng bọn cướp do bá tước Léo chỉ huy và gọi tắt là Cuộc săn sư tử.
Ba giải thưởng trao cho ba người thắng, bốn mươi bảy người khác mỗi người nhận được năm phăng. Cuối cùng tất cả những ai tham gia cuộc thi đều được thưởng một phăng.
Trở về Catanzaro, bá tước Léo lần lượt giới thiệu với tướng quân Reynier ba người đoạt giải trong đó người đoạt giải nhất là trung sĩ còn hai người kia là hạ sĩ, tiếp đến là bốn mươi bảy người được chọn cùng tất cả các tay súng tham gia cuộc thi. Để ngày hôm đó trở thành một buổi lễ với họ, tướng quân Reynier cho mời người nghỉ và giải trí trong khuôn khổ kỷ luật cho phép rồi ra hiệu cho René ông có điều muốn nói với anh.
René đi theo ông.
Một nông dân vừa báo tin thành phố Cotrone mới bị rơi vào tay hai thủ lĩnh băng đảng có tên là Santoro và Gargaglio. Ông báo tin này cho René và bảo anh:
- Ngài thấy chưa, bắt đầu rồi đấy.
Nhưng việc chiếm lại thị trấn Cotrone nằm ngoài khả năng của René. Anh không thể lập lại trật tự nơi đó chỉ với năm mươi quân của mình.
Tướng quân Reynier có một số đội quân dưới sự chỉ huy của một tiểu đoàn trưởng định không cho bọn cướp kịp nghỉ lại sức tấn công bất ngờ chiếm lại ngay thị trấn và buộc quân địch phải lui ra vành đai thành phố. Tối hôm sau, chúng liều mở một lối vào nhưng đã bị đánh bật ra.
Viên tiểu đoàn trưởng muốn kết thúc đợt giao tranh vào ngày hôm sau và chiếm toàn bộ thành phố nhưng hai chiếc xà lan của quân Anh đã áp sát bờ biển, sự cứu viện này khiến bọn cướp thêm hung hăng. Ngay hôm sau, chúng mở hai lối đánh vào thành song đều bị đẩy lùi. Vậy là quân Anh chuyển bốn khẩu đại bác lên bờ đặt áp vào tường thành.
Quân Pháp thấy cần thêm tiếp viện. Tướng Reynier được thông báo đã cử tướng Camus cùng một đạo quân hướng về trung tâm thành phố rồi cho gọi bá tước Léo đến.
- Ngài và đội quân của ngài thế nào rồi? - ông hỏi.
- Đội quân đã đi vào tổ chức và rất ăn ý. Tôi chỉ còn chờ mệnh lệnh.
- Cứ ngồi xuống đấy, tôi có nhiệm vụ cho ngài đấy!


Nguồn: http://vnthuquan.org/