Như vậy, khi Bonaparte nhân cuộc tấn công này để buộc tội thủ phạm, những kẻ còn giấu mặt tức là ông muốn quy án cho một trăm ba mươi tên Jacobin, khi ông buộc tội oan cho họ vì lòng căm thù tức là ông đã phải nhớ lại cuộc bạo loạn trước đó do Aréna, Topino-Lebrun, Ceracchi và Demerville cầm đầu. Bốn thủ lĩnh này tuy đã bị bắt giam nhưng vẫn chưa được xét xử thì lại xảy ra vụ mưu sát.
Là người muốn công việc của mình phải thông suốt, ông cần thanh toán kẻ từng phạm tội, bản án trước đó phải được thực thi và những thủ phạm của ngày hôm qua phải được xét xử trong dư luận của vụ bạo loạn tiếp tục sau.
Về phần Fouché, khi ông ta đã chắc chắn có trong tay thủ phạm thật sự, nhờ báo cáo của nhân viên, ông ta vẫn đến xin ý kiến bắt giam và chờ xem Bonaparte có chỉ thị gì hay phải lưu ý gì không. Là người nắm giữ luật bắt bớ, là người đại diện của cuộc cách mạng mới diễn ra trên nước Pháp giữa những lời nguyền rủa mù quáng của dân chúng, ngài Tổng tài chỉ đáp gọn:
- Hãy lôi ra cho tôi tất cả những con mụ đàng điếm, những đứa con gái hư hỏng làm ô uế quanh điện Tuileries.
Quả thật, ông đã nhận ra rằng đám đàn bà và các xó xỉnh nhơ nhớp của chúng có mặt không chỉ trong hầu hết các cuộc bạo loạn mà trong tất cả các vụ án mạng. Chỉ có điều qua vài từ ngắn gọn với Fouché, ngài Tổng tài tỏ ý muốn đề cập đến vấn đề làm đẹp Paris hơn là sự an toàn cá nhân ông.
- Nhưng vì Chúa - Fouché thốt lên và sở dụng câu cửa miệng mỗi lần xin ai làm gì. - Ngài hãy nghĩ đến an toàn bản thân hơn nữa chứ?
Công dân Fouché - Bonaparte cười nói - Có phải thỉnh thoảng ông cũng tin vào Chúa không? Ông làm tôi ngạc nhiên đấy.
- Nếu tôi không tin vào Chúa - Fouché sốt sắng nói - Ngài bảo tôi phải tin vào quỷ chắc? Thế thì được thôi! Nhân danh quỷ dữ, vài ngày tới, tôi hy vọng sẽ gửi linh hồn bọn phiến loạn cho quỷ đói còn ngài, hãy nghĩ đến sự an toàn của mình đi!
Ngài Tổng tài đáp lại bằng giọng vô tư quen thuộc.
- Thế ông nghĩ lấy mạng tôi dễ lắm à? Tôi không có thói quen cố định nào cả, không có giờ giấc vạch trước, mọi hoạt động của tôi đều bất ngờ, tôi đi đâu hay đi về đều rất ngẫu hứng, về ăn uống cũng vậy, không có đồ ăn cố định, khi món này khi lại món khác ở xa ngoài tay với. Không có hệ thống nào hết, tất cả tuỳ vào sở thích của tôi và tôi làm chúng rất ngẫu hứng. Còn bây giờ, hỡi ông bạn thân mến, vì ông là người khôn khéo, vì lần này lại ông là người tìm ra thủ phạm, mười lăm ngày sau dịp chúng bỏ lỡ cơ hội giết tôi, ông hãy chuẩn bị để bảo vệ tôi, đó sẽ là nhiệm vụ của ông.
Vì Fouché không thể tin không có tính toán nào trong việc đó nên Bonaparte nói tiếp:
- Đừng cho rằng vẻ vô tư lự của tôi dựa trên sự cuồng tín mù quáng, càng không phải tôi quá tin vào năng lực cảnh sát các ông. Một âm mưu ám sát sắp được thực hiện, nếu không biết gì về các chi tiết thì cơ may thành công càng ít, không thể đoán mò cách thức thực hiện của chúng được. Vì nó quá mơ hồ cho tính lạc quan tuyệt đối hoá của tôi. Chỉ trong trường hợp khó khăn thật sự tôi mới tìm thấy sự anh minh sáng láng thôi, còn làm sao báo trước một kẻ rình mò nào đấy, một cú đâm trong hành lang Nhà hát lớn, một phát đạn từ cửa sổ nào đó hay một vụ nổ trong góc phố? Cần phải lo tính mọi lúc, mọi nơi, sợ hãi là vô ích? Nghi ngờ tất cả ở khắp nơi là không thể được! Không phải lúc nào tôi cũng cảm thấy nguy hiểm mà chạy cho kịp. Sự nguy hiểm ấy, tôi biết nhưng tôi quên nó đi và khi quên nó tôi tự vượt lên chính mình khỏi phải quay lại nghĩ đến nó nữa. Tôi có quyền có suy nghĩ của mình hoặc ít ra cũng bắt chúng dừng lại theo tình cảm và hành động của tôi; cái gì tôi đã xác định một khi ra khỏi khả năng của mình thì tôi không mảy may quan tâm nữa, tất cả những gì tôi yêu cầu ở ông đó là đừng lấy đi sự bình thản của tôi vì đó là sức mạnh của tôi.
Vì Fouché còn nằn nì yêu cầu ông chấp nhận vài dự phòng, Bonaparte nói:
- Thôi nào, ông hãy về đi, cứ bắt người mà ông cho là thủ phạm ấy, cứ lập cáo trạng, cứ treo cổ, bắn chết hay chặt đầu chúng, không phải vì chúng đã muốn giết tôi mà vì chúng là bọn vụng về, đã không giết được tôi lại còn làm chết mười hai dân thường và khiến sáu mươi người khác bị thương.
Fouché nhận rõ trong tình trạng tâm lý của Bonaparte như vậy hắn có làm gì cũng vô ích nên về nhà và gặp Thợ Nề đang chờ mình.
Chàng trai này, bằng sự nhanh nhạy, tự tin đã tìm được thủ phạm gây nổ, đó chính là ba tên Bảo hoàng đến Paris để ám sát ngài Tổng tài. Ba tên này bị cảnh sát tình nghi vì sau vụ nổ chúng bặt tăm. Nếu không sợ chắc chúng đã lộ diện rồi. Thợ Nề biết tên chúng là Limoelan, Saint-Régeant và Carbon.
Với Limoelan và Saint-Régeant, anh ta không tìm được dấu vết nào nhưng anh đã phát hiện trong khu phố Saint-Marcel có bà chị gái của Carbon đang sống cùng hai cô con gái. Thợ Nề hay là Linousin đến thuê một phòng cùng dãy rồi giam mình trong đó rên la cho đến đêm thứ ba ra vẻ kiệt sức, anh ta lết đến cửa nhà họ rung chuông rồi thả mình khuỵu xuống tường. Một trong số các cô con gái chạy ra và bắt gặp Limousin kiệt sức, gần như không nói nổi, cô hét lên:
- Ối mẹ ơi! Là ông hàng xóm đáng thương đã kêu rên suốt cả ngày.
Bà mẹ chạy ra xốc anh ta vào hỏi xem ba mẹ con họ, dù nghèo khổ có, thể giúp gì được cho anh không.
- Tôi chết đói mất - Limousin trả lời - Ba ngày qua tôi không ăn uống gì cả. Tôi cũng không dám xuống phố vì đầy cảnh sát chúng ở đó để rình bắt tôi, tôi chắc như vậy.
Bà chị Carbon cho anh uống một ly rượu vang, cho anh ăn một mẩu bánh mì. Anh ngấu nghiến như thể suốt ba ngày qua chưa ăn gì vậy. Sau đó, bà chị của Carbon sợ cảnh sát có thể ập đến vì họ là chị và cháu gái của Carbon nên hỏi anh đã làm gì.
Thế là Thợ Nề giả vờ nhượng bộ, giả vờ thú nhận mình do Gerges Cadoudal phái đến Paris để liên lạc với Saint-Régeant và Limoelan. Nhưng vừa đến Paris thì hôm sau xảy ra vụ tấn công trên phố Saint-Nicaise, anh không thể dò hỏi được ai về họ. Điều này thật không hay vì anh đang có cách chắc chắn đưa họ sang Anh.
Ba mẹ con ban đầu chưa tin ngay, nhưng họ vẫn cho anh bánh mì, một chai rượu vang và hứa sẽ mua cho anh thực phẩm chừng nào anh còn sống ở đấy nhưng với điều kiện anh phải đưa tiền vì họ cũng rất khó khăn.
Ngày thứ hai, anh khai thác được Carbon chính em trai bà chủ và đã náu tại đây đến tận ngày 7 Nivose.
Bà kể có một cô gái tên là Cicé, là người tâm phúc của Limoelan đến tìm Carbon đã dẫn anh vào một giáo đoàn với tư cách là một linh mục vì anh ta không có giấy phép trở về Pháp.
Anh ta đã trú ngụ một cách an toàn tại nhà chị gái. Người chị này lại rất biết ơn ngài Tổng tài về những gì ông vừa làm cho tôn giáo và ngày nào cũng cầu kinh cho ông sống mãi, bài kinh mà Carbon cũng tham dự.
Ngoài ra, người chị này cũng biết rõ cuộc tấn công bằng thuốc nổ. Bà chỉ cho Limousin mười hai hộp thuốc nổ dùng để nhồi vào thùng. Hộp thuốc cuối vẫn còn khoảng mười bốn livre.
Limousin nhận ra đó là loại thuốc của Anh chất lượng hảo hạng, cái hộp khác đã bị đập nát thành củi nhóm lò. Có hôm Limoelan đã bảo:
- Chị lấy nó đốt à, loại củi đắt tiền đấy!
Người phụ nữ còn chỉ cho Limousin hai chiếc áo khoác của Limoelan và Carbon. Không biết chiếc áo của Saint-Régeant ra sao.
Vấn đề chỉ còn tìm xem Carbon đang ở nhà thờ nào. Chính ba mẹ con họ cũng không biết địa chỉ, nhưng anh chàng Bảo hoàng giả mạo nài nỉ rằng anh phải trốn cùng Carbon nên họ mới hứa sẽ cho anh biết địa chỉ vào ngày hôm sau.
Quả thật như vậy, vì người chị quen biết cô Cicé nên đã chạy đến nhà cô ta hỏi mọi thông tin cần thiết.
Vì buổi lễ cầu cho ngài Tổng tài có rất đông người nên Thợ Nề vào nhà thờ cùng hai thày đội. Tại một góc điện thờ, anh thấy một thầy tu và đó chỉ có thể là Carbon Anh chờ cho nhà thờ vắng vẻ mới lại gần Carbon, bắt giữ anh ta lẹ đến mức anh này không thể chống cự, cũng không nghĩ mình bị lộ.
Sau khi bị bắt, Carbon khai hết, đó là hy vọng duy nhất của anh ta. Hắn cũng khai chỗ ở của Saint-Régeant. Tên này đang ngụ tại một ngôi nhà trên phố Bac. Khi Saint-Régeant bị bắt, biết đồng bọn đã khai, hắn không chống cự nữa mà khai toàn bộ sự thật như sau:
"Tất cả những gì cảnh sát Victor đã nói về việc mua ngựa, thuê xe tại nhà ông bán gạo, mua thùng, siết đai sắt đều là sự thật. Chúng tôi chỉ còn chờ ngày và cuối cùng đã chọn buổi tối ngài Tổng tài đến Nhà hát lớn xem vở La Création.
Chúng tôi biết ông ấy sẽ đi qua phố Saint-Nicaise, một trong những phố hẹp nhất nên đã quyết định đặt thuốc nổ ở đó. Chắc chắn tám giờ mười lăm xe của ông ấy sẽ đi qua do đó tám giờ tôi đã đẩy xe đến nơi, Carbon và Limoelan đứng canh ở hai cổng của điện Louvre để ra hiệu. Năm phút sau vẫn chưa thấy tín hiệu nào, tôi rời khỏi cái xe, thuê một cô bé nông dân giữ ngựa và đưa cho cô bé hai mươi tư xu, sau đó tôi đi ngược con phố lại gần điện Tuileries.
Đột nhiên tôi nghe giọng của Limoelan la lên "Hắn kia!" đồng thời có tiếng đoàn người ngựa đang lao đến. Tôi chạy lại xe vừa tự nhủ: "Lạy Chúa, nếu Bonaparte cần thiết cho sự bình yên của nước Pháp, người hãy chuyển vụ nổ sang đầu con" rồi tôi kêu lên với cô bé: "Chạy đi, chạy đi trốn ngay!". Tôi châm ngòi nối với thùng thuốc.
Đoàn người và ngựa đã đến chỗ tôi. Con ngựa của một người lính hất tôi ngã văng vào một ngôi nhà, tôi bật dậy và chạy về phía điện Louvre nhưng chỉ được vài bước. Điều cuối cùng tôi còn nhớ được là khi quay lại, tôi thấy sợi dây cháy sáng lẹt xẹt và bóng cô bé đứng cạnh cái xe, còn lại tôi không nhìn, không nghe, không cảm thấy gì hết.
Không hiểu tại sao tôi được chở đến cổng Louvre. Tôi bị mê man bao lâu? Tôi không biết, làn gió mát khiến tôi tỉnh dần, bấy giờ tôi nhận ra hết, nhớ lại tất cả nhưng có hai điều khiến tôi rất ngạc nhiên: thứ nhất là tôi vẫn còn sống và thứ hai, còn sống mà vẫn không bị bắt. Máu trào ra từ mũi và miệng, chắc người ta tưởng tôi cũng bị thương như các nạn nhân khác, như những người qua đường vô tội chứ không phải tác giả vụ nổ khủng khiếp ấy. Tôi vội vã chạy ra cầu, ném cái túi đựng áo xuống sông. Tôi không biết đi về đâu bởi lẽ tôi cứ nghĩ mình sẽ tan tác thành trăm mảnh nên thậm chí không tính đến chuyện kiếm chỗ ở trong trường hợp sống sót. Tôi gặp Limoelan ở nhà (chúng tôi trọ cùng nhau). Vừa thấy tôi tơi tả anh ấy đã vội đi tìm cha xứ và một bác sĩ. Vì cha cố là chủ của anh ấy, ông Picot de Closrivière còn vị bác sĩ còn trẻ là bạn của anh ấy. Chúng tôi biết kế hoạch đã thất bại.
"Tôi đã không muốn dùng dây dẫn mà - Limoelan nói - Giá như anh nhường chỗ ấy cho tôi như tôi yêu cầu thì tôi đã dùng củi đốt nó. Tôi biết mình sẽ tan tành xác pháo, nhưng tôi sẽ giết được Bonaparte”.
***
Trên đây là tất cả lời khai của Saint-Régeant và thật ra đó cũng là tất cả những điều người ta cần biết.
Hổ thẹn về sự thất bại của mình bởi lẽ điều kiện dành cho một kẻ mưu sát chính trị là được ăn cả ngã về không nên Limoelan không chỉ không quay về với Georges mà còn không đặt chân về Anh nữa. Kẻ sùng đạo cũng giống như người tự trọng, kẻ sùng đạo thì chỉ thấy ý Chúa trong mỗi hành động của mình còn kẻ tự trọng lại không muốn bị người khác chỉ trích, chính vì vậy mà anh ta lên tàu bỏ đi đảo Saint-Malo.
Người ta chỉ thông báo qua quýt là anh ta đã ra nước ngoài và rút khỏi thế giới, người cùng phe cũng không biết anh ta ra sao.
Nhưng Fouché lại không rời mắt khỏi người này và từ lâu ông ta vẫn chú ý đến một tu viện ở xa. Anh ta chỉ liên lạc với cô em gái, trên mỗi lá thư, vì sợ sẽ rơi vào tay quân Anh nên Limoelan để lại đôi dòng mà Desmarets, cảnh sát trưởng, đọc được như sau:
"Ôi những người Anh. Xin hãy để lá thư này qua… nó là của một người đàn ông phải chịu nhiều cơ cực vì chính mục đích của các vị".
Còn hai quân triều đình khác có dính dáng đến vụ này nhưng không được nhắc đến trong lời khai. Họ là Joyaut và Lahaye Saint-Hilaire. Họ đã trốn như Limoelan khi chính phủ có động thái nhằm vào quân Jacobin và đi thông báo cho Georges Cadoudal ở bên nước Anh rằng một âm mưu nữa lại vừa thất bại.
Saint-Régeant và Carbon bị kết án tử hình. Mặc dù đã thành khẩn khai báo và giúp cảnh sát bắt tòng phạm nhưng Carbon cũng không được hưởng khoan hồng. Khi người ta trình cáo trạng lên Bonaparte, ông tỏ ra đã hoàn toàn quên chuyện ấy và chỉ nói gọn:
- Vì bản án đã đưa ra rồi thì cứ thực hiện thôi, điều ấy liên quan gì đến tôi.
Ngày 21 tháng Tư, Carbon và Saint-Régeant bị đưa lên máy chém, nơi vẫn chưa khô máu của Aréna và ba tòng phạm của hắn.
Chúng tôi đã gắng công vô ích khi tìm một vài chi tiết về cái chết của hai người này nhưng có lẽ chính phủ muốn rằng không cần phải bận tâm đến cái chết của hai kẻ bất hạnh ấy. Bình luận về cái chết ấy, trên tờ Le Moniteur chỉ đăng một dòng. Ngày ấy giờ ấy Carbon và Saint-Régeant đã bị hành quyết.
Ngày hôm sau vụ xử án, Thợ Nề đi London với nhiệm vụ bí mật.
Chương 29: Vua Louis de Parme
Khi sự tồn tại của một con người có ảnh hưởng tột đỉnh đối với quyền lợi, danh dự và số phận của một quốc gia, khi mọi tư tưởng tập trung vào sự thành công hay thất bại của một vận mệnh tối thượng, thì dù là bạn hay thù người ta đều phải đối mặt với nhau để nhận ra những gì mà họ được, mất từ lòng tận trung, từ lòng thù hận mà họ đã dành cho con người đầy thành đạt đó. Đó là thời điểm của những điềm báo, những dự đoán. Ngay cả các giấc mơ cũng có những ảnh hưởng thầm kín và mọi người đều sẵn sàng bước vào một xứ sở tương lai lạ lẫm. Thế là, có người, hoặc do sự nhút nhát bẩm sinh, hoặc do cái nhìn luôn bi quan nên luôn luôn trong tình trạng báo động trong những dự cảm phi lý hoặc lúc nào cũng phấp phỏng về mối hiểm hoạ tưởng tượng: Ngược lại, những người khác lại nhìn thế giới theo quan điểm của mình nghĩa là mọi việc đều dễ dàng, suông sẻ và đầy sự mù quáng của César hay Bonaparte đến mục đích mà họ muốn, không hề bận tâm đến những nguy hiểm ẩn náu trong khi một thế lực khác thế lực đã sụp đổ, giờ lại đang vùng dậy chống lại con người thiên tài này. Chúng xả sự giận dữ qua những lời cầu nguyện ám muội, những bài đả kích đe doạ kèm theo những lời hứa chết chóc.
Giữa những bộn bề lo toan của thời điểm tồi tệ và ngay cả giữa chính những lo lắng ấy đôi khi cũng nảy ra ý định ám muội, những suy nghĩ yếu và tối tăm. Đó là một định mệnh mà có lẽ người ta chỉ thoát khỏi nó bằng cái chết của chính kẻ tạo ra nó.
Tình cảnh đó cũng giống như César khi ông muốn xưng vua, là hoàn cảnh của Henri Đệ tứ khi quyết định theo đuổi vụ Marie de Médicis và Concino Concini và cũng là của Bonaparte sau cuộc bạo động ngày 18 Brumaire, bập bềnh giữa Auguste và Washington.
Và như vậy con người thiên định đó như đã được ngã giá, con người đó tận tuỵ phục vụ cho sự yên ổn của nền Cộng hoà, và chính con người đó sẵn sàng hứng chịu mũi dao của Brutus hay nhát chém của Ravaillac để lật đổ các chướng ngại vật đang ngăn cản tham vọng, hy vọng của ông.
Và kỳ thực tất cả những năm đầu của chế độ Tổng tài chỉ là một chuỗi những mưu toan chống lại ngài Tổng tài. Đó là kẻ thù từ cuộc bạo loạn ngày 13 Vendémiaire, ngày 18 Fructidor, ngày 18 Brumaire, quân triều đình, quân Cộng hoà, đồng đảng Jéhu, dân Vendée và quân Bảo hoàng tấn công ban đêm, trong rừng, trên đường cái quan, trong các quán cà phê, trong các phòng kịch.
Bị kích động sau ngày Saint-Cloud, chuỗi ngày hoạt động chính trị của Bonaparte lúc nào cũng đặt ở tình trạng báo động, báo động do lá thư của Louis XVIII triều đình và quân Cộng hoà tức quân Trắng và quân Xanh là hai đảng phái chính trị thật sự còn tồn tại trên đất Pháp đều rộ lên những tiếng gào thét trả thù và giết chóc.
"Làm sao mà các ông muốn tôi không mưu phản cho được? - Aréna đã nói như thế trước các quan toà - Tất cả mọi người đều mưu phản vào một giờ nào đó. Người ta mưu phản trên các con phố, trong phòng khách, ngã tư hay ngay trên những quảng trường công cộng”.
"Không khó săn mùi dao găm!" Chính Fouché cũng nói như vậy để miêu tả những kẻ phiến loạn ấy đồng thời cố gắng kéo Bonaparte đồng tình với mình về tình hình nguy hiểm của ngài Tổng tài.
Tất cả chúng ta đều đã biết các chi tiết trong cuộc chiến tranh kinh hoàng ở miền Vendée và Bretagne, một cuộc phản loạn của miền rừng chống lại thành phố qua đó đã gắn với các tên tuổi như La Roche Jacquelein, nhà Bonchamps, nhà Elbée, nhà Charette và Lescure.
Chúng ta hẳn còn nhớ các chi tiết về cuộc mưu phản của quân Jéhu, tấn công ngay giữa đường cái để rồi Valensolles, Jahiat, Rihier và Sainte-Hermine ngã gục trước mắt chúng ta, đó là chúng tôi còn chưa nói đến các vụ trên phố mà Metge, Veycer và Chevalier đã bị Uỷ ban quân sự kết án và xử bắn.
Tôi cũng đã kể vài dòng về vụ mưu phản Nhà hát do Topino-Lebrun, Demerville, Ceracchi và Aréna cầm đầu.
Sau đó là vụ đặt bom trên phố Saint-Nicaise, cuộc mưu phản do Limoelan, Carbon và Saint-Régeant thực hiện.
Và chúng ta sẽ lại sắp thấy dưới đây mưu đồ phản loạn của Pichegru, Cadoudal và Moreau.
Nhất là khi người ta thấy mọi chuyện bắt đầu được củng cố như hiệp ước hoà bình Lunéville với nước Áo, kéo theo hoà ước Amiens với nước Anh, khi người ta thấy François Đệ nhất, người đại diện cho phản ứng chính trị châu Âu, lại được khôi phục dưới con mắt của dân chúng Italie; khi người ta lại thấy vua Georges Đệ tam nước Anh đành chịu để ba bông huệ nước Pháp trên huy hiệu vua Henri Đệ ngũ; khi người ta lại thấy Ferdinand de Naples đóng cửa cảng với nước Anh; khi người ta thấy Bonaparte nghiêm túc đến Tuileries cùng vợ của mình với danh hiệu chỉ còn dưới tước hiệu nữ hoàng và thậm chí còn vượt xa các công chúa, khi Joséphine có bốn tì nữ đi kèm và bốn cận vệ cung điện, khi người ta thấy bà tiếp khách trong các phòng sang trọng gồm đủ những bộ trưởng, ngoại giao đoàn, các quan khách nước ngoài đức cao vọng trọng; khi trước cả bộ trưởng Bộ ngoại giao bà tiếp các đại sứ từ các quốc gia hùng mạnh nhất châu Âu mà hoà bình kéo họ đến Paris; khi người ta thấy cửa phòng làm việc của ngài Tổng tài mở ra, ông chỉ nhấc mũ trong khi các đại sứ quyền lực nhất đều phải nghiêng mình cúi chào ông; khi người ta thấy buổi lễ kỷ niệm ngày 18 Brumaire trở thành buổi lễ kỷ niệm Hoà bình; khi người ta thấy hai nghị viện đã đặt ngoài can thiệp của Giáo hoàng đại sứ của Chúa, và khi ông đối xử với giáo chủ như với các đại sứ từ các vương triều trên mặt đất khác; khi người ta thấy các nhà thờ lại mở cửa, lại vang bài Te Deum ở nhà thờ Đức Bà; khi người ta thấy Chateaubriand, người trước đây thấy Chúa bị đi đầy khỏi nước Pháp dưới bóng những cánh rừng nguyên sinh châu Mỹ và trong thác Niagara, lại xuất hiện "Thiên tài của Đạo Cơ đốc" ngay chính ở thủ đô này, nơi mà cách đây năm năm, ông thừa nhận và ăn mừng với Robespierre, thực thể tối cao và ra sắc luật thờ cúng vị thần Lý trí; khi người ta thấy Roma chịu thương lượng với phe Cách mạng và đức Giáo hoàng đưa tay ra ký hiệp ước gạt bỏ mình ra khỏi các tỉnh lỵ; cuối cùng, khi người ta thấy kẻ chiến thắng các trận Montebello, Rivoli, các Kim Tự Tháp, Marengo mang lại lợi ích cho hai viện lập pháp, hoà bình trên mặt đất bằng hiệp ước Lunéville, hoà bình trên biển với hiệp ước Amiens, trên không với Concordat (bãi bỏ tất cả các hành vi bài đạo) một đạo luật tuyệt vời, khi người ta thấy nó thì người ta tiếp nhận chế độ Tổng tài như một vương miện! Khi người ta thấy nước Anh không còn gì để hy vọng người ta lại có thể hy vọng rằng nhà độc tài này sẽ khôn ngoan trong tương lại cũng như đã từng vĩ đại trọng quá khứ, sẽ hội đủ những điểm đối lập mà Chúa không bao giờ tụ hội nhưng đức tính ấy trong một con người, sức mạnh của một thiên tài của các thủ lĩnh vĩ đại, sự nhẫn nại làm nên vận mệnh và vinh quang của các nhà sáng lập đếch, khi người ta có thể hy vọng rằng người đàn ông này, sau khi đưa nước Pháp trở nên hùng mạnh, sau khi lấp đầy vinh quang cho nó, sau khi đưa nó thành quốc gia đồng đầu, ông sẽ chuẩn bị cho nó quyền tự do và thái bình, nước Anh sẽ kinh ngạc nhận ra Pháp sẽ là quốc gia chặn mình trong cuộc chạy đua mới với Washington.
Nhưng trước hết đã có ruột cơ hội bất ngờ giúp ngài Tổng tài mang đến sự kinh ngạc và nghi ngại hơn nữa cho châu Âu. Được vua Tây Ban Nha giúp đỡ trong cuộc chiến chống Bồ Đào Nha, ông đã hứa cho hoàng tử Parme làm quốc vương xứ Etrurie.( Xứ Ý)
Hoà ước Lunéville đã thừa nhận lời hứa đó hoàng tử Parme, được chỉ định trị vì miền Toscane, vừa đến biên giới dải Pyrénées và chờ mệnh lệnh của ngài Tổng tài Bonaparte rất muốn cho họ xem nước Pháp, cho họ qua Paris trước khi họ đến Toscane chiếm lại ngai vàng xứ Florence của họ. Tất cả những người phản đối đều cười nhạo tư tưởng của ngài Tổng tài, họ cho rằng ông bây giờ cứ tưởng mình muốn gì được nấy. Thực ra ông rất thích cảnh ấy vừa cổ xưa lại xứng với những ngày vinh quang ở Rome, một ông vua do nền Cộng hoà phong tước. Ông thích chứng tỏ rằng mình không sợ gì hết ngay cả khi có sự xuất hiện nhà Bourbon trên đất Pháp. Phải thừa nhận rằng vinh quang của ông đã đặt ông lên tầm cao trội hẳn so với tất tả các dòng tộc trước đây, ông không chiếm ngai vàng của họ mà chỉ lấy vị trí của họ mà thôi.
Đây cũng là cơ hội lớn đầu tiên giúp ông chứng minh Paris đã lành khỏi tất cả những vết thương trong giai đoạn cách mạng, một chế độ Tổng tài cũng cho thấy sự giàu sang mà ít vua chúa nào cùng thời có thể sánh kịp. Chiến tranh làm nước Pháp lụi tàn nhưng nó đã lại vực dậy và giàu có.
Bonaparte gọi hai đồng minh đến. Cả ba thảo luận rất lâu về buổi lễ diễn ra trong sự chứng kiến của vua và hoàng hậu Etrurie. Họ đã thoả thuận trước hết họ sẽ giữ bí mật và sẽ đón tiếp ông bà hoàng với tư cách là vợ chồng bá tước Livourne. Với danh hiệu này, họ sẽ được đối xử giống như Sa hoàng Paul nước Nga và Joseph Đệ nhị dưới thời vua Louis XVI. Mệnh lệnh đã được ban ra trên khắp đường phố, đến các chính quyền dân sự và quân sự các tỉnh. Trong khi nước Pháp, tự hào được phong vua và sung sướng hơn nữa vì trong nước mình không ai làm vua, để hai vợ chồng hoàng tộc đi qua và vỗ tay hoan nghênh họ thì cả châu Âu ngỡ ngàng nhìn nước Pháp.
Trong nhà hát kịch Bordeaux, người theo triều đình tận dụng sự có mặt của hai người trẻ tuổi để thử phản ứng công chúng hô to: "Đức vua vạn tuế!" Thì lập tức tiếng la hét ầm ầm từ khắp khán phòng đáp lại "Đả đảo các ông vua!"
Hai hoàng thân trẻ đến Paris vào tháng Sáu, họ sẽ ở lại sáu tuần. Người ta nhận thấy Bonaparte, dù ở cương vị Tổng tài, tức là chỉ một vị quan chấp chính đương thời của nền Cộng hoà nhưng lại đại diện cho cả nước Pháp. Trước một con người đầy uy lực như vậy tất cả những ân sủng dành cho giới Bảo hoàng hầu như không còn nữa. Ngay cả hai vợ chồng hoàng thân trẻ tuổi này cũng chủ động đến thăm ông.
Ông sẽ thăm lại họ vào ngày hôm sau.
Chính nhà hát lớn là nơi ngài Tổng tài giới thiệu khách của mình với công chúng Paris. Nhưng đến ngày ấn định, Bonaparte, hoặc có tính toán hoặc bị mệt thật đã không xuất hiện được. Cambacères thay ông dẫn ông hoàng con đến nới. Bước vào lô dành cho ngài Tổng tài, ông nắm tay Bá tước Livourne và giới thiệu với mọi người trong tiếng nồng nhiệt hoan hô có thể là thật lòng.
Sự vắng mặt của ngài Tổng tài khiến người ta đưa ra không biết cơ man nào là giả thiết và cũng biểu lộ những dự đoán mà bình thường có khi không bao giờ ông được nghe. Những người cùng phe với ông thì cho rằng ông không muốn giới thiệu nhà Bourbon trên đất Pháp, quân triều đình lại khẳng định đó là cách chuẩn bị tư tưởng cho việc khôi phục lại nền quân chủ đã thất thế, số ít quân Cộng hoà còn sót lại sau vụ đẫm máu lại đoán rằng ông muốn nước Pháp quen với sự thiết lập lại nền quân chủ.
Các bộ trưởng ai cũng theo gương ngài Tổng tài, đặc biệt là Talleyrand, người có "gu" quý tộc lớn đến mức muốn lập lại hoàn toàn chế độ cũ mà theo cách nói văn vẻ thì ông là một bản mẫu hoàn hảo. Ông Talleyrand mở một buổi tiệc linh đình tại lâu đài Neuilly để chào đón hoàng tử và tất cả giới thượng lưu Paris đều đổ xô đến. Quả thực, rất nhiều người đã đến nhà vị Bộ trưởng Bộ ngoại giao này chứ không đến điện Tuileries.
Một điều ngạc nhiên đang chờ hai ông bà hoàng vốn còn chưa biết thủ đô tương lai của họ là gì. Giữa ánh sáng lung linh, thành phố Florence hiện ra với những nét đặc trưng nhất như bãi biển Vecchio. Tất cả các nhân vật đều mặc quần áo kiểu Italie, nhảy múa, hát ca trên bãi biển ấy, một đoàn thiếu nữ xinh đẹp đại diện cho các cô gái trẻ đến trao hoa cho tân quốc vương và trao vương miện chiến thắng cho ngài Tổng tài.
Nghe nói buổi lễ tốn mất một triệu của ông Talleyrand, nhưng đó là điều mà không ai ngoài ông có thể làm và nó đã nối được chính phủ với những người đồng thuận với chế độ cũ chỉ bằng một buổi dạ hội mà ông đã có dự định từ hai năm, bởi vì có rất nhiều người vẫn luyến tiếc chế độ cũ ấy vì những thứ họ đã mất, họ hy vọng có thể lấy lại trong nền quân chủ mới.
Cuối cùng, hai vợ chồng bá tước Livourne được bá tước Azara, đại sứ Tây Ban Nha, đưa đến La Malmaison Ngài Tổng tài tiếp ông vua con trong ngôi nhà quân cơ của mình, nhưng ông hoàng này chưa thấy buổi lễ nào như thế, chưa từng thấy các dải thêu và cầu vai nào như thế, nên sung sướng lao vào vòng tay của Tổng tài.
Đến đây thì cũng cần phái nói rằng ông hoàng con đáng thương là một kẻ ngốc hay cũng gần như vậy. Tạo hoá ban cho anh ta một trái tim hoàn hảo nhưng lại từ chối ban cho một bộ óc thông minh.
Thực ra thì nền giáo dục các tu sĩ mà anh ta được hưởng bằng cách nâng cao vai trò của con tim, chỉ càng có tác dụng phá huỷ chút loé sáng của trí tuệ mà thôi.
Louis de Parme để dành toàn bộ thời gian anh ta lưu lại Pháp ở lại La Malmaison. Phu nhân Bonaparte dẫn hoàng hậu trẻ đi xem tất cả các phòng và vì ngài Tổng tài chỉ ra khỏi phòng làm việc vào bữa tối nên các sĩ quan tuỳ tùng của ông buộc phải tháp tùng ông vua, vui chơi cùng anh ta.
"Thực ra - Công tước Rovigo, một trong số những tuỳ tùng của ngài Tổng tài cho biết - phải rất kiên nhẫn mới nghe hết những thứ trẻ con nằm trong đầu anh chàng đó. Nhưng vì chúng tôi biết cách nên đã chọn được những đồ chơi thích hợp mà thông thường người ta vẫn đặt vào tay trẻ con. Từ đó, ông ta không chán nữa.
Chúng tôi khó hiểu trước sự vô dụng của ông ta, chúng tôi phát chán khi thấy một chàng trai cao lớn, đẹp đẽ, người mang sứ mệnh điều khiển người khác lại run lên khi thấy một con ngựa và không dám trèo lên cưỡi. Suốt ngày giết thời gian với trò trốn tìm, nhảy lên vai chúng tôi và tất cả những gì ông ta biết là những bài cầu nguyện, đọc lời ban phước trước món canh hay ban ân trước tách cà phê.
Thế mà đó lại là bàn tay sẽ được giao phó vận mệnh cả một dân tộc khi ông ta đi nhậm chức ở quốc gia của mình, ngài Tổng tài đã nói với chúng tôi sau buổi tiệc tiễn đưa: "Rome có thể được yên ổn, người này sẽ không vượt được Rubicon đâu.
Chúa đã ban ơn cho con dân của Người khi gọi ông vua đó về bên mình chỉ sau một năm cai trị.
Nhưng châu Âu lại không thấy sự vô dụng của ông hoàng con đó họ chỉ thấy việc thành lập một vương triều mới mà thôi.
Và cả châu Âu đã tự hỏi sao lại có dân tộc nào kỳ lạ như dân tộc Pháp, họ chặt đầu các ông vua của họ nhưng lại phong vương cho các dân tộc khác.
Chương 30: Nổi giận
Có lẽ đến đây độc giả cũng thấy được vì sao tôi lại để các nhân vật lịch sử chiếm một vị trí trong cuốn tiểu thuyết này ngoài các phe phái đã nêu. Như vậy, tự họ sẽ xuất hiện vào truyện một cách vô tư, không thiên vị. Tôi không hề để mình bị ảnh hưởng bởi các kỷ niệm cá nhân về những bất hạnh của gia đình, về chiến trận ở Ai Cập mà cha tôi tham gia, cũng như bởi những lời tung hô của những kẻ ngưỡng vọng lúc nào cũng chỉ nghĩ đến ngợi ca, cũng không bởi "mốt" bây giờ là quay lại phản đối Napoléon Đệ tam, gièm pha quá khứ để nặn nên những nền tảng mà vương triều lung lay dựa trên đó. Không, không ai hiểu tại sao nhưng tôi đã rất chân thành và sự chân thành ấy, tôi chắc chắn mọi người sẽ công minh soi xét vào thời điểm thích hợp. Do đó niềm tin của tôi ở thời điểm chúng ta đang nhắc tới, ngài Tổng tài chắc cũng chờ đợi, là đi đến phản kết vận mệnh tối cao, hoà bình và chiến tranh trong đó hoà bình là điều được mong đợi hết sức nghiêm túc. Chúng ta sẽ không khẳng định được với tay chơi gặp may trước trò chơi để náu trên chiến trường, rằng (ông biết rõ và tin chắc) thỉnh thoảng giấc mơ của ông không bị những cái bóng của Arcole và Rivoli ám ảnh; chúng ta cũng không khẳng định được thỉnh thoảng quá khứ của ông lại không bị quấy đảo bởi cái nhìn mềm mại của những cành cọ trên sông Nil hay cái Kim Tự tháp vững trãi Gizeh. Chúng ta cũng không biết ông đã thoát khỏi các giấc mơ đen tối với tuyết ngập tràn ở Saint-Bernard hay khói mù mịt ở trận Marengo hay chưa. Nhmng chúng ta chắc chắn ông đã thấy những quả vàng sáng lên, những vòng cây sồi tượng trưng cho hoà bình trước những ưu đãi của số phận ấy đã đóng cánh cửa đền thờ Janus.
Tuy nhiên, với những gì Bonaparte vừa làm được ở tuổi ba mươi mốt thì cả Manus, Sylla và César đều không thể làm được trong cả cuộc đời họ.
Nhưng liệu ông có còn là chủ nhân giữ được sự bình yên đắt giá ấy không? Và liệu nước Anh, với ba con báo ông vừa nhổ nanh vuốt kia có để cho César đủ thời gian trở thành Auguste?
Tuy vậy, hoà bình lại là điều rất cần thiết cho Bonaparte để chinh phục ngai vàng nước Pháp, cũng giống như chiến tranh là điều tối cần cho ông mở mang nền tảng trước các ngai vàng khác ở châu Âu. Vả lại, Bonaparte không hề ảo tưởng trước dự định của kẻ thù truyền kiếp là nước Anh. Ông thừa biết rằng họ ký hoà ước chỉ vì họ không thể tiếp tục cuộc chiến do bị chia cắt khỏi các đồng minh của họ. Họ sẽ không để nước Pháp có thời gian tái thiết vùng biển, cuộc tái thiết phải mất tới bốn hoặc năm năm.
Bonaparte không lạ các dự định từ văn phòng của Saint-James, nếu ông bàn bạc với ông ta về nhu cầu của dân chúng, về lợi ích của hoà bình, về tiềm lực trong nước, về nghệ thuật, thương mại, công nghiệp hay bất cứ ngành nào đang phác lên sự trù phú của nền Cộng hoà, thì theo cách nhìn của ông ta, ông sẽ không chối gì hết nhưng ông ta sẽ nói rằng tất cả những thứ đó chỉ có thể có được trong sự hợp tác với nước Anh. Có điều, ông ta sẽ không ký hoà bình cho hai bên trong vòng hai năm mà không đả động đến vùng biển của mình trong cán cân thế giới và dùng vàng của mình tác động đến tất cả các quốc gia khác ở châu Âu. Thế là suy nghĩ của Bonaparte tuôn trào giống như một con sông xô đổ đập chắn của nó và ngay cả nếu ông đang họp bàn với người Anh, ông vẫn cảm thấy hoà bình mới ký đang vụt khỏi tầm tay.
Hoà bình chắc chắn sẽ bị huỷ bỏ - ông kêu lên - chắc chắn Anh quốc sẽ huỷ nó, thế thì tại sao không cẩn thận mà lường trước để chẳng phải sẽ tốt hơn khi không để cho chúng có thời gian lấy lại ưu thế và rồi giáng lại cho chúng ta đòn chí tử khiến cả thế giới phải kinh ngạc ư? điều này khiến ông chìm sâu vào những suy ngẫm sâu xa trong đó nước Pháp thì chờ đợi còn châu Âu lại giương cổ ngắm nhìn.
Quả nhiên, động thái của nước Anh càng chứng tỏ cho những nghi ngờ của Bonaparte là thật hay nói cách khác, giả sử Bonaparte muốn gây chiến thì Anh quốc sẵn lòng chiều theo ý muốn ấy và nếu có trách thì chỉ trách nó đi quá nhanh, điều mà chính Bonaparte cũng không muốn mà thôi.
Vua nước Anh đã chuyển thông điệp đến nghị viện của mình trong đó ông ta phàn nàn về lực lượng vũ trang trên các cảng của Pháp, yêu cầu ngũ viện có các biện pháp phòng bị để chống lại những tấn công mà kẻ khác đang mưu đồ. Ý đồ xấu xa này khiến ngài Tổng tài căm tức cực độ, ông cảm thấy rằng nhờ hoà ước này mà sự hợp lòng dân của ông ta mới tăng gấp đôi ấy thế mà mới ký với Pháp xong, Bonaparte đã thấy nó sắp bị huỷ bỏ.
Trên thực tế. Theo hiệp ước Amiens, Anh quốc phải trả lại đảo Malte nhưng họ đã không trả. Nước Anh phải trả Ai Cập nhưng nó vẫn đó, họ phải trả mũi Hảo Vọng thế nhưng họ vẫn giữ nó.
Cuối cùng, nhận thấy cần phải thoát ra khỏi tình hình khó khăn, không thể dung thứ và tệ hơn chiến tranh này, Bonaparte quyết định đàm phán với đại sứ Anh quốc một cách thẳng thắn nhằm thuyết phục phe của ông ta chấp nhận hai điểm: Trả lại Malte và Ai Cập. Điểm mới mà ông muốn thử là giải thích rõ ràng với kẻ thù và nói cho họ biết điều họ chưa bao giờ làm với nhau, sự thật về vị thế của ông.
Tối ngày 18 tháng Hai năm 1803, ông mời Lord Whitworth đến điện Tuileries, Bonaparte tiếp ông ta trong phòng làm việc, mời ông ta ngồi một đầu bàn lớn đối diện với ông.
- Thưa ngài, - ông nói - tôi muốn gặp riêng ngài để trực tiếp bày tỏ những dự định của tôi mà có lẽ không vị bộ trưởng nào có thể nói rõ bằng tôi.
Thế là ông nhắc lại những quan hệ của mình với nước Anh kể từ khi ông giữ chức Tổng tài, sự quan tâm của ông trong việc gửi điện báo việc nhậm chức của mình đến chính phủ Anh, việc từ chối vô lối từ phía ông Pit rồi ông ta vội vã nhượng bộ liên tiếp để ngồi vào bàn đàm phán và ký hoà ước Amiens. Ông tỏ ra, với vẻ đau đớn hơn là giận dữ, nỗi niềm phiền muộn khi cứ cố gắng mãi mà vẫn không đạt đến việc sống hoà thuận cùng Anh quốc.
Ông nhắc lại cho viên đại sứ nghe những mánh khoé mà ông phải nhường nhịn kể từ sau hiệp ước hoà bình. Ông tham phiền về những bài báo Anh chống lại ông, những lời thoá mạ được đăng tải trên phương tiện truyền thông của đám người tị nạn, về việc đón tiếp các hoàng thân quốc thích Pháp sang Anh những người vẫn chưa chấp nhận thất bại và cuối cùng, ông chỉ ra bàn tay nước Anh nhúng vào các lần mưu phản nhằm vào ông.
- Mỗi lần gió thổi từ Anh quốc đều mang đến cho tôi sự xúc phạm nào đó - ông nói thêm - và bây giờ, ông thấy đấy, chúng ta đang ở tình trạng cần phải thoát ra, đó là các vị có muốn thực hiện hiệp ước Amiens hay không? Về phần mình, tôi đã nghiêm chỉnh thực lên nó. Hoà ước ấy buộc tôi phải rút quân khỏi Naples, Tarente, các nhà nước La Mã trong vòng ba tháng thế mà trong hai tháng, quân Pháp đã không còn ở những nơi nói trên. Cách đây mười tháng, những phê chuẩn đều đã trao đổi thế mà bây giờ quân đội Anh vẫn còn ở Malte và Alexandrie.
Các vị muốn hoà bình? Hay các vị muốn chiến tranh? Mà nếu các vị muốn chiến tranh thì lạy Chúa, các vị chỉ cần nói ra. Còn nếu các vị muốn hoà bình, hãy rút quân của các vị khỏi Malte và Alexandrie. Vì nếu Malte, nơi tập trung nhiều lực lượng quân sự, chiếm một vị trí quan trọng với biển với tôi, nó còn mang ý nghĩa lớn hơn nhiều, đó là danh dự nước Pháp. Thế giới sẽ nghĩ thế nào khi chúng tôi để hiệp ước ấy bị vi phạm? Họ sẽ nghi ngờ sức mạnh của chúng tôi. Về phần mình tôi đã quyết rồi, tôi đã thấy các vị đặt chân lên đồi Montmartre và Chaumont hơn là Malte.
Whitworth đến nước này đành ngồi im bặt. Ông ta không có chỉ thị gì từ chính phủ về vấn đề đó nên chỉ đáp lại cơn xuất thần của ngài Tổng tài bằng vài lời qua quýt.
- Ngài làm sao mà xoa dịu được mối hằn thù của cuộc chiến tranh hai trăm mười lăm hay hai trăm mười tám năm giữa hai dân tộc chỉ trong vài tháng? Ngài cũng biết luật pháp nước tôi là vô hiệu với báo chí nên chúng tôi không có cách gì ngăn được họ thậm chí ngày nào họ cũng đả phá chính chúng tôi đây. Còn về phần tài trợ cho quân Bảo hoàng thì đó là khoản tiền thưởng cho phục vụ của họ trong quá khứ chứ không phải trong tương lai. Về việc tiếp đón các quan quân triều đình thì đó chỉ là truyền thống hiếu khách của quốc gia chúng tôi mà thôi.
Bonaparte bật cười:
- Đó không phải là con người của ông rồi. Tôi sẽ gắng chứng tỏ điểm yếu của các lý lẽ ấy. Nhưng chúng ta hãy quay trở lại vấn đề Malte đã.
- Thì đấy - Whitworth ngắt lời - Tôi có thể hứa với ngài rằng giờ này quân của chúng tôi đã rút khỏi Alexandrie, còn về Malte, lẽ ra mọi việc cũng đâu vào đấy nếu như không có các thay đổi chính sách của ngài đối với châu Âu.
- Ông muốn nói đến thay đổi nào thế? - Bonaparte kêu lên.
- Thì chẳng phải chính ngài đã "bổ nhiệm" tổng thống Cộng hoà Italie là gì?
- Vậy thì chính ngài đã nhầm lần lớn về ngày tháng rồi ngài Whitworth - Bonaparte cười nói - Chẳng phải việc bổ nhiệm ấy đã ấn định từ trước khi có hiệp ước Amiens sao?
- Nhưng các triều đình Etrurie mà ngài vừa sáng lập đó, ngài không hề hỏi ý nước Anh tí nào cả.
- Ông nhầm rồi Whitworth. Nước Anh được tham khảo nhiều đến nỗi dù hình thức ấy chẳng để làm gì, nó mong được vương quốc này biết ơn về sau cơ đấy.
- Nước Anh - Whitworth nói - đã yêu cầu ngài đồng ý cho việc lập vua Saldaigne nhưng vẫn phải nhà nước của mình.
- Tôi đã trả lời nước Áo, nước Nga và với ông rằng tôi không chỉ không bao giờ làm chuyện nó mà sẽ không cho nó đặc quyền nào hết. Chắc ông cũng không lạ gì tôi luôn có dự định sát nhập Piémont vào lãnh thổ nước Pháp. Việc thống nhất ấy là cần thiết cho quyền lực của tôi đối với Italie, quyền lực tuyệt đối bất di bất dịch. Bây giờ ông hãy xem bản đồ châu Âu đi, đây, chỉ hai chúng ta thôi. Hãy tìm đi, liệu có xó xỉnh nào, dù rất bé nhỏ, có bóng quân đội của tôi khi họ không có nghĩa vụ ở đấy hay không? Có đất nước nào bị tôi đe doạ hay muốn xâm lăng không? Không hề, ông thấy chưa, ít ra là cho đến khi hoà ước còn được tôn trọng.
- Thưa ngài Tổng tài, nếu là người thẳng thắn ngài đã thừa nhận ngài lúc nào cũng nghĩ đến Ai Cập rồi.
Dĩ nhiên là tôi đã nghĩ đến Ai Cập, đang nghĩ đến nó và sẽ nghĩ đến nó và tôi còn nghĩ khác nữa kia nếu các vị buộc tôi phải tái chiến. Nhưng ơn Chúa bảo vệ tôi không làm tổn hại đến hoà bình vì một vấn đề niên đại đế chế Thổ Nhĩ Kỳ đang lung lay, nó có nguy cơ bị huỷ diệt, vị trí của nó không phải ở châu Âu mà là ở châu Á. Tôi sẽ góp phần cho nó kéo dài càng lâu càng tốt nhưng nếu nó sụp đổ, tôi muốn nước Pháp sẽ thế chỗ ấy. Phải công nhận rằng nếu muốn với tướng quân hùng hậu tiến về Saint-Domingue, thì không gì với tôi dễ hơn việc tiến thẳng tới Alexandrie. Các ông có bốn nghìn quân ở đó, số quân lẽ ra phải rút khỏi Ai Cập từ mười tháng trước, còn xa số đó mới cản nổi tôi. Tôi có thể chiếm Ai Cập chỉ trong hai mươi bốn tiếng và lần này các ông không chiếm lại nó được đâu. Các ông cứ cho rằng quyền lực làm tôi mờ mắt tôi tác động đến chính kiến của nước Pháp và của châu Âu. Vậy thì tôi nói cho ông hay quyền lực ấy còn chưa đủ để cho tôi gây chiến một cách vô cớ. Nếu tôi điên khùng vô duyên vô cớ tấn công nước Anh thì uy tín chính trị của tôi uy tín đạo đức hơn là ảnh hưởng vật chất, sẽ ngay lập tức bị mất đi dưới con mắt cả châu Âu. Đối với nước Pháp, tôi cần uy tín ấy để chứng tỏ rằng người ta gây chiến với tôi không phải do tôi khơi mào, xúi giục tạo đà để đạt được mục đích. Nếu các ông buộc tôi chiến đấu thì các ông đã nhầm còn tôi, không hề! Giờ đây nếu ông còn nghi ngờ mong muốn gìn giữ hoà bình thì hãy lắng nghe và suy sét tôi chân thành đến mức nào.
Tôi đã ba mươi hai tuổi. Ở tuổi ba mươi hai, tôi đã đạt đến sức mạnh và danh tiếng khó mà hơn được nữa. Sức mạnh ấy, danh tiếng ấy, ngài có thật lòng cho rằng tôi lại mạo hiểm chúng cho một cuộc chiến vô vọng không? Không, phải ở trường hợp bất đắc dĩ mới quyết định như thế. Nhưng ngài hãy nghe rõ điều tôi muốn làm. Nếu xảy ra chiến tranh, sẽ không phải là cuộc đụng độ xoàng đâu, cũng không phải là một vài tàu chiến bốc cháy đầy đồ trên đại dương đâu mà cả đại dương sẽ nhuốm lửa. Tôi sẽ tập hợp hai mươi vạn quân, sẽ huy động hạm đội khổng lồ để vượt eo biển. Cũng có thể giống như Xerces, tôi sẽ dìm vinh quang và của cải của mình xuống đáy đại dương! Thậm chí cả mạng sống của mình nữa! Bởi lẽ đó là cuộc chiến một mất một còn, hoặc thành công hoặc bỏ mạng! - Vì thấy Whitworth nhìn ông ngỡ ngàng, Boraparte nói tiếp - Đó là sự liều lĩnh đúng không, thưa ngài, một cuộc đổ bộ vào đất Anh! Nhưng biết làm sao, đó là nơi César đã thành công tại sao tôi lại không chiến thắng nơi Guillaume, kẻ chinh phục, đã chiến thắng? Sự liều lĩnh này thật táo tợn, nhưng nếu bị ép buộc, tôi quyết định sẽ làm. Tôi sẽ dàn quân của mình. Tôi đã từng vượt qua dãy Alpes vào giữa mùa đông giá và tôi biết biến điều không thể thành có thể. Chỉ có điều nếu tôi thành công, hậu duệ của các vị sẽ khóc ròng trong máu lửa vì quyết định do chính các vị ép tôi. Tôi không thể chứng tỏ khác được sự chân thành khi tôi nói: " Tôi muốn hoà bình". Và tốt nhất cho hai bên là chúng ta tôn trọng hiệp ước, hãy rút quân khỏi Malte, hãy rút quân khỏi Ai Cập, hãy cho báo chí ngậm miệng, đuổi bọn ám sát ra khỏi lãnh thổ của các vị, hãy cư xử hoà hảo với tôi, tôi xin hứa sẽ đối đáp tử tế, hai nước chúng ta hãy cùng xích lại và cùng cai quản thế giới theo cách mà không nước Pháp hay nước Anh riêng lẻ có thể làm được. Các vị sẽ có biển và sử dụng mọi nguồn lực còn tôi có năm mươi vạn quân có thể sẵn sàng tuân lệnh tôi đi bất cứ nơi đâu tôi muốn. Nếu các vị là chủ miền biển, tôi sẽ là chủ mặt đất, hãy nghĩ xem, chúng ta nên hoà bình hơn là xâu xé nhau và chúng ta cùng thoả thuận chia xẻ phần thế giới còn lại!
Whitworth đã thông báo lại cuộc gặp của mình với Bonaparte với chính phủ Anh. Thật không may, một con người cao quý một nhân vật của toàn thế giới lại có bộ óc tầm thường.
Vua Anh đã không thể theo kịp người của Bonaparte. Với bài diễn thuyết dài và xuất thần ấy, vua Anh chỉ đáp lại bằng thông điệp sau đến Nghị viện:
"Ta thấy cần thiết thông báo đến hạ viện rằng, với những chuẩn bị quân sự đáng kể trên các hải cảng của Pháp và Hoà Lan, ta cho rằng nên có những hình thức đề phòng mới vì nền an ninh quốc gia. Dù các chuẩn bị ấy bề ngoài là dành cho các cuộc thôn tính thuộc địa nhưng hiện nay giữa ta và chính phủ Pháp đang có thương thảo quan trọng mà kết quả còn rất mơ hồ, cho nên ta quyết định cho thông báo nên các tổ chức trung thành của mình dù mọi mặt của cơ quan vẫn tiếp tục nhiệm vụ nặng nề và không mệt mỏi là gắng gỏi giữ hoà ước, mặt khác từ nay ta có thể hoàn toàn tin tưởng và trông mong các cơ quan ấy có thể sử dụng tất cả các biện pháp tình thế cần thiết vì vương triều cũng như vì lợi ích căn bản của dân tộc”.
Bonaparte biết được nội dung thông điệp trên qua Talleyrand.
Ông nổi giận đùng đùng giống như Alexandre vậy, tuy nhiên bằng sức mạnh thuyết phục của mình, ông Talleyrand đã cũng khuyên được Bonaparte kiềm chế và sẽ để cho nước Anh mắc sai lầm nếu có hành động khiêu khích.
Thật không may, ngày hôm sau lại là chủ nhật, ngày tiếp đón ngoại giao tại điện Tuileries. Tất cả các đại sứ đều đến đó vì tò mò nữa. Người ta muốn xem Bonaparte chịu đựng lời thoá mạ thế nào và ông sẽ đón tiếp đại sứ nước Anh ra sao.
Ngài Tổng tài đợi trong phòng phu nhân Bonaparte đang chơi cùng đứa con đầu lòng của vua Louis và hoàng hậu Hortense thì có thông báo cuộc họp các đại sứ đã chuẩn bị xong. Ông Rémusat, quản lý lâu đài đến thông báo tất cả đã đến dự.
- Ngài Whitworth đến chưa? - Bonaparte sốt sắng hỏi.
- Rồi ạ, thưa ngài - Rémusat đáp.
Bonaparte đang nằm trên thảm vội đặt cháu xuống, nhổm ngay dậy nắm tay phu nhân Bonaparte rồi đi qua cánh cửa thông với phòng tiếp khách, bước qua chỗ các vị đại sứ mà không đáp lại lời chào của họ, không nhìn họ mà thẳng tiến đến chỗ đại diện của liên hiệp Anh.
- Ngài đã có tin tức gì từ nước Anh chưa? - ông nói.
Rồi không để ông này kịp trả lời, Bonaparte tiếp:
- Vậy là các ông muốn chiến tranh chứ gì?
- Không, thưa tướng quân - Vị đại sứ nhún mình đáp - Chúng tôi thấy hoà bình mang lại nhiều lợi ích cho tất cả chúng ta.
- Vậy là các ông muốn chiến tranh - Tổng tài vẫn cao giọng vì nếu ông này không nghe, ông muốn tất cả đều nghe thấy - Chúng ta đã đánh nhau suốt mười năm, các ông lại muốn chiến tranh thêm mười năm nữa? Làm sao người ta dám nói chúng tôi chuẩn bị khí giới? Người ta đã nói dối châu Âu, áp đặt thế giới!
Không hề có chiến hạm nào trên cảng của chúng tôi, tất cả các chiến hạm dùng được đều đã đi Saint-Dominique, chỉ có một ở cảng Hà Lan. Người ta bảo giữa nước Pháp và Anh có mối tranh chấp. Tôi chẳng thấy tranh chấp gì cả, tôi chỉ biết rằng đảo Malte đã không được rút quân theo đúng hạn định, tôi không nghĩ các bộ của các ông lại nuốt lời thì không thực hiện một hiệp định trang trọng như thế. Tôi cũng không nghĩ rằng bằng vũ khí của các ông, các ông muốn dân tộc Pháp sợ hãi bị giết thì có thể, còn sợ thì không bao giờ!
- Thưa tướng quân - Viên đại sứ điếng người về sự cáu kỉnh ấy đáp Chúng tôi chỉ yêu cầu một điều, đó là sự thông minh bên nước Pháp mà thôi.
- Thế thì trước hết cần phải tuân thủ các hiệp định? - Tổng tài kêu to - Bất hạnh cho kẻ nào không tôn trọng hiệp định! Bất hạnh cho dân tộc nào lấy màn đen che phủ hiệp định!
Rồi ông dịu giọng và thay đổi nét mặt như thể mấy câu chơi trên không phải do một mình ông mà cả dân tộc ông nói:
- Cho phép tôi gửi lời đến bá tước phu nhân Dorset, vợ của ông. Sau khi trải qua một mùa thời tiết xấu ở Pháp, hy vọng bà sẽ khá hơn. Còn lại, tất cả không phụ thuộc vào tôi mà là nước Anh, nếu chúng tôi buộc phải cầm súng thì toàn bộ trách nhiệm cũng thuộc về họ có Chúa và mọi người chứng giám, vì họ không giữ lời cam kết của mình.
Rồi vừa chào Whitworth và các đại sứ khác, ông bước thẳng ra ngoài không nói với ai một lời nào nữa. Ông khiến cho toàn bộ các phái ngoại giao đáng kính sự sững sờ sâu sắc điều mà từ lâu họ cũng đã thấy.
Nguồn: http://vnthuquan.org/