Cách bờ biển Maroc vài dặm, đối diện với dãy núi Atlas, giữa các đảo Acores và đảo Cap-Vert mọc lên hòn đảo Cananes nữ hoàng với đỉnh núi hút vào tầm cao 7500 mét ẩn khuất trong mây quanh năm bao phủ.
Không khí nơi đây thật mát mẻ và trong lành đến độ người ta ngờ đỉnh của nó chỉ cách 30 dặm và từ các đỉnh đồi trên đảo người ta có thể quan sát được một con tàu cách đó 12 dặm trong khi thông thường chỉ 7 dặm là không nhìn thấy được gì.
Tại đây, dưới cái bóng của núi lửa khổng lồ, giữa những hòn đảo mà người xưa gọi là Đảo May Mắn, người ta có thể quan sát được eo Gibraltar, đoạn đường hai châu Mỹ sang Tây Ban Nha và con đường từ Ân Độ sang châu Âu và ngược lại. Surcouf đã cho tàu dừng tại đó lấy nước, thực phẩm tươi và mua một trăm chai vang hiệu Madère còn phổ biến ở thời đó nhưng ngày nay đã hoàn toàn biến mất nhường chỗ cho loại rượu nhạt mà người ta gọi là vang Marsala.
Từ Saint-Malo đến Ténériffe, ngoài luồng gió không thể tránh khỏi từ vịnh Gascogne thì thời tiết rất đẹp và đường thông với tàu cướp biển, loại tàu chuyên cướp hàng từ tàu buôn nước ngoài, thì đường thông tức là họ không gặp một tàu tuần tra nào săn đuổi, ngoài ra, để tránh tàu chiến Anh, người ta có thể dựa vào đường chạy xuất thần của tàu Revenant, đang áp sát, nó có thể đạt đến tốc độ 12 nơ một giờ. Trời đẹp cho phép Surcouf có thể cho tập bắn như thường lệ. Một lượng chai lớn treo lủng lẳng đã bị ông và nhất là René hầu như không bắn trượt cái nào.
Các thủy thủ khác không bao giờ đạt đến trình độ như thuyền trường vỗ tay rào rạt cho anh chàng thủy thủ trẻ. Nhưng điều khiến các sĩ quan đặc biệt ngưỡng mộ đó là những khẩu súng đẹp nhờ vào chúng anh thực hiện các kỳ công cực kỳ khéo léo.
Các vũ khí ấy gồm một khẩu súng trường nòng đơn giản dùng để săn các loại động vật nhỏ bằng đạn chì và một khẩu cạc bin cùng cỡ nòng có rãnh dùng để săn thú lớn hay bắn người ở những nơi con người đạt ngang hàng với loài thú hại. Hai hộp nhỏ hơn mỗi hộp đựng một cặp súng ngắn, trong đó, một cặp loại thường dùng đấu tay đôi, cặp kia dùng trong chiến đấu có nòng kép.
Ngoài ra, René còn tự tay làm một lưỡi rìu tấn công cho mình nhìn đơn giản như một mầu sắt nâu không trang trí hoạ tiết nhưng được rèn cẩn thận và rất sắc, nó được tra vào một cái cán nhỏ chỉ bằng ngón tay. Tuy nhiên, vũ khí bất ly thân anh đặc biệt chăm chút luôn đeo trên cổ bằng sợi dây chuyền bạc lại là một con dao găm nhỏ có hình giống dao Thổ Nhĩ Kỳ tức là hơi cong và giống như những người A rập ở Dams vẫn làm, với lưỡi dao đã cất kỹ, nó có thể chém đứt một chiếc khăn mỏng đang bay.
Thuyền trưởng Surcouf hả lòng hả dạ khi được René lên tàu của mình, nhất là sau khi phong cho anh ta làm thư ký riêng, điều cho phép ông được liên tục nói chuyện với anh. Thuyền trưởng Surcouf là người đăm chiêu và độc đoán vốn ít khi tán chuyện, tuy nhiên để giữ được sự phục tùng của đám quân tứ xứ và từng làm nhiều nghề khác nhau, ông rất quan tâm đến việc vui chơi và giải trí cho họ. Ông cho đựng trên tàu Revenant hai phòng tập, một ở đuôi thuyền dành cho các sĩ quan và một ở phía trước mũi dành cho các thủy thủ. Ông cũng dạy họ tập bắn, chỉ có điều các sĩ quan bắt buộc bắn lên mạn phải còn hạ sĩ quan và thủy thủ ở bên mạn trái.
Chỉ thuyền phổ, ngài Bléas mới được vào phòng của ông bất cứ lúc nào vì bất cứ chuyện gì. Nhưng đối với các sĩ quan khác, thậm chí cả trung uý, muốn vào trong ấy phải có lý do nghiêm chỉnh. René được miễn mọi thủ tục đó, nhưng e những chiến hữu khác ghen tị, anh ít khi tận dụng đặc quyền ấy và thay vì đến phòng Surcouf, anh để cho ông ta đến tìm mình.
Căn phòng của viên chỉ huy vô cùng sang trọng theo kiểu nhà binh: hai khẩu đại bác cỡ 24 ly được ngụy trang hoàn toàn, làm bằng đồng nhưng nhìn như bằng vàng chừng nào chúng còn được anh chàng da đen Bambou chăm sóc vì anh này có sở thích đặc biệt là soi mình vào đó. Trướng phủ tường toàn là vải Cachemire mang từ Ấn Độ, các loại vũ khí lấy từ khắp nơi được dùng làm đồ trang trí. Một chiếc võng đơn giản mắc giữa hai khẩu đại bác dùng làm giường. Ngoài ra phía dưới chiếc võng là một tấm thảm nơi Surcouf hay nằm ngủ thay vì nằm võng. Khi chuẩn bị chiến đấu, đồ đạc trong phòng có thể bị xộc xệch do va chạm với những đồ bị lấy đi và phòng này dành chỗ cho các pháo thủ.
Khi Surcouf đi dạo trên boong, ông ít khi nói chuyện với viên phó. Khi ấy mọi người đều vội nép sang một bên nhường lối cho ông. Bản thân ông, để tránh làm phiền họ, ông cũng thích đứng dựa vào một cây cột trên cao.
Cách ông gọi anh chàng da đen Bambou là gõ vào một chiếc trống mà âm thanh của nó vang dội khắp con tàu. Dựa vào âm lượng to hay nhỏ, người ta có thể đoán được tâm trạng của ông.
Tại chốn địa đàng ấy, từ tám ngày qua ông cho người của mình đổ bộ xuống chân ngọn Ténériffe, thoả chí săn bắn và câu cá. Ngoài ra, Surcouf còn bổ sung thêm trò vui mới là khiêu vũ.
Tất cả các buổi tối, dưới nền trời đính đầy những vì sao chưa từng biết đến ở châu Âu, đến giờ các loại cây thơm toả hương dìu dịu, gió biển thổi vào mát rượi, trên lớp cỏ mềm và mịn như một tấm thảm là các cô thôn nữ trong trang phục tuyệt đẹp lại xuống từ các làng Chasna, Vilafior và Anco. Ngày đầu tiên, họ rất bối rối không biết tìm đâu ra nhạc xứng với các vũ công nam minh hoạ và các vũ nữ xinh đẹp. Nhưng René đã nói:
- Hãy tìm cho tôi một cây đàn ghi ta hay vĩ cầm, để xem tôi còn nhớ nghề cũ không.
Để tìm cây đàn ghi ta ở một làng Tây Ban Nha thì chỉ việc với tay là được. Ngày hôm sau, René chỉ việc chọn trong mười cây vĩ cầm và rất nhiều đàn ghi ta lấy một thứ, anh cầm đại một chiếc và ngay âm thanh đầu tiên, người ta đã nhận ra đôi tay bậc thầy. Ngày hôm sau dàn nhạc đã nổi lên giữa tiếng sáo, trống và tiếng nhạc cụ Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của René.
Đôi khi René bị những kỷ niệm xưa cuốn đi khiến anh quên cả điệu nhảy lẫn các vũ công để chìm vào một nỗi buồn bất thần. Thế là điệu nhảy dừng lại, người ta đặt tay lên môi ra hiệu im lặng tiến lại gần anh. Cơn muộn phiền kéo dài lâu hay chóng và mỗi lần như thế xong, Surcouf lại tự nhủ: Vợ mình nói đúng, quả nhiên có nỗi thất tình lẩn khuất đâu đây.
Một buổi sáng, René bị một cuộc chuẩn bị tấn công đánh thức dậy. Họ nhận ra phía thượng miền đảo Cap-Vert cách đó ba dặm trên biển có một chiếc tàu mà qua hình dạng cánh buồm cho thấy đó là tàu Anh. Khi nghe tiếng kêu "Một thuyền buồm!", lập tức Surcouf chồm lên boong và ra lệnh chuẩn bị tấn công. Mười phút sau, trong lớp vải buồm dày lên, trong tiếng va chạm chuẩn bị cuộc chiến, con tàu quay ra biển tiến về phía chiếc tàu Anh.
Năm phút sau, đến lượt René lên boong tay sách súng cạc bin, súng ngắn hai viên đeo trên thắt lưng.
- Có lẽ chúng ta sắp vui đùa một chuyến - Surcouf nói.
- Cuối cùng cũng đến lúc - René nói.
- Cậu muốn tham gia không?
- Có chỉ có điều tôi muốn ngài dành cho tôi một chỗ để không ảnh hưởng đến ai.
- Được thôi! Hãy đứng cạnh tôi và hạ bất cứ tên nào chĩa súng về phía chúng ta.
- Bambou đâu? - Surcouf gào lên.
Tên da đen lại gần ông.
- Đi tìm cho ta Sấm sét lại đây.
Sấm sét là tên khẩu súng trường của Surcouf, còn một khẩu vừa tên là Badin.
- Và mang cả súng cho ngài René nữa - Surcouf nói thêm.
- Không cần đâu - René chen vào - tôi có sinh mạng bốn kẻ trong đai lưng và một tên nữa trên tay đây rồi. Với một kẻ nghiệp dư, tôi nghĩ thế cũng là quá nhiều.
- Quân Anh làm gì thế, Bléas? - Vừa hỏi Surcouf vừa trao súng cho viên thuyền phó, với ống nhòm theo dõi quân Anh.
- Chúng thay neo và tìm cách tránh chúng ta, thưa chỉ huy.
- Chúng ta có theo kịp bọn chúng không?
- Đuổi được tôi thấy điều này rất hiển nhiên.
- Ê này - Surcouf nói to - hãy giương buồm vẹt và buồm phụ lên để trên.
Revenant vừa lượn điệu đà vừa cảm nhận được lệnh tăng tốc của ông chủ. Về phần mình, quân Anh cũng căng hết buồm song như thế chỉ càng tạo thuận lợi cho thuyền của ngài Surcouf.
Thuyền trưởng Surcouf ra lệnh bắn một quả đạn để nhận dạng quốc gia rồi giương cao lá cờ ba màu để chứng tỏ mình thuộc nước nào. Tàu Anh cũng làm như vậy và chẳng mấy chốc hai tàu đã rơi vào tầm đạn của nhau, tàu Anh khai hoả bằng hai phát đại bác trong hy vọng hạ cột buồm tàu cướp biển hay làm hư hỏng chỗ nào đó để bắt nó giảm tốc độ. Nhưng phát đạn đó gây ra ít thiệt hại và chỉ làm bị thương hai người. Quả đạn thứ ba vọt đến trong tiếng hú kinh hãi và không tả được của René, anh chàng này còn chưa quen với sự phá huỷ nên không biết đó là chuyện gì.
- Cái quỷ gì vừa bay qua đầu chúng ta thế? - René hỏi.
- Anh bạn trẻ của tôi - Thái độ của người đáp cũng thản nhiên như người hỏi - Đó là hai quả đạn bay. Cậu biết cuốn tiểu thuyết của ngài Laclos chứ?
- Cuốn nào?
- "Những mối liên hệ nguy hiểm".
- Không.
- Đó là kẻ phát minh ra hai quả đạn rỗng vừa bay qua đầu anh đấy. Nó có làm anh khó chịu không?
- Thật tình là không, nhưng khi khiêu vũ, tôi muốn biết tên các nhạc cụ trong dàn nhạc nữa cơ.
Surcouf trèo lên ghế trực và nhận thấy họ chỉ cách nửa tầm đại bác.
- Các anh đã chuẩn bị cỡ 36 chưa?
- Rồi thưa chỉ huy. - Lính pháo binh đáp.
- Các anh phóng thế nào?
- Ba loạt đạn.
- Chuẩn bị châm lửa.
Và khi nhìn thấy bên tàu địch cũng làm tương tự ông hô:
- Bắn!
Quân Anh đổ vật ra boong, con tàu bị hư hại nặng.
Sau đó ông chống tay lên thanh chắn mạn phải nói:
- Cứ để chúng đến gần hơn!
Khi hai bên ở trong tầm súng, Surcouf nhả lại phát đạn từ khẩu Sấm sét và đã có hai kẻ đổ từ bục của cột buồm lớn xuống sàn tàu. Nhưng ông đã để rơi súng, René nhìn thấy vội chìa súng của mình ra:
- Súng của ngài, nhanh lên!
Surcouf nhún vai nhanh rồi nhả đạn. Ông vừa nhìn thấy trong buồng thuyền trưởng quân Anh có một tên bắn pháo chuẩn bị châm lửa cho khẩu cỡ 12 dội sang thuyền của ông. Những trước khi châm lửa, hắn đã tử vong. - Bằng hành động ấy, Surcouf đã vừa cứu mạng mình và cả ban tham mưu của ông. Đứng cạnh ông, René hạ một tên pháo binh vừa chạy đến thay cho kẻ bạc mệnh trước đó bằng súng ngắn vì hai tàu đã sát nhau. Rồi anh hạ ba tên khác trên cột buồm lớn và cột phụ. Hai tàu chỉ cách nhau chưa đầy chục bước thì Surcouf hét to:
- Bắn mạn trái!
Một cơn mưa đạn vãi từ tàu Revenant lên boong tàu Anh.
Lúc quân Anh chuẩn bị khai hoả giàn pháo bên mạn phải thì nó nhận một cú bồi khủng khiếp nữa từ tàu Revenant làm vỡ vụn một bên thành. Cột buồm chính đổ gục khiến các chân gác trên đó vội nhảy xuống biển.
Giữa tiếng động long trời lở đất ấy, người ta nghe rõ giọng của Surcouf ra lệnh:
- Tấn công lên tàu!
Tiếng hét ấy được 150 giọng nhắc lại rồi họ tràn lên cho đến khi có tiếng hét khác từ trên tàu Anh.
Cờ đầu hàng đã hạ!
Trận chiến kết thúc. Tàu chặn có hai người chết và ba người bị thương trong khi tàu Anh đếm được 12 người thiệt mạng và 20 người khác bị thương.
Thuyền trưởng Surcouf cho dẫn thuyền trưởng tàu Anh đến.
Kẻ này khai con tàu ông vừa chiếm tên là Ngôi Sao Liverpool được trang bị mười sáu khẩu pháo cỡ 12 ly. Nhận thấy nó ít giá trị, Surcouf bằng lòng chỉ lấy tiền.
Khoản tiền lấy được là 600 đồng bảng Anh. Surcouf chia toàn bộ cho thủy thủ đoàn làm tiền thưởng để khích lệ tinh thần đã hăng hái của họ còn ông không giữ lại gì cho mình. Nhận thấy con tàu kia có thể gặp một tàu Pháp khác nhỏ hơn và nó sẽ trả thù vì vụ thua vừa rồi nên ông ra lệnh cho Bléas sang tàu bên đó, ném hết pháo và thuốc nổ xuống biển.
Sau đó, tàu Revenant lại tiếp tục lên đường đi về phía mũi Hảo Vọng trong mềm tự hào trước trận chiến vừa rồi, với con tim sung sức sau tám ngày nghỉ ngơi ở Ténériffe và sung sướng có được một con người rộng lượng như René, người mà có ngày sẽ trả khoản hạ thủy của con tàu một cách trung thực.
Tuy nhiên, trong khi đến cái ngày hôm ấy, cả thủy đoàn còn việc khác phải làm hơn là dâng cho Hải Vương một cuộc diễu hành vĩ đại trước các vị hải thần.
Chương 56: Tàu chiến
Quả nhiên, trước hôm Surcouf định vượt qua xích đạo, đúng hơn là chính ngày hôm ấy, khoảng ba giờ sáng một sớm bình minh đẹp trời tháng Chín, thủy thủ đứng gác thông báo:
- Có một cánh buồm!
Hầu như Surcouf lao ra khỏi phòng ngay lập tức.
- Nó đi theo đường nào? - ông ta hỏi.
- Nó đến từ phía tây bắc và hình như đi xuống hướng đông nam, điều này có nghĩa là nó đi cùng đường với chúng ta.
Những câu nói trên vừa thốt ra, Surcouf đã leo lên boong đuôi tàu rồi qua bục, leo đến nấc buồm đầu tiên trên cột lớn. Từ "có tàu" đã trở thành từ ma thuật đối với toàn đội, một phần tư trong số họ đã tràn đến các trục ngang dùng để căng buồm để ước lượng sức mạnh của con tàu họ sắp đụng độ: Nó có vẻ đi cùng đường với tàu Revenant, chỉ có điều khác là có lẽ nó đến từ vịnh Mehico. Tàu Revenant chạy chậm lại và lái tránh tầm đạn của tàu Anh. Thuyền trưởng Surcouf muốn thận trọng trước quyết định tấn công hay bỏ qua của mình. Cả hai con tàu đều dò xét lẫn nhau và vì khoảng cách giữa chúng khá xa nên việc quan sát ấy kéo dài gần hai tiếng. Ngày mới đã đến, nền trời loang ra nhờ ánh sáng trắng cũng là khi người Anh nhận ra thế thượng phong trong nước chạy của tàu Revenant. Qua hình dạng cánh buồm và các cột buồm giương cao họ cũng mơ hồ đoán được đây là tàu cướp biển. Tàu Anh nhanh chóng khẳng định mình bằng cách kéo cờ và bắn một phát súng đại bác, màu cờ nước Anh giống như một ngọn lửa thảm hoạ phất phới đậu trên đỉnh cột buồm. Tiếng đạn rít trên mặt biển, lướt trên đầu con sóng phóng lên cao dần rồi lao qua đầu tàu cướp biển rơi xuống màn bên kia làm nước bắn trung toé.
Thuyền trưởng Surcouf khinh miệt để viên đạn bay quanh như thể với ông nó chẳng có nghĩa lý gì. Tuy thế, ông vẫn không cho đây là thuyền buồm đơn thuần và huýt sáo ra hiệu im lặng rồi ra lệnh:
- Tất cả lui lại phía sau!
Thủy thủ đoàn bao gồm gần một trăm năm mươi người rút lại xung quanh vào phía trên bậc lên xuống cầu thang ướt đẫm vẫn dùng làm bàn chỉ huy trong trường hợp trang trọng. Surcouf muốn tách người của mình ra, không muốn tham khảo ý kiến các sĩ quan về việc tấn công con tàu lạ kia vì họ sẽ khuyên ông từ bỏ dự định quá mạo hiểm. Họ không biết trên tàu có đông thủy thủ và khách hay chỉ biết trên boong có đầy người mặc quân phục.
- Anh em! - Surcouf lên tiếng trong một bài diễn văn ngắn - Dù vẻ bề ngoài của con tàu rất oai vệ nhưng đây không phải là một tàu chiến, tôi xác định đây là một tàu trong Hiệp hội Anh.
- Đúng là chúng ta không đủ mạnh để hạ nó bằng đại bác nhưng chúng ta sẽ tấn công tàu ấy, mọi người đến cầm vũ khí. Vì cuộc chiến sẽ rất khốc liệt, tôi cho mỗi người một tiếng chuẩn bị.
Nghe xong, thủy thủ nào cũng reo lên sung sướng và trở về vị trí lấy vũ khí dưới chân mũi. Chỉ huy phát vũ khí cho mọi người: gươm, rìu, súng, dao găm dùng trong trường hợp đánh giáp lá cà nguy hiểm. Những thủy thủ phụ trách dây rợ trang bị cho mình súng hai lòng, các thùng đạn trong khi các hạ sĩ lại chuẩn bị những cái móc rất đáng sợ. Hai bác sĩ phẫu thuật trên tàu cùng các y tá chuẩn bị một phòng để đón các thương binh, những khay đựng cồn, thuốc bày la liệt.
Một tiếng còi rít lên ra hiệu cho mọi người về vị trí chuẩn bị chiến đấu. Thuyền trưởng tàu Anh tin tưởng vào sức mạnh của mình, cho đổi hướng tàu để sẵn sàng nghênh chiến, đồng thời cử một sĩ quan đại diện mình đi mời các hành khách kể cả các quý bà. Họ vẫn chưa đứng dậy lên khoang thượng ở đuôi tàu để chứng kiến cảnh bắt sống hay nhấn chìm một tàu cướp biển của Pháp.
Thuyền trưởng Surcouf nhận ra cơ động của đối phương cũng cho chuyển hướng tàu ra nghênh địch, như vậy tàu của ông sẽ tấn công từ mạn trái còn tàu Anh từ mạn phải. Hai bên đã giáp lại gần nhau đến độ ông có thể đọc được tàu địch mang tên Standard. Nó đã giương tất cả các cánh buồm còn Surcouf thì không thèm trả miếng. Khi Surcouf nhìn thấy trên boong tàu địch lố nhố quân, ông phát cho chục thủy thủ hai giáo dài, cho họ xếp hàng ở giữa boong và tấn công bất kể là quân ta hay quân địch.
Các đài cánh buồm cũng đã có người gác, đạn được trang bị nhiều các khẩu đại bác bằng đồng ánh lên dưới nắng mặt trời.
Cuối cùng các tay súng giỏi nhất tàu Revenant phục kích ở các bè gỗ hay xà lan để từ đó bất ngờ nhắm bắn sĩ quan Anh.
Trên khoang thượng của đuôi tàu đối phương, các quý bà xinh đẹp và các quý ông sang trọng đang lơ đễnh ngắm nghía, kẻ bằng mắt thường, người dùng ống ngắm. Bléas nói với Surcouf.
- Ngài có thấy rõ tất cả đám váy áo và các công tử bột trên khoang thượng kia đang có vẻ như chế giễu chúng ta không? Chúng vẫy tay chào và ra hiệu như muốn nói: Chúc lên đường may mắn, bọn ta sẽ cho các người chìm nghỉm, đừng quá buồn ở dưới đáy đại dương nhé?
- Đó là trò trẻ con! - Surcouf đáp - Đừng bực mình về mấy con rối xinh đẹp ấy làm gì, chưa đầy một tiếng nữa anh sẽ thấy chúng phải khom lưng cúi đầu trước cái nhìn của chúng ta, nhất là hãy nhìn tên bắn pháo bất cẩn kia.
Đó là một thanh niên trẻ đẹp, đầu trần, tóc vàng bay lơ phơ trong gió. Hắn vừa rời thành tàu để nạp đạn vào cỗ pháo. Surcouf nhả đạn viên đạn sượt qua tóc hắn nhưng chưa chạm vào người, hắn giơ tay vẫy vẫy và làm động tác giễu cợt, hắn tưởng còn thời gian rút vào trong trước khi Surcouf kịp nạp đạn nhưng hắn đâu biết khẩu Sấm sét của ông là khẩu hai viên, ông bắn tiếp và lần này kẻ đẹp trai gục xuống như một cái cây đổ, hai tay ôm lấy khẩu pháo, chân thõng ra, tay còn bám vào nòng pháo nhưng chỉ lát sau hai tay oải dần rồi cả người rơi tõm xuống biển mất tăm.
Không một chi tiết nào của cái chết vừa rồi lọt qua tầm nhìn của Surcouf và nó để lại cho ông một cảm xúc rất sâu sắc.
- Tất cả nằm xuống chờ lệnh mới! - ông ra lệnh sau khi im lặng một lát chờ cho cơn xúc động của mình dịu xuống.
Ông vừa dứt lời, tàu Anh vãi đạn ra từ tứ phía, nhưng đó là ngày may mắn của thuyền trưởng Surcouf. Nhờ lệnh vừa đưa ra, không một người nào của ông bị trúng đạn. Ngay khi Surcouf bị lộ ông cho tàu quay ra sau địch tiếp cận mạn trái. Để tránh cú áp sát đó tàu Standard giống như một chú bò mộng cũng không ngừng quay để chìa cái trán có cặp sừng đổi hướng buộc tàu Revenant đột ngột trở lại mạn tàu có gió bên trái để vượt lên đối thủ lần thứ ba.
Trước thái độ cương quyết của địch, người Anh hiểu rằng họ phải giải quyết bằng cuộc đấu giáp mặt. Thuyền trưởng tàu Anh quay cần bánh lái để rẽ. Tàu Standard, có ưu thế hơn về kích thước cánh buồm nhưng giờ đã hạ bớt để khai hoả nên không thể vượt lên, nó chậm hơn và lùi dần ngang hàng với Revenant. Trong nỗi sợ bị nó vượt và mong muốn bắt tàu địch giảm tốc độ, Surcouf hét: "Bắn!" và vừa cho tàu ghé sát vào vừa ra hiệu bắn hai quả đạn đại bác kèm các loạt đạn. Đúng lúc hai con tàu va vào nhau, một tiếng va chạm ghê gớm vang lên, hai cột buồm quấn sát vào nhau. Chúng sát nhau đến nỗi các nòng đại bác có thể chạm nhau được.
Cả hai bên cùng ra lệnh "Bắn!" và cả hai cái họng đều nhả đạn chỉ có điều các ụ pháo của tàu Revenant ở dưới dàn pháo của Standard và trong khi đạn của tàu Revenant bắn thủng thành tàu cách boong một bộ về phía trên và phá mọi thứ nó gặp phải thì cũng là lúc tàu Anh hỗn loạn thật sự. Surcouf đã tấn công ác liệt đến nỗi quân địch chưa kịp hoàn hồn xem chuyện gì vừa xảy ra.
Người trên tàu thì cứ nghĩ sau loạt đạn vừa rồi, tàu cướp với lực lượng kém hơn ba lần, thì không đời nào Surcouf dám cho áp sát.
Thế là họ túng tụm lên thành để tận hưởng sự thất bại của Revenant. Nhưng họ đã ngạc nhiên và phải nói là kinh hoàng khi thấy các móc tung ra níu lấy Standard từ tứ phía rồi mỏ neo nặng bên mạn phải của tàu cướp thả xuống khiến nó đứng im tạo thành cây cầu chắc chắn nối hai con tàu với nhau. Rồi kinh hãi của người Anh không thể tả nổi khi thấy mưa đạn xối đến xuyên qua Standard, khiến hai mươi đến hai mươi lăm người bị thương hoặc bị chết nằm trong vũng máu loang.
- Đến lượt cậu tràn sang, Bléas! - Surcouf hét lên bằng một giọng gần như là gào thét.
- Tấn công! - Cả đoàn đồng thanh reo lên và lao sang tàu địch với đà dũng mãnh.
Surcouf ra lệnh cho hai tay trống đứng gần mình đánh liên hồi. Được tiếng trống thúc giục, những thủy thủ từ tàu cướp biển trong tay cầm rìu, gươm, dao găm, môi mím chặt giận dữ, mắt đỏ vằn, dùng mọi thứ có thể để leo sang mạn tàu thủng của địch.
Trong khi đó, trên các cánh buồm của tàu Revenant, Guide và Avriot cũng vãi đạn sang boong tàu địch để yểm trợ. Một lát sau, khi thấy họ có vẻ dừng lại, Surcouf ra lệnh:
- Nào, Avriot! Bắn đi, Guide! Bắn đi, bắn liên tục vào!
- Chờ đã, thưa thuyền trưởng - Chàng thủy thủ chịu trách nhiệm chăng dây tên là Guide từ trên xà ngang cánh buồm nói - Có hai người ném đạn dưới trục vừa bị giết.
- Thế thì hãy ném hai cái xác ấy sang quân Anh. Họ có vinh dự, dù đã chết, vẫn là người đầu tiên đặt chân lên tàu địch!
Ngay lập tức, hai cái xác được tung mạnh từ những cánh tay rắn rỏi, tạo thành một đường vòng cung và rơi vào giữa đám sĩ quan. Một dàn trống vội giãn ra quanh xác họ.
- Tiến lên các bạn! - Bléas hô to - Chúng ta hãy tận dụng lúc chúng lùi xuống đi nào?
Tất cả nhóm leo lên cây cầu nối hai mạn tàu, ba người đi đầu là anh chàng da đen Bambou, anh này cá cược khi cập mạn anh ta sẽ là người đầu tiên lên boong tàu Anh, hai người khác là René và Bléas. Bambou cầm một cây lao và sử dụng vô cùng linh hoạt, mỗi nhát phi lại giết chết một tên Anh. Chiếc rìu của René cũng vung lên đôi ba lần, kẻ nào bị nó đón đều nằm gục ngay.
Nhưng bỗng nhiên René sững lại, đứng im ngạc nhiên nhìn trân trân trước cảnh hãi hùng diễn ra khi thấy một hành khách bị thương giữa ngực đang được đưa đi. Hai cô con gái đi sát qua anh và xông vào giữa cảnh tàn sát chết chóc ấy mà không nghĩ đến nguy hiểm có thể xảy ra với mình: Một cô đỡ đầu, người kia hôn tay. Cho đến khi nhóm người ấy chạy khuất vào cửa boong, René vẫn chưa thể rời mắt khỏi khuôn mặt tái nhợt của kẻ bị thương nơi đang diễn ra những đợt co giật cuối cùng trong cơn hấp hối.
Đoàn người đã khuất hẳn, René vẫn nhìn theo. Phải đến khi Bléas đẩy mạnh anh sang bên và bắn chết một tên Anh đang bổ rìu xuống đầu anh, bấy giờ René mới tỉnh hẳn và lao vào giữa quân Anh.
Thuyền trưởng Surcouf lên mạn tàu Standard và lướt mắt nhìn toàn bộ quang cảnh trên boong chứa đầy trang phục màu đỏ những ông ta ngạc nhiên khi thấy các chỗ trống không thể ngờ lại được lấp đầy nhanh đến vậy dù người của ông vô cùng anh dũng.
Kernoch tay cầm que thông nòng trong tay và sử dụng nó như một cái chuỳ. Mỗi cú đánh của anh chàng Héc-quyn xứ Bretagne lại lấy một mạng, nhưng dù can đảm đến mấy các thủy thủy tàu của Surcouf vẫn chưa đến được chân cột buồm lớn.
Thuyền trưởng Surcouf nhìn bao quát trận chiến đẫm máu dự định cho bắn hai quả đạn cỡ mời sáu xuống đuổi tàu nhằm đánh lạc hướng để người của mình chuyển đạn nhỏ sang tàu địch.
- Hãy xếp hàng bên cầu tàu! - Surcouf ra lệnh.
Những ai đoán được ý định của ông đều nhanh chóng xếp hàng lên mạn để thùng đạn sắt qua dễ dàng. Cùng lúc đó, một tiếng nổ rền rĩ vang lên hai khẩu đại bác khạc đạn của chúng lên khoang thượng của tàu Standard. Thảm cảnh đó đã tưởng như triệt tiêu lòng can đảm của quân Anh thì lại năm mươi người mới lao ra. Nhưng thật bất hạnh cho Standard, Avriot và Guide vừa chuyển hai hòm đựng đầy đạn sang và đang xả đạn trên boong, một viên nổ ngay dưới chân bục chỉ huy và viên thuyền trưởng đổ soài ra đất.
- Chỉ huy đã chết! - Surcouf reo lên - Chỉ huy đã chết rồi.
- Nói bằng tiếng Anh đi, ai biết tiếng Anh thì nói đi.
René nhảy hai bước lên phía trước, giơ mũi rìu be bét máu và kêu to:
- The capitain of the Standard is dead, lower the flag!
(Thuyền trưởng tàu Standard đã chết, hạ cờ xuống!)
Mệnh lệnh bằng tiếng Anh này chuẩn đến nỗi kẻ giữ cờ cứ ngỡ thuyền trưởng đã chết và thuyền phó của Standard ra lệnh hạ cờ liền tuân theo tức thì. Tuy nhiên, trận chiến trên boong vẫn tiếp diễn, viên thuyền phó tàu Standard thấy chỉ huy không còn nữa bèn lao ra boong để chỉ huy và kêu gọi những quân Anh còn lành lặn. Mặc dù cái lò mổ khủng khiếp diễn ra trên tàu Standard những vì con tàu này chỉ quen đi Calcutta nên nó còn nhiều người có khả năng cầm vũ khí hơn là quân của Surcouf. Thật may là trên boong đã thuộc quyền kiểm soát của tàu tấn công. Họ dồn thuyền trưởng mới và vài tên khác vào boong và khép chặt cửa. Viên thuyền trưởng mới vẫn ngoan cố, ra lệnh bắn hai quả đại bác cỡ mười tám ở giàn pháo lộ thiên nhằm phá thủng cánh buồm và chôn vùi Surcouf cùng ban tham mưu của ông dưới các mảnh vụn.
Vừa nghe lệnh bắn đại bác, Surcouf vội mở cánh cửa lao vào giàn pháo. Tại đây, suýt nữa Surcouf đã bị mất mạng khi định cứu một chuẩn uý hải quân Anh trẻ tuổi, người này đã kháng cự rất anh dũng nhưng đã bị nhiều vết thương và máu chảy nhiều.
Surcouf vội lao về phía anh ta để lấy thân mình che cho anh ta, song kẻ này không hiểu ý định nhân từ của vị chỉ huy người Bretagne liền lao lên gắng sức đâm dao găm vào ông. Anh chàng da đen Bambou nhận ra mạng sống của ông chủ mình bị đe doạ liền phóng mũi lao vào tên chuẩn uý bất hạnh khiến hắn chết ngay tức thì. Surcouf sẽ chết nếu không có mũi lao ấy. Lần này, đám người trong giàn pháo cũng lại đầu hàng như quân trên boong.
- Không chém giết nữa! - Surcouf ra lệnh - Tàu Standard đã thuộc về chúng ta, nước Pháp muôn năm! Tổ quốc muôn năm!
Tiếng hò reo vang vội vã cuộc tương tàn chấm dứt, một tiếng hét lớn khác vang lên:
- Hai tiếng quỷ tha ma bắt!
- Tôi đã hứa thì tôi phải giữ lời chứ - Surcouf nói và quay sang René - nhưng chúng ta chớ quên hành khách được miễn khỏi vụ cướp. Tôi sẽ để ý để bảo đảm quyền lợi của họ. René, hãy nhân danh tôi đi che chở danh dự cho phụ nữ đi.
- Cảm ơn ngài Surcouf - René nói và vội vàng chạy vào các phòng hành khách dọc đường đi, anh ta gặp một bác sĩ trên tàu.
- Thưa ngài - Anh chặn ông ta lại hỏi - Có một hành khách bị thương rất nặng, ngài có thể chỉ phòng ông ta cho tôi không?
- Người ta đã đưa ông ấy sang phòng các con gái của ông ấy.
- Thế phòng đó ở đâu?
- Đi vài bước nữa anh sẽ nghe thấy tiếng khóc nức nở của những đứa trẻ tội nghiệp.
- Không còn hy vọng cứu ông ấy nữa à?
- Ông ấy vừa mới tắt thở.
René dựa người vào cửa cabin, đưa tay lên mặt và thở dài.
Đúng lúc đó, một toán người đang ngất ngây trong rượu và máu toả lên boong vừa hú gào vừa hát hò, họ đụng vào mọi thứ, hắt đổ tất cả. Các cánh cửa cabin bị họ đập tung khiến René chợt nhớ đến hai cô gái xinh đẹp đang khóc. Hình như có một tiếng hét tuyệt vọng thốt ra từ miệng phụ nữ vọng đến. René lao lại phía cánh cửa, lần này anh nghe rõ tiếng kêu bị tắc lại và còn những tiếng kêu cứu to. Cánh cửa đã bị khoá, song René, tay vẫn cầm rìu bổ tan nó ra. Đây đúng là phòng của kẻ bị thương hay đúng hơn là kẻ đã chết.
Một tên thủy thủ đang ôm một trong hai cô gái trong tay và muốn cưỡng đoạt. Một cô gái khác đang quỳ bên thi thể người cha, giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa, người vừa biến họ thành trẻ mồ côi, đừng bỏ rơi họ trong cơn nhơ nhuốc sau khi để họ phải chịu bất hạnh.
Tên thủy thủ đã nghe tiếng phá cửa liền quay lại.
- Tên khốn kiếp! - René mắng hắn - Nhân danh chỉ huy, hãy thả ngay cô gái đó ra.
- Thả con này sao? Đây là một phần chiến lợi phẩm, tôi giữ nó lại, nó là của tôi.
René tái người hơn cả người chết nằm trên giường.
- Phụ nữ không thuộc vào chiến lợi phẩm. Đừng ép tôi một lần nữa phải nhắc lại là thả cô ấy ra.
- Yên chí - Tên thủy thủ nghiến răng nói và rút súng ngắn từ thắt lưng ra và bóp cò.
Nhưng cánh tay trái của René đã vung lên nhanh như cắt, người ta thấy lửa toé ra bay lên trời còn tên thủy thủ ngã vật xuống đất chết thẳng cẳng. René vừa phi lưỡi dao anh vẫn đeo bên cổ, cắm giữa tim hắn. Trước khi hai cô gái kịp hoàn hồn, để họ khỏi sợ khi nhìn thấy máu, anh đẩy tên thủy thủ ra ngoài. Sau đó quay lại dịu dàng như một phụ nữ anh nói với họ:
- Các cô yên tâm, không ai vào đây nữa đâu.
Hai cô gái chạy lại ôm chặt lấy nhau. Cô chỉ nói:
- Thưa ông, tiếc là cha tôi không còn để cảm ơn ông!
- Không cần cảm ơn, thưa cô - René đáp - Tôi chỉ làm cái việc vừa là nghĩa vụ vừa theo con tim mách bảo thôi.
- Ông đã tuyên bố là người bảo vệ chúng tôi, tôi mong ông sẽ làm như thế cho đến cùng.
- Than ôi! - Thưa quý cô René đáp - Tôi chỉ là một thủy thủ tầm thường giống như cái kẻ vừa thoá mạ các cô mà thôi, mọi quyền lực cao hơn đều vượt quá giới hạn khả năng của tôi. Tuy nhiên, - René nói thêm và cúi người - nếu các cô muốn được sự che chở của chỉ huy của chúng tôi, tôi hứa sẽ không có gì làm tổn hại đến con người và tài sản của các cô.
- Vậy ông hãy chỉ cho chúng tôi bằng cách nào và bao giờ chúng tôi phải gặp ông ta.
Đúng lúc đó có giọng Surcouf vang lên.
- Ông ta đấy- René nói.
- Các anh khẳng định người này là do René giết chết - Giọng Surcouf vẫn oang oang bên ngoài.
- Đúng thế thưa chỉ huy, là tôi làm - René đẩy cánh cửa vỡ toang đi ra và đáp.
- Hắn đã làm gì để anh phải hành động như thế?
- Hãy nhìn tình cảnh của cô gái kia - René chỉ vào chỗ quần áo rách tả tơi của cô em.
- Ôi thưa ngài - Cô em kêu lên và quỳ xuống chân Surcouf - ông đây đã cứu danh dự cho chúng tôi và còn hơn thế nữa!
Surcouf chìa tay cho René, anh này lùi lại sau một bước.
- Cô là người Pháp à? - Surcouf hỏi.
- Vâng, thưa chỉ huy - Đây là chị tôi… và… - Giọng cô nấc lên - đây là người cha đã mất của chúng tôi.
- Làm sao mà cha cô lại chết? Ông ta đánh lại chúng tôi à?
- Ôi lạy Chúa vĩ đại? Cha tôi sao lại chiến đấu chống lại người Pháp!
- Nhưng sao lại thế, bất hạnh ấy xảy ra thế nào?
- Chúng tôi lên tàu này từ Portsmouth, chúng tôi đến Rangoon ở Ấn Độ. Tại đó chúng tôi có một ngôi nhà. Chỉ huy tàu Standard đã mời chúng tôi lên boong để xem cảnh tàu cướp biển bị ông ta đánh chìm, ông ta bảo thế. Một viên đạn lạc trúng vào cha tôi và khiến ông qua đời dù ông chỉ là khán giả bình thường.
- Xin lỗi cô - Surcouf nói - vì đã hỏi dồn dập như vậy. Không phải vì tôi tò mò mà tôi muốn giúp đỡ cô. Nếu cha cô còn sống chắc tôi cũng không cho phép mình bước vào phòng của cô đâu.
Hai thiếu nữ nhìn nhau, chẳng lẽ đây là những tên hải tặc khốn kiếp mà thuyền trưởng Revigston hứa sẽ treo cổ để cho hành khách giải trí sao. Hai cô gái không hiểu gì cả. Chưa bao giờ họ lại gặp ai hào hiệp hơn hai con người đi cướp này. Surcouf có con mắt quá tinh tường và bộ óc cực kỳ nhạy cảm nên hiểu ngay nguyên do vì sao hai chị em đồng bào của ông lại ngạc nhiên đến thế.
- Thưa các cô ông nói - Lúc này không phải lúc để đặt ra các câu hỏi cho các cô, nhưng tôi hứa sẽ nhanh chóng đảm bảo an toàn cho các cô với tư cách là người chiến thắng buộc các vị chấp nhận sự bảo vệ này.
- Thưa ngài - Cô chị nói - chính chúng tôi đã mắc sai lầm khi không trả lời các ông ngay. Bây giờ, chúng tôi tha thiết mong được hỏi chừng nào các ông thấy đủ.
- Thưa tiểu thư một lời của các cô đã khiến chúng tôi thấy xa lạ, nhưng một lời vừa rồi sẽ kéo chúng tôi xích lại gần. Các cô nói mình đi đến Rangoon, tôi không thể đưa các cô đến đó, nhưng tôi đảm bảo sẽ đưa hai chị em cô lên đảo Pháp nơi đó, các cô có nhiều cơ hội đến vương quốc Miến Điện. Nếu các cô gặp khó khăn về tiền bạc, tôi hy vọng các cô cho tôi vinh dự được các cô nhờ đến.
- Cảm ơn ông, nhưng cha tôi đã chuẩn bị một khoản khá chu đáo rồi.
- Liệu các cô có thể cho chúng tôi biết tên của ông ấy không, nếu như đó không phải là bí mật?
- Tử tước Sainte-Hermine.
- Có phải đó là người đã phục vụ cho triều đình Pháp đến năm 1792 rồi xin từ chức không?
- Đúng vậy, thưa ngài. Ông không muốn phục vụ tiếp cho chính phủ cộng hoà.
- Ông ấy còn một người anh là bá tước Sainte-Hermine, ông này là chủ một gia đình nhưng đã bị xử trảm năm 1793 và hai người con trai cùng chết vì lý tưởng quân chủ, đúng không.
- Ngài biết chuyện nhà tôi rõ như chúng tôi, vậy ngài có thể cho tôi biết người con trai thứ ba của bác ấy ra sao hay không?
- Ông ấy còn con thứ ba sao? - Surcouf hỏi.
- Vâng, nhưng anh ấy đã biến mất một cách kỳ lạ. Ngay tối hôm ký giấy hôn thú của anh ấy với tiểu thư Claire de Sourdis, đúng lúc vào ký thì không tìm thấy anh ấy đâu. Từ đó, không ai gặp hay nghe nói đến anh ấy nữa.
- Quả là tôi hoàn toàn không biết người này.
- Chúng tôi được nuôi lớn bên nhau đến tám tuổi. Đúng tám tuổi anh ấy lên tàu cùng cha tôi đến năm 1792. Sau đó gia đình anh ấy gọi về và anh ấy chia tay chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ gặp lại nhau. Nếu không có cuộc cách mạng chắc anh ấy đã thành thủy thủ như cha chúng tôi.
Cô gái trẻ cố gắng dằn cơn nấc nghẹn ngào tràn đến.
- Hãy cứ khóc cho thoả đi, thưa cô - Thuyền trưởng Surcouf nói - tôi lấy làm tiếc khi xen vào giữa các cô với nỗi đau của mình. Tôi lái Standard hay đúng ra sẽ cử một thuyền trưởng đưa tàu Standard đến đảo Pháp. Đến đó, nó sẽ bị bán nhưng từ đảo Pháp đến Rangoon, các cô sẽ có nghìn cơ hội thực hiện nết chuyến đi.
Surcouf cúi chào với tất cả lòng tôn trọng sâu sắc rồi đi ra.
René cũng đi theo nhưng lúc đi qua cửa hình như cô em gái nhìn anh như thể muốn nói với anh điều gì đó. René dừng lại chìa tay về phía cô bằng một cử chỉ không suy nghĩ, cô gái trẻ cầm lấy bàn tay ấy đưa lên môi rồi nói:
- Ôi thưa ngài, vì Chúa, hãy hỏi ông chỉ huy và xin ông ấy đừng ném thi thể của cha chúng tôi xuống biển được không.
- Tôi sẽ hỏi, thưa cô - René đáp - Nhưng xin hãy cho tôi một ân huệ.
- Ân huệ gì, ngài hãy nói đi, nói đi. - Cả hai cùng thốt lên.
- Cha của các cô giống như một trong số người thân của tôi mà tôi vô cùng yêu mến nhưng không bao giờ gặp lại nữa. Hãy cho phép tôi được hôn ông ấy.
- Ôi từ tận đáy lòng, chúng tôi cho phép anh. - Hai cô gái nói.
René lại gần cái xác, quỳ một chân xuống đất, cúi đầu xuống trang trọng hôn lên trán rồi vội ra đi cố nén tiếng nấc. Hai cô gái ngạc nhiên nhìn theo anh. Lời từ biệt của con trai với cha mình cũng không tha thiết và tôn kính như lời từ biệt của René đối với tử tước Sainte-Hermine.
Chương 57: Tàu buôn nô lệ da đen
Dù Surcouf và René lên boong, dấu vết của trận chiến hầu như đã được xoá sạch. Những thương binh được đưa xuống phòng cấp cứu, các xác chết đã bị ném xuống biển, vết máu cũng được lau sạch.
René truyền đạt lại sự mong muốn của hai cô gái muốn thi thể cha mình không bị ném xuống biển mà được chôn cất ngay bên mảnh đất đầu tiên họ gặp. Điều này trái với mọi quy định hàng hải, tuy nhiên trong một số trường hợp, ưu tiên như vậy vẫn được áp dụng, chẳng hạn như trường hợp của phu nhân Leclerc tức Pauline Bonaparte đã mang thi thể chồng mình từ đảo Saint-Domingue trở về.
- Được rồi, Surcouf đáp - vì thuyền trưởng tàu Standard đã chết, Bléas sẽ chỉ huy nó và ở phòng của ông ta. Nếu còn một phòng sĩ quan nào trống thì cho hai chị em tiểu thư Sainte-Hermine ở đó cùng thi thể của cha mình nhưng phải để thi thể ấy kín trong quan tài bằng gỗ sồi.
René báo lại quyết định ấy cho hai cô gái trẻ, lập tức hai chị em muốn đến cảm ơn thuyền trưởng Surcouf. Họ xưng tên, cô chị là Hélène và cô út là Jane. Hélène hai mươi tuổi còn Jane mười bảy tuổi. Cả hai cùng đẹp nhưng mỗi người một vẻ.
Hélène là một cô gái trẻ có làn da trắng chỉ có thể so sánh với màu trắng của một loại hoa được Camelli mang về từ Nhật Bản từ ba năm nay và đang phát triển mạnh trong những nhà kính dưới cái tên hoa trà mi. Nàng có mái tóc vàng óng ả, mỗi khi mặt trời định khiến nó nhạt đi thì nó lại rực rỡ tạo thành một vành hào quang ôm lấy trán như thể mùi hương bao lấy bông hoa vậy. Đôi bàn tay nàng trắng trẻo, mũm mữn, các móng tay hồng tươi, dáng nàng như một nữ thần còn đôi chân nàng thì như chân trẻ em.
Có thể Jane không quốc sắc thiên hương như chị mình song lại có nét quyết rũ hơn: miệng nàng chúm chím tươi như một bông hồng mới hé, chiếc mũi với hai cánh phập phồng không Hy Lạp cũng chẳng La Mã mà đặc người Pháp; đôi mắt sáng như những vì sao màu ngọc saphie, làn da không nâu mà giống như đá cẩm thạch phơi lâu dưới nắng mặt trời Ten.
Hai chị em đều nhận ra mối quan tâm đặc biệt mà thuyền trưởng Surcouf dành cho họ và đặc biệt là cảm xúc của René khi thấy thi thể cha họ, cả những giọt nước mắt của chàng thanh niên khi anh hôn lên trán cái xác cũng không qua được mắt họ. Hai cô nói với thuyền trưởng Surcouf rằng trong hoàn cảnh của mình, các cô không có quyền đưa ra ý muốn mà tuỳ ông làm điều mà ông cho là tốt nhất.
Thuyền trưởng Surcouf đã cho lau dọn phòng của thuyền phó tàu Standard, mời hai cô gái vào vĩnh biệt cha. Dưới thời tiết ấy việc đưa thi thể vào quan tài vĩnh viễn là điều rất cần thiết.
Quan tài sẽ đặt trong phòng nơi có cái xác còn hai cô sẽ sang ở trong phòng thuyền phó. René được Surcouf giao việc đưa hai chị em và phục vụ bất cứ những gì trong quyền hạn của anh.
Hélènevà Jane đi vào phòng nơi cha họ nằm, René đứng ngoài, anh không muốn quấy rầy họ trong giờ phút đau đớn ấy.
Một tiếng sau, hai cô gái đi ra, ngực cuộn lên các cơn nấc nức nở, nước mắt đầm đìa. Jane không thể bước tiếp được, cô phải vịn vào tay René, chị của cô bé mạnh mẽ hơn, tay cầm hộp nữ trang và chiếc ví của cha. Cả hai đều hiểu sự tế nhị của René khi anh để hai cô một mình không quấy rầy họ trong cơn đau dâng trào ấy. Nhưng chỉ mình Hélène còn có thể nói lời biết ơn anh, những cơn thổn thức không để Jane thốt được lời nào.
René đưa hai chị em vào phòng dành cho họ rồi để họ một mình, anh muốn tự tay chăm sóc những phần việc cuối cho cha họ. Hai tiếng sau, người thợ mộc đã đóng xong cỗ quan tài bằng gỗ sồi, họ cho thi thể tử tước Sainte-Hermine vào trong.
Khi nghe những tiếng búa đầu tiên vang lên các cô gái muốn chạy sang phòng cũ để nhìn mặt cha lần cuối nhưng René đã ở ngưỡng cửa ngăn họ lại, anh đã lường trước nỗi đau thương ấy và muốn tránh cho họ cảm xúc đó. Họ ôm lấy nhau khóc nức nở trên thảm. René cầm lấy tay Jane và Hélène trân trọng đưa lên môi rồi đi ra.
Trong mọi cử chỉ của hai cô gái đều toát lên vẻ trong sáng và lòng biết ơn. Hoàn cảnh khủng khiếp ấy khiến Hélène, Jane và René đều không nhận ra giữa họ đã nhanh chóng nảy sinh tình cảm thân thiết gắn bó như anh em.
Ngày hôm sau, hai con tàu lại cưỡi sóng tiến về đảo Pháp. Bốn mươi thủy thủ tàu Revenant đã sang tàu Standard. Bléas nhận lệnh của thuyền trưởng Surcouf chỉ huy con tàu vừa chiếm được ông cho rằng sự hiện diện của một người bạn hay ít ra là một người có trái tim nhân hậu rất cần thiết cho hai thiếu nữ nên ông ra lệnh René được phép theo Bléas.
Ngày hôm sau nữa, tàu Revenant phát hiện một tàu Slúp một cột buồm và lập tức họ đuổi theo. Ban đầu, chiếc tàu đó định chạy trốn nhưng khi có tiếng hét "Hãy đầu hàng tàu Revenant" kèm theo một phát đại bác thì tàu Slúp dừng lại.
Vừa áp tàu đó vào mạn trái, René đứng cùng hai chị em trên khoang thượng đã chứng kiến vào một cảnh hãi hùng: Hai kẻ xấu số đang mê man gần như sắp chết mặc dù có một anh chàng da đen đang cho họ uống một thứ thuốc do mấy phù thủy da đen làm ra. Cách đó một chút là năm phụ nữ da đen gần như mình trần đang phơi dưới cái nắng như thêu như đốt có thể giết chết người phụ nữ châu Âu còn họ lại rất khoan khoái đón nhận. Một trong số họ gắng sức chìa bầu vú cạn sữa cho đứa con trên tay và đứa bé ra sức mút vô ích vào chiếc vú quắt queo ấy.
Vừa nhìn thấy các thủy thủ tàu Revenant nhảy lên, bốn trong số năm phụ nữ vội đứng dậy chạy trốn, người thứ năm cũng muốn làm như vậy nhưng không đủ sức nằm vật xuống ngất xỉu trên boong, hai tay rời đứa bé ra. Một sĩ quan bế nó đưa lại gần mẹ. Anh ta đi tìm thuyền trưởng của con tàu này. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhất là qua cột buồm của nó, anh ta đoán ngay đây là tàu buôn nô lệ da đen.
Quả nhiên, dưới khoang, người ta phát hiện ra hai mươi tư kẻ bất hạnh da đen bị xích lại với nhau nằm trong một tư thế hầu như không thể. Qua tấm nắp đậy, từ dưới xộc lên một mùi khó chịu muốn ói, khi chiếc ca nô rời con tàu có lá cờ chứng tỏ nó là tàu Mỹ, Surcouf từ trên boong tàu Revenant ra hiệu cho Bléas và René lên đó. Hai cô gái lo lắng hỏi dấu hiệu đó là gì và tại sao phải gọi như thế, René giải thích thuyền trưởng Surcouf muốn xử lý kẻ buôn người da đen ông không muốn có quyết định riêng nên sẽ mở một hội đồng xét xử trên tàu Revenant.
- Thế nếu bắt được thủ phạm - Jane run run hỏi - anh ta sẽ chịu hình phạt gì?
- Hắn sẽ có nguy cơ bị treo cổ.
Jane kêu lên kinh hãi nhưng vì chiếc ca nô chờ Bléas và René đã ở dưới và Bléas đã leo xuống nên René cũng chỉ kịp vịn vào lan can đi theo các sĩ quan đã tụ tập đủ trong phòng vuông khi Bléas và René bước vào. Họ dẫn tên thuyền trưởng Mỹ vào phòng: đó là một người đàn ông cao lớn, có sức khoẻ vô địch và chỉ nói được tiếng Anh. Có lẽ vì lý do này mà Surcouf cho gọi René vào làm phiên dịch. Với câu nói "Thuyền trưởng đã chết, hãy hạ cờ xuống bằng tiếng Anh" thì ông ta đã biết René có thể nói tiếng Anh thành thạo như tiếng mẹ đẻ.
Việc thuyền trưởng người Mỹ mang theo giấy tờ chứng nhận ông ta là người Mỹ và là thương nhân, nhưng khi hỏi giấy cho phép hành nghề đưa người vượt biển sang châu Âu, một trong tám con tàu nước Mỹ được châu Âu cho phép, thì ông ta lại không có. Mãi sau ông ta mới thừa nhận mình không được cấp loại giấy đó. Thế là họ buộc ông ta nhận tội. Khi nhận tội xong, ông ta bị kết án tử hình.
Cái chết dành cho kẻ buôn nô lệ da đen vừa tàn bạo vừa ô nhục. Họ bị treo lên lên xà buồm trên tàu của mình hoặc tàu chiếm. Bản án đã tuyên. Họ dành cho thuyền trưởng Mỹ một tiếng để chuẩn bị cho cái chết. Ông ta nghe hình phạt mà không mảy may xúc động. Người ta cho ông ở phòng bốn cửa, mỗi cửa đều chẹn chặt vì sợ phải chịu hành phạt ô danh ông ta sẽ lao xuống biển.
Ông ta xin giấy, bút lông ngỗng và mực để viết thư cho vợ con Trong mười dòng đầu tiên, khuôn mặt ông ta vẫn bình thản nhưng dần dần vẻ bối rối hiện lên, nó như một đám mây mù cho đi các đường nét rồi ông ta cắm cúi viết, vài giọt nước mắt nhỏ lã chã xuống lá thư vĩnh biệt. Sau đó, ông ta xin được gặp thuyền trưởng Surcouf.
Thuyền trưởng Surcouf vội vã đến cùng René, người làm nhiệm vụ thông ngôn cho ông.
- Thưa ngài, tôi vừa định viết thư cho vợ và con tôi để nói lời từ biệt nhưng vì họ không biết công việc xấu hổ tôi đang làm vì tình yêu với họ nên tôi đã viết lá thư khác kể về cái chết của tôi và nhất là nguyên nhân dẫn đến cái chết ấy, giúp họ đỡ đau buồn.
- Tôi cầu xin ngài một điều. Ngài sẽ thấy trong phòng tôi một khoản năm nghìn phăng bằng vàng. Tôi hy vọng bán được những nô lệ kia với giá năm mươi nghìn nữa. Đó là một khoản đủ để bắt đầu ở đó một cơ nghiệp cho một người lương thiện giúp tôi quên đi vết nhơ do chính bản thân vấy lên cuộc đời mình. Chúa đã không muốn điều ấy trở thành sự thật. Giờ đây cả con tàu và nô lệ của tôi thuộc về ngài nhưng năm nghìn kia là của tôi. Tôi van xin ngài hãy chuyển số tiền ấy cho vợ và con tôi theo địa chỉ ghi trên thư này với vài chữ "Gửi từ thuyền trưởng Harding, chết vì tai nạn trên biển". Hy vọng cách ứng xử này của tôi sẽ là lời xin tha thứ đến những con tim đồng cảm vì hành động đó chỉ xuất phát từ ý muốn cứu một gia đình đông con rất đáng yêu. Ít ra từ nay tôi sẽ không thấy nó phải chịu đựng nữa. Chưa bao giờ tôi có ý định nộp mình cho cái chết nhưng vì người ta ban cái chết cho tôi tôi sẽ chấp nhận nó không phải như một hình phạt mà như một ân huệ.
- Ông sẵn sàng chưa?
- Tôi sẵn sàng rồi.
- Ông ta đứng dậy lắc lắc đầu cho những giọt nước mắt cuối cùng rứt khỏi mi và ghi địa chỉ của vợ: "Bà Harding ở Charlestoron" rồi trao lại lá thư đó cho thuyền trưởng Surcouf.
- Tôi muốn được nghe lời hứa của ngài, liệu ngài có thể hứa với tôi không.
- Tôi xin hứa trước danh dự của một thủy thủ - Surcouf đáp - điều ông muốn sẽ được thực hiện.
Surcouf vẫy tay ra hiệu: một hồi trống vang lên, giờ hành quyết đã điểm, đối diện với cái chết, viên thuyền trưởng Mỹ lại lấy lại vẻ bình tĩnh. Không để lộ cảm xúc nào, ông ta cởi cà vạt, thả ống tay áo xuống rồi vững vàng bước ra hành quyết.
Một sự im lặng chế ngự khắp boong tàu, không khí chuẩn bị cho cái chết đè nặng lên khắp các thủy thủ ngay cả với các thủy thủ tàu cướp biển: Một sợi dây thắt thòng lọng lủng lẳng, đầu lúa có bốn người nắm giữ, đang chờ ở xà buồm và không chỉ tất cả thủy thủ đoàn của tàn Revenant đã lên boong mà cả hai con tàu khác cũng neo lại, trên boong, khoang thượng hay các xà buồm đều đầy người.
Viên thuyền trưởng Mỹ tự chui đầu qua nút thòng lọng rồi quay sang phía Surcouf nói:
- Đừng bắt tôi phải chờ thưa ngài, với tôi chờ đợi là sự tra tấn.
Surcouf đi lại phía ông ta, tháo đầu dây thòng lọng ra khỏi đầu:
- Ông đã thật sự ăn năn. - Surcouf nói - Đó là điều tôi muốn, hãy bình tĩnh lại đi, ông đã chịu đủ hình phạt rồi.
Viên thuyền trưởng Mỹ đặt bàn tay run rẩy lên vai Surcouf, ngước cặp mắt dại đi nhìn ông rồi gần như ngất xỉu. Cái điều đôi khi xảy ra với những con người kiên cường đã xảy ra với ông ta: mạnh mẽ trước nỗi buồn ông lại trở nên yếu đuối trước mềm vùi.
Nguồn: http://vnthuquan.org/