4/4/13

Hiệp sĩ Sainte Hermine (C94-96)

Chương 94: Cơn bão

Lẽ ra trận thủy chiến Trafalgar cũng chấm dứt cùng cái chết của Nelson, nhưng chúng ta có thể sẽ trở nên quá bất công khi cho bao nhiêu tên tuổi của những người kiên cường, cũng hy sinh như ông ta, cũng làm tất cả vì tổ quốc của mình, vào bóng tối.
Chúng ta đã để đô đốc Villeneuve tuyệt vọng trên boong tàu Bucenlaure nham nhở đổ nát, không có chiếc ca nô nào còn nguyên vẹn để đưa ông ta sang những tàu chiến còn nguyên vẹn vì nằm xa vùng lửa. Tất nhiên, nếu ông ta có thể bắt kịp một trong mười tàu chiến trong tốp đầu không đụng phải quân địch và nếu ông có thể phối hợp với lực lượng mạnh ấy thì có lẽ đã không để thua một trận thảm bại như vậy.
Thế nhưng ở trên tàu Bucenlaure như một người sống trên một cái thây bất động, phơi mình ra trước đạn pháo mà không thể đáp trả thì ông ta không còn cách nào khác là buộc phải hạ cờ đầu hàng.
Thế là một chiếc xà lan của Anh tách khỏi tàu đến tìm và dẫn ông ta lên tàu Mars.
Chuẩn đô đốc Dumanoir đã lặp đi lặp lại các tín hiệu của đô đốc Villeneuve. Mười tàu được gọi là Héros, có thuyền trưởng Poulain hy sinh ngay khi cuộc chiến vừa bắt đầu, tàu San Agostino, San Francesu Mont-Blanc, Duguay-Trouin, Formidable, Ray, Intrépide, Scipion, và Neptune.
Tuy nhiên, chỉ có bốn tàu tuân theo hiệu của chỉ huy đổi hướng đi. Đó là tàu Mont-Blanc, Duguay-Trouin, Formidable và Scipion. Chỉ có điều viên chuẩn đô đốc ra hiệu đổi hướng theo "gió trước", tức là để tiến vào chỗ khói lửa hỗn độn thì họ lại cho nơi đó là không cần thiết quay vào.
Chuẩn đô đốc Dumanoir lên tàu Formidable và trở xuống cùng Scipion, Duguay-Trouin, Mont-Blanc từ bắc xuống nam dọc theo chiến tuyến. Ông ta có thể đặt quân Anh vào giữa hai làn đạn nhưng đã quá muộn, khắp nơi đâu đâu cũng là thảm hoạ. Tàu Bucenlaure bị kẹt, Santissima Trinidad bị địch chiếm, Redoutable bị phá hỏng. Từ tứ phía, quân Anh xông vào những tàu thuộc tầm gió của mình. Vì vậy, trên quãng đường ấy, bốn tàu nói trên cảm thấy hoả lực địch quá mạnh sẽ gây ra tổn thất và giảm khả năng tấn công. Nản lòng vì hoả lực ấy, họ chẳng làm gì nữa lẳng lặng rời xa bãi chiến trường.
Về đầu kia chiến tuyến quân Pháp, các chiến hạm chiến đấu vô cùng quả cảm với quân của Collingwood.
Hai tàu Santa Anna và Prince des Asturies đáng được lưu danh sử sách. Sau hai giờ chiến đấu, tàu Santa Anna đã mất ba cột buồm những nó cũng khiến tàu Royal Sounerain trả giá tương tự. Nó cũng mới hạ cờ song chỉ khi phó đô đốc Alava bị thương trầm trọng mà thôi.
Tàu Fougeux, gần Santa Anna nhất, sau khi nỗ lực không mệt mỏi để trợ cứu người bạn hàng xóm bằng cách cản bước Royal Souverain không cho nó chọc thủng thêm chiến tuyến, đã bị tàu Monarque ở sau nó bỏ rơi. Bị hai tàu địch quay quanh tấn công, tàu Fougueux vẫn khiến cả hai bị hỏng nặng. Tiếp đó, sáp mạn với tàu Téméraire ban đầu nó đã đẩy lùi ba đợt đổ quân sang. Trong đó 700 người trên tàu, đã có bốn trăm người hy sinh.
Thuyền trưởng Beaudoin chỉ huy tàu Fougueux đã hy sinh, đại uý Bazin lên thay ông nhưng quân Anh lại tràn sang lần thứ tư chiếm mất khoang mũi. Bazin bị thương, người đầy máu và chỉ còn vài người quanh mình rút về khoang sau và cuối cùng buộc phải hạ cờ.
Ở chỗ lẽ ra tàu Monarque chiến đấu nhưng đã bỏ vị trí, tàu Pluton do thuyền trưởng Cosmao chỉ huy đã lướt nhanh và đột ngột dừng lại trước tàu Mars của địch đang tìm cách vượt lên, nã đạn vào nó và suýt lao lên tấn công áp mạn thì một tàu địch ba boong khác xông tới trợ cứu bằng cách bắn phần đuôi tàu Pluton.
Tàu Pluton khéo léo xoay tàu không những tránh được đạn pháo của địch mà còn giáng trả nhiều loạt đạn chí mạng.
Trở lại kẻ thù lúc đầu đang đợi gió lao đi, Pluton đã hạ hai cột buồm của nó và loại nó khỏi vòng chiến đấu. Tiếp đến, Pluton lại đi cứu quân Pháp.
Phía sau tàu Pluton, tàu Algésirias cũng lập chiến công oanh liệt. Do chuẩn đô đốc Magon chỉ huy, nó lao vào cuộc chiến sánh ngang với những gì tàu Redoutable vừa làm.
Chuẩn đô đốc Magon sinh ra ở đảo Pháp, xuất thân trong một gia đình ở Saint-Malo. Đó là một người còn trẻ đẹp trai và anh dũng. Lúc giương cờ lên ông ta đã tập hợp mọi người và hứa sẽ tặng cho ai lao sang tàu địch đầu tiên một sợi dây gươm do liên hiệp Philippies trao tặng cho mình.
Ai cũng muốn nhận phần thưởng danh giá ấy.
Sánh cùng các chi huy tàu Redoutable, Fougueux và Pluton, chuẩn đô đốc Magon cũng đẩy tàu Algésiras của mình lên trước nhằm lấp chỗ, phòng tuyến bị quân Anh chọc thủng. Trong động thái ấy ông vướng phải tàu Tonnant, con tàu trước kia là tàu Pháp nhưng đã thuộc về Anh sau trận Aboukir, do một sĩ quan gan dạ chỉ huy tên là Tiller Magon cho áp sát chỉ cách một tầm đạn súng ngắn, nhả đạn vào nó sau đó đâm xà buồm mũi vào dây néo của tàu địch. Níu tàu Tonnant như vậy xong, ông gọi tên các thủy thủ can đảm nhất để dẫn họ nhào sang tấn công. Nhưng vừa tập trung trên boong và xà buồm mũi, họ đã bị một quả đạn bắn chúng, riêng Magon bị thương vào cánh tay và đùi. Ông không chịu rời boong. Nhưng các sĩ quan mời ông đi băng bó rồi mới có thể trở lại chiến đấu cùng họ. Hai thủy thủ dìu ông đi. Nhưng vừa nhận ra thuyền trưởng Tiller dẫn một toàn quân tràn sang boong tàu Algésiras của mình, ông chạy khỏi tay các thủy thủ, vớ lấy một cái rìu tấn công quân Anh, ba lần chúng tràn sang đều là ba lần chúng bị đẩy lùi. Thuyền trưởng cờ hiệu Leboumeus bị hy sinh bên cạnh ông. Đại uý Plassant lên thay cũng lập tức bị thương.
Magon nhận thêm một vết thương mới. Thấy sắp kiệt sức, ông lập tức trao lại quyền chỉ huy cho ông La Bretonnière rồi bấy giờ mới chịu vịn vào hai thủy thủ xuống khoang boong.
Nhưng vì sườn tàu bị hở, ông bị thêm một viên đạn từ súng nòng to nhằm vào giữa ngực. Ông đổ vật xuống cùng cột buồm mũi vừa trúng một phát đại bác.
Boong tàu Algésiras bị quân Anh chiếm hoàn toàn.
Bên cạnh Algésiras, bốn tàu chiến hạng nặng khác là Aigle, Swiftsure, Berwick và Achille cũng tham gia trận đánh khốc liệt với tinh thần dũng cảm vô cùng.
Sau khi lao vào tàu Bellérophon sát sạt, tàu Aigle lại tiếp tục giáp mặt với Belle-Isle sau khi bất đắc dĩ phải dứt khỏi địch thủ sắp bị mình hạ gọn. Thuyền trưởng tàu Aigle, chỉ huy Courège anh dũng, đã hy sinh lúc ba giờ nhưng không vì thế mà tàu giảm sức chiến đấu. Nó chỉ hạ cờ lúc ba rưỡi sau những loạt đạn đồng thời của cả tàu Revenge và Defence.
Tàu Swiftsure đã mất 250 thủy thủ. Chỉ huy và thuyền trưởng của nó bị hy sinh ngay trên bàn điều khiển. Đại uý Lune thế chỗ họ và cũng hy sinh như họ ở tư thế danh dự. Cuối cùng tàu Swiftsure cũng về tay hai tàu Bellérophon và Colossus.
Tàu Berwick do thuyền trưởng Camas chỉ huy, người mà James trong tác phẩm lịch sử hải quân đã gọi là thuyền trưởng Camas anh dũng. Ba cột buồm của tàu bị hạ nhưng không ngăn ông điều khiển hai giàn súng, ngổn ngang 51 xác chết, trong khi 200 người khác bị thương được đưa vào khoang boong.
Thuyền trưởng Camas hy sinh, đại uý Guichard theo gương ông được vài phút. Tàu Berwich cũng trở thành mồi của quân Anh.
Tàu Achille tấn công Belle-Isle trước nhưng nhanh chóng đến lượt mình bị bao vây: tàu Polypéme thoát khỏi Neptune và tàu Prince trùm lửa lên nó bằng 96 khẩu đại bác của chúng. Chỉ huy Demé-Port, ban đầu bị thương ở đùi nhưng vẫn hiên ngang đứng trước bàn điều khiển và đã anh dũng hy sinh ở vị trí của mình. Cột buồm mũi cháy rực đổ xuống do hoả tiễn địch, các thủy thủ dây rợ vẫn vãi đạn lên boong kẻ thù mặc cho lửa cháy.
Tàu Achille bị ngọn lửa trùm lên, không thấy bóng dáng tàu nào quanh mình. Tất cả các sĩ quan trên tàu đều bị hy sinh hoặc bị thương Người chỉ huy tàu này là trung uý tên là Cochard, đó là người sót lại duy nhất của một ban tham mưu anh hùng.
Anh ta chiến đấu trong vô vọng nhưng vẫn chiến đấu không ngơi nghỉ. Sợ tàu này bị nổ tung, các tàu chiến hạng nặng của Anh đã lùi ra xa. Hành động cuối cùng của người sĩ quan trẻ là cho cắm cờ vào góc tàu và Achille nổ tung cùng với một phần thủy thủ đoàn của nó.
Chắc chắn đây là cái chết của viên sĩ quan trẻ có thể xứng với cái chết của Nelson.
Trong khi đô đốc Dumanoir và bốn tàu chiến của mình chạy ra ngoài vòng đấu thì một tàu khác, tàu Intrépide, và thuyền trưởng Internet lại hăng hái xông vào chốn dầu sôi lửa bỏng. Đó là chiếc tàu cuối cùng còn có cờ ba màu phấp phới trong gió. Nó đẩy lùi tàu Léviathan và Africa, nhận hoả tiễn của Agamemnon và Ajax, chiến đấu giáp lá cà với Orion và hai tàu nữa trong đó đẩy lui một và chỉ thua cuộc trước tàu thứ sáu của địch là tàu Conquérant. Conquérant hạ cột buồm cuối cùng của nó và trong số 555 thủy thủ đoàn, 306 người đã không còn khả năng tham chiến.
Lá cờ trên tàu Intrépide hạ xuống là hơi thở cuối cùng trút ra từ cuộc đại chiến.
Một ngày kết thúc, phe Pháp hoàn toàn thất thủ. Một vài cái tên phát ra tiếng vang mới và sau cuối có thể lấy lại chút danh dự chiến thắng cá nhân giữa một thất bại toàn cục. Cho đến lúc cuối cùng, đô đốc Villeneuve đã làm tất cả những gì có thể để cho mình được chết. Chuẩn đô đốc Magon sẵn sàng hy sinh. Thuyền trưởng Lucas dẫn đầu đội quân của mình, dù chỉ còn 136 người, chiến đấu như một con mãnh hổ và từ trên buồm của ông, một bàn tay lạ đã nhả đạn giết chết Nelson. Tàu Achille được coi như tàu Vengeur(1) Infernet và Cosmao là những tấm gương quả cảm tuyệt vời Liên quân Pháp-Tây Ban Nha đã để 17 tàu chiến rơi vào tay quân Anh, một chiếc nổ tung. Ngoài ra còn sáu, bảy nghìn quân bị chết hoặc bị thương.
Quân Anh đại thắng song đó là một chiến thắng đẫm máu, tàn khốc và đắt giá. Nelson chết, hải quân Anh như rắn mất đầu.
Với họ, Nelson còn đáng tiếc hơn cả một đạo quân.
Họ dùng móc kéo 17 tàu chiến hầu như đều gãy cột buồm hay chìm nghỉm và bắt một đô đốc làm tù binh.
Chúng ta đã có một trong những trận bại trong tư thế ngẩng cao đầu vô song trong lịch sử bởi lòng can đảm và tận tụy của kẻ thua.
Đêm tối và cơn bão sẽ làm nốt phần việc kết thúc chiến thắng cho người Anh. Sáu tàu chiến què cụt mang trên dẻ sườn của chúng lời ăn năn cho sự anh dũng của chúng. Chúng chỉ chập choạng trên lớp sóng đang cuộn dâng cao với gió trong buổi hoàng hôn.
Đô đốc Collingwood chịu trách nhiệm chỉ huy đống đổ nát ấy thay vì nhấn chìm như Nelson đã ra khẩn khoản yêu cầu, lại dùng phần ngày còn lại để mang theo 17 tàu thu được trong trận chiến, và thế là bão tố cùng bóng đêm tập kích ông ta bằng cách nhặt nhanh nốt những mảnh còn lại.
Biển, gió, sấm chớp, bãi đá ngầm, tất cả thảm hoạ của trời và biển là những gì rình rập trong hai ngày sau cuộc chiến, hai ngày kinh khủng hơn cả ngày diễn ra chiến sự. Biển gầm gào nô giỡn suốt sáu mươi tiếng với ba chiến hạm ấy và hầu như không có sự ân sủng nào cho cả kẻ thắng lẫn người thua.
Một phần tàu do Nelson chiếm được đã bị bật tung, bị sóng đánh hay đưa vào bãi đá ngầm của mũi Trafalgar.
Tàu Bucenlaure nát vụn trên đá ven bờ. Tàu Indomptable cũng tự bật đèn trên boong để lao vào bờ. Nó tắt ngấm cùng toàn bộ thủy thủ đoàn trên mũi Diamant. Người ta chỉ nghe được một tiếng kêu: đó là tiếng kêu của thủy thủ đoàn bị nuốt chửng.
Collingwood nhận thấy gió từng chặp muốn giằng các chiến lợi phẩm khỏi tay mình nên cho đốt tàu Santissima Trinidad rồi ném vào lửa ba tàu ba boong Tây Ban Nha là Saint Augustin Argonaute và Santa Anna.
Biển như dịu lại một lúc, gió cũng đứng lại để xem bốc cháy cái khúc củi lớn nhất thứ không bao giờ còn lênh đênh trên biển được nữa.
Khi ấy, lúc cuộc chiến đã kết thúc, kẻ thua còn có vị trí tốt hơn người thắng. Đô đốc Gravina và 11 tàu chiến của mình đã tìm được trong cảng Cadix chỗ nghỉ ngơi an toàn. Còn cách quá xa Cadix, người Anh lại chỉ nghe tiếng sóng gầm để hồi sức sau cơn chiến thắng mệt nhọc.
Buộc phải chống lại cơn bão vì chính sự tồn tại của mình, tàu của quân Anh cũng thấy họ bị vây hãm, gãy cột buồm và hư hỏng khi mải kéo theo những chiến lợi phẩm còn tan tành hơn cả của họ. Thế là họ bỏ rơi luôn vài tàu chiến rách nát mà họ thu được.
Cuộc chiến với biển ấy chống lại kẻ thắng trận và điều này khiến kẻ bại trận hoan hỉ và reo lên sung sướng.
Người Anh giữ lại tàu Bucenlaure, nhưng nhận thấy đô đốc Collingwood chẳng mặn mà với đám tù binh, nên họ thả luôn cả tàu cùng thủy thủ đoàn. Người Pháp thầm cảm ơn bão tố, dựng vài cây cột hú hoạ trên tàu nhẵn lỳ, buộc vài mảnh buồm và hướng về Cadix theo sức đẩy của cơn bão.
Tàu Algésiras, giống như tàu Victory mang thi hài của Nelson, cũng mang phần thi thể của vị chuẩn đô đốc dũng cảm Magon, cũng muốn được thả ra trong cơn bão. Dù bị hư hỏng nặng trong trận chiến mà nó dành những hiển hách vinh quang, nó còn chịu đựng tốt hơn những tàu khác vì mới được đóng. Dẫu sao ba cột buồm đã gẫy cột buồm lớn cách boong 15 bộ, cột buồm mũi 9 bộ, cột buồm điều chỉnh 5 bộ. Tàu kéo nó phải khó khăn lắm mới giữ thăng bằng cho nó nên cuối cùng cũng tháo dây cáp thả nốt tàu tù binh. Người Anh bắn đại bác cầu tiếp viện nhưng chiến hạm của họ còn quá nhiều việc phải làm nên không đáp lại. Vậy là họ thoả thuận với một sĩ quan Pháp chỉ huy tàu này.
Người sĩ quan ấy là ngài La Bretonnière. Họ cầu xin ông dùng người trong thủy thủ đoàn của mình cứu lấy con tàu và giúp họ cứu mọi người cả người Anh lẫn người Pháp.
Ngay khi nghe xong, ông La Bretonnière đã biết mình phải làm gì. Ông yêu cầu bàn với những người đồng hương của mình dưới đáy khoang. Yêu cầu ấy được chấp nhận.
Ông đi tìm các sĩ quan và bàn riêng với họ, kể cho họ biết chuyện gì đang xảy ra. Thoạt nghe tất cả mọi người hiểu ngay vấn đề nhờ trí tuệ thông minh rất xứng đáng với người Pháp.
Tàu Algésiras chở 30 đến 40 quân Anh có vũ khí cùng 270 người Pháp bị tước vũ khí nhưng đều đang sẵn sàng để giải cứu tàu của họ. Các sĩ quan vào khoang thông báo kế hoạch cho các tù binh, họ hưởng ứng nhiệt liệt. Ông La Bretonnière ban đầu sẽ đi đòi quân Anh thả họ. Nếu bị từ chối, chỉ cần ra hiệu, quân Pháp sẽ xông ào và nếu đánh nhau, quân Anh chắc có gây thiệt hại cho quân Pháp về người nhưng số đông quân Pháp sẽ áp đảo thế trận.
Dự tính kế hoạch xong, thuyền trưởng Bretonnière quay trở lại mang câu trả lời của ông đến người Anh.
Việc đòi thả tàu Algésiras khiến quân Anh bỏ mọi cam kết.
Thế là người Pháp tuyên bố họ được coi là tự do và nếu chủ tàu muốn giao đấu, họ, dù không có vũ khí, chỉ cần một tín hiệu sẽ lập tức tham gia ngay.
Thật ra đã có hai thủy thủ Pháp mất kiên nhẫn, tay không xông vào đám lính gác Anh. Họ nhận hai phát lưỡi lê trong đó một người chết và người kia bị thương nặng. Sự việc này đã gây náo loạn song ông La Bretonnière đã kiểm soát và cho các sĩ quan Anh có thời gian suy nghĩ. Những người này bàn bạc hồi lâu rồi thoả thuận thả người Pháp với điều kiện quân Anh cũng phải được tự do khi đến bờ biển Pháp.
Ông La Bretonnière đưa ra điều kiện cuối cùng. Đó là người Anh phải để ông có thời gian xin chính phủ Pháp cho họ tự do, điều này ông ta hứa sẽ xin được.
Thế là những tiếng hò reo vui sướng rộ lên khắp nơi vì chiếm lại được tàu của mình các sĩ quan và thủy thủ về vị trí của mình, kéo cột buồm dự trữ, các thợ mộc chốt các xà buồm, căng buồm dự trữ rồi hướng tàu chạy về phía cảng Cadix.
Suốt đêm, cơn bão mà Nelson dự báo vần vũ không ngớt, ban ngày nó càng trở nên mạnh và ác liệt hơn. Tàu Algésiras đánh vật với nó suốt cả ngày. Dù không có hoa tiêu nhưng nhờ một thủy thủ quen địa hình cảng Cadix, con tàu cũng vào đến cửa cảng.
Nhưng đến đây, nó không muốn liều lĩnh. Nó chỉ còn một mỏ neo và một dây cáp lớn để chống chọi lại những cơn gió thổi dữ dội vào bờ. Nếu neo không chịu được, tàu Algésiras coi như thua, nó sẽ bị va vào những bãi đá ngầm được gọi là mũi Diamant.
Đêm qua đi trong nỗi sợ hãi hiện rõ và ngày mới lại đến. Trong đêm, người ta đã nghe những tiếng hét át cả tiếng bão. Tàu Bucenlaure vừa nát vụn bên bờ biển còn tàu Indomptable ướt sũng chưa vào bờ dù nó có neo tốt và dây cáp chắc chắn!
Suốt ngày hôm ấy, tàu Algésiras bắn đại bác một cách tuyệt vọng hòng gọi cứu trợ. Một vài thuyền liều lĩnh đến nhưng chưa kịp lại gần đã bị sóng đánh hỏng. Chỉ duy nhất một lần họ ném được cho Algésiras thêm một neo yếu.
Đêm lại buông xuống trên biển. Tàu Algésiras và Indomptable đều được níu bằng vài sải cáp, bão tố dữ dán hơn như một đám lửa xoáy cái nhìn vào tàu Indomptable, con tàu bắn đại bác đầy tuyệt vọng, hai chiếc neo khỏe của nó đã núng thế và như một bóng ma lửa chứa trên mình đoàn thủy thủ vô cùng tuyệt vọng, nó vượt tàu Algésiras vài bộ rồi lao về phía bờ trong tiếng gãy khủng khiếp rồi chìm xuống mũi Diamant. Trong một phút, các đèn hiệu bật sáng, những tiếng hét dấy lên rồi tất cả tắt ngấm trong tầng sóng.
1500 người trên boong là 1500 người thiệt mạng.
Được níu giữ chỉ bằng không neo nhỏ, tàu Algésiras ngỡ ngàng khi thấy ngày hôm sau biển đã lặng sóng. Nó được các thủy thủ hướng dẫn vào cảng Cadix.
Bây giờ chúng ta sẽ xem giữa cơn giông tố khủng khiếp ấy, tàu Redoutable, thuyền trưởng Lucas và viên đại uý thứ ba René ra sao.
Tôi đã nói ở trên là sau ba giờ chiến đấu thuyền trưởng Lucas mới chịu hạ cờ. Với 643 thủy thủ thì 523 người không còn khả năng chiến đấu trong đó 300 người chết 222 người bị thương nặng. Trong số sĩ quan, mười chuẩn uý trên mười nằm trong số tốp thứ hai.
Thuyền trưởng Lucas cũng bị thương nhẹ ở đùi. Về tàu Redoutable, nó mất cột buồm lớn và cột buồm lái, đuôi tàu bị thủng toác một lỗ lớn. Hầu như giàn pháo bị bật tung do các đợt tấn công giáp lá cà, các đợt đạn đại bác và cuối cùng là do một khẩu đại bác cỡ 18 đã gây tổn hại nặng nề.
Phía nào con tàu cũng bị thủng nhìn thấy cả trời và nhìn nó trơ ra một bộ khung tơi tả. Không có ván sàn đủ chắc để chống chọi, đạn pháo của địch xuyên cả xuống khoang boong sát hại những thương binh khốn khổ vừa rời khỏi tay bác sĩ hay đang chờ được cứu chữa.
Lửa cũng bắt vào bánh lái khiến nó hoàn toàn không hoạt động được. Nhiều đường nước rò ri còn những cái bơm đã bị hư nát hết trong trận đấu. Tàu Victory, Téméraire buộc sát tàu Redoutable nhưng không những chúng không kéo nó đi được mà còn không đủ sức để rời ra xa.
Khoảng 7 giờ tối, phải chờ tàu Swiftsure của Anh đến kéo thì Redoutable mới di chuyển được.
Đêm hôm ấy, René đến chỗ chỉ huy và đề nghị ông ta, vì bờ biển Tây Ban Nha chỉ cách đó một dặm, nên họ sẽ chui qua một lỗ hổng nhảy xuống biển và bơi vào bờ.
Lucas là người bơi rất giỏi nhưng đang bị thương ở đùi, ông ta sợ không thể vào được đến bờ. René đảm bảo hết, hứa sẽ giúp ông nhưng Lucas từ chối thẳng thừng và khuyên René nên nghĩ đến mình.
René lắc đầu.
- Thưa chỉ huy, tôi lặn lội từ tận Ấn Độ về tìm ngài, tôi sẽ không rời xa ngài đâu. Nhưng nếu bọn chúng buộc ta phải xa nhau thế thì ai vì người nấy, khi đó chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu? Ở Paris chăng?
- Anh sẽ luôn biết tin về tôi ở Bộ Hải quân, anh bạn thân mến ạ - Lucas nói.
Thế là René lại gần ông.
- Thưa chỉ huy đáng kính của tôi, trong thắt lưng tôi có hai xâu tiền mỗi xâu có 50 đồng louis, ngài có vui lòng lấy một xâu không?
- Cảm ơn anh bạn - Lucas nói - Tôi cũng có trong ngăn kéo phòng ngủ, tất nhiên nếu phòng tôi còn, khoảng 30 đồng mà tôi định dành tặng cho anh. Ngay khi đến Paris, đừng quên hỏi tin của tôi, hàm hiệu của tôi đảm bảo bọn trâu, chó này không dám làm gì với tôi như có thể với cậu đâu.
Ngày hôm sau, chỉ huy tàu Swiftsure thả một canô đi đón thuyền trưởng lịch sử, thuyền phó Dupotet và thiếu uý Ducrès. Nếu muốn sĩ quan nào đi thêm, thuyền trưởng có thể gọi, anh ta cũng sẽ bị dẫn sang tàu Swiftsure.
Suốt ngày hôm ấy dùng để cứu người, mới nhìn qua cũng thấy tàu Redoutable sẽ chìm. Thật may là người ta đã kịp đưa 119 người đi. Hai người khác rơi xuống nước trong lúc chuyển tàu và một trong số họ bị thiệt mạng.
Lucas gọi thêm René và René bị dẫn cùng ông sang tàu Swiffsure. Họ quay mũi về phía Gibraltar. Ngày hôm sau nữa, họ đã ở một trong hai cánh quân Héc-quyn.
René giấu khả năng hiểu tiếng Anh của mình. Do đó mà anh nghe người ta nói chuyện, bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha, về đảo Péninsule quanh mình.
Nhờ vậy anh biết các tù nhân sẽ bị đưa xuống tàu hạng vừa để chuyển về Anh. Các tù nhân nhất thiết phải bị chia nhỏ vì một tàu hạng vừa không thể chuyên chở quá 60 - 70 người.
Vài ngày sau, anh báo cho Lucas rằng người Anh nhận thấy trường hợp đặc biệt của ông nên sẽ dẫn ông về London trên tàu chiến hạng nặng, những người khác sẽ chia ra trên hai tàu 3 cột buồm hạng trung và tất cả sẽ xuất phát cùng ngày.
Toàn bộ hạm đội gồm hai tàu hạng trung, một tàu coóc vét và một tàu buôn ba cột buồm đồng loạt trở về châu Âu. Tôi nói về châu Âu vì Gibraltar châu Phi hơn là châu Âu.
Chỉ huy Lucas bị dẫn lên tàu Prince không tham chiến nên không đứt một sợi dây hay bị thiệt mạng một thủy thủ nào.
René cùng 50 bạn chiến đấu được đưa lên tàu buôn 3 cột buồm có tên là tàu Samson. Trước khi chia tay anh, thuyền trưởng Lucas đã bày tỏ lòng cảm mến mà ông chưa từng dành cho ai, sự mến mộ xuất phát từ lòng can đảm mà anh đã thể hiện vào cái ngày 2 1 tháng Mười định mệnh ấy.
Lời chia tay của họ thân ái như bạn bè chứ không phải của cấp chỉ huy với cấp dưới.
Các con tàu di chuyển chậm đến tận vịnh Gascogne, đến đó mới có gió mạnh chia cách họ.
Tàu Prince chạy khỏe, buổi tối đã vượt qua mũi Finistère.
Chỉ huy tàu Samson, thuyền trưởng Parker, không làm chủ tàu của mình bằng sức gió nên đưa nó ngược lên trên vì theo tiêu đề rằng trong một cơn bão, không có gì nguy hiểm hơn bờ biển.
Khi biển đã dịu lại một chút, lúc mặt trời ló rạng trở lại, người ta nhận ra mình đang ở cách 30 - 35 dặm phía tây Ai xơ len.
Bấy giờ họ quay mũi về phía đông và tiếp tục cuộc hành trình.
Nhưng các thủy thủ lâu năm hiểu rằng sự lặng sóng chỉ là tạm thời và thuyền trưởng Parker người chưa từng leo cao lên làm chỉ huy một tàu chiến không yên tâm chút nào về vị trí của mình.
Trong chặng đường vừa qua của mình, vì René đặc biệt được yêu quý ông ta đã có thể đánh giá khả năng của anh. Vì việc để tù nhân lên tàu là không hay, dù họ chỉ có ít người, nên ông ta đi thẳng đến chỗ René vừa bắt chuyện bằng thứ tiếng Pháp dở ẹc vừa chỉ tay vào khối mây đen đang đùn lên từ phía Tây.
- Tối nay chúng ta sẽ ăn muộn đại uý ạ, nhưng tôi đã ra lệnh cho đầu bếp để chúng ta không phải đợi - Rồi ông ta chỉ tay vào đám mây tiếp tục kéo về. Vả lại, đây cũng là một cảnh đáng chú ý và có thể cho chúng ta giải trí.
- Đúng vậy. - René trả lời - Tôi chỉ mong một điều, đó là cái kết cục không làm chúng ta quá bận rộn.
Quả thật khung cảnh rất lạ nhưng những lo ngại của René không vì thế mà thái quá.
Những khối mây đen nặng nề tản dần về phía Tây nam, nhanh chóng tạo thành lớp núi cao trùng điệp và ngày một lớn lên.
Người ta nhận ra trong đó tất cả hình ảnh của dãy Alpe trên trời: những đỉnh núi nhọn hoắt, những con đường quanh co để trèo lên, đỉnh cao nhất như một miệng núi lửa mà gió đang thò cái chổi quét nhanh không thể tin nổi, như một trong những luồng hơi cuối cùng thoát khỏi ống khói vừa tắt lửa. Thật vui mắt khi xem cái lò giả ấy và nhìn chúng lan ra màu xanh ngắt của bầu trời, vì trời đang có màu xanh tuyệt đẹp lan đến chân trời chỉ trừ nơi, như tôi vừa nói, đang bị khói núi lửa xâm chiếm.
- Dẫu sao. - Viên đại uý thứ nhất nhanh nhảu nói - nếu có gì xảy ra từ cái khối hỗn mang kìn kịt kia thì cũng từ từ, ai cũng biết chúng ta còn kịp ăn tối thoải mái và tiêu cơm ấy chứ.
- Xin thứ lỗi cho chứ, - Một thủy thủ già khi đi ngang qua không dám đưa ra nhận xét cho câu vừa rồi mà chỉ nói - Gió tây nam đi nhanh hơn răng và dạ dày của ngài dù nó có thế nào.
- Tôi đồng ý với thủy thủ của ngài - René nói - Tôi không nghĩ cơn giông này lại hào hiệp để chúng ta ăn bữa tối yên lành đâu. Nếu được khuyên ngài, ngài hãy chuẩn bị đón nhận cơn giông ấy đổ ụp xuống tàu như mưa đá hay một cú sét.
Nhưng… - Một chuẩn uý đang ngồi trên lan can, cổ áo dựng cao, mắt nhìn chăm chăm vào khối đen khiến mọi người đang bận tâm nói - nhưng, thưa thuyền trưởng, không có gió thì biển khó đập vào mạn tàu được, thế thì hà cớ gì mà chúng ta phải vội?
- Ngài Blackwood, giá như chú ngài ở vị trí của ngài, ông sẽ thấy rõ hơn ngài. Hãy thu buồm vẹt và cho hạ chúng xuống ngay lập tức.
Blackwood ra lệnh làm theo và người ta còn nghe người thủy thủ già người tự phong là nhà tiên tri cảnh báo tài hoa nói:
- Kế chúng lắm nhưng chưa đủ.
Thuyền trưởng mỉm cười nhìn ông ta và nói tiếp:
- Ngay khi hạ buồm vẹt xong, hãy cho giảm ba mép buồm rồi cất buồm lớn đi.
Mệnh lệnh được thi hành ngay tức thì, đây là nguyên tắc chủ yếu của ngành hàng hải. Người ta đã thấy gió ào đến từ chân trời và dưới đôi cánh của nó, biển cuộn lên. Vết đen phía tây nam toả ra khắp bầu trời như một vết mực khổng lồ đang loang ra. Gió nhẹ đã trở thành hung dữ và đầy đe doạ.
- Còn bây giờ, ông già, ông sẽ làm gì? - Viên thuyền trưởng hỏi kẻ vừa đưa ra lời khuyên.
- Tôi ấy à. - Người thủy thủ già nói - Ngài thứ lỗi cho chứ tôi sẽ còn hạ nốt các cánh buồm cho đến khi chẳng còn gì.
- Hạ nốt những buồm mũi xuống. - Viên thuyền trưởng kêu to.
Mệnh lệnh được thực hiện ngay.
Sóng biển cuộn cao, sấm rền rĩ.
- Vào bàn ăn thôi các vị, vào bàn! - Một chuẩn uý xuất hiện trước cửa cầu thang lên boong kêu to, chiếc khăn mặt cầm trong tay.
Anh ta để nó bay vèo mất.
- Ối này. - Anh ta nói - Chúng ta có gió này, thế mà ở dưới chẳng biết tí gì.
- Đúng thế ở đây đã thấy rồi - Thuyền trưởng nói - và ở dưới, anh sẽ sớm biết thôi.
- Ở trên ấy thế nào? - Các sĩ quan ở dưới tàu hỏi viên chuẩn uý vừa lên boong.
- Tôi thấy nhiều lần thời tiết đẹp hơn thế. - Viên chuẩn uý đáp.
- Thuyền trưởng không xuống ăn tối à? - Một người hỏi.
- Không! Ông ấy ở lại boong với một tù binh trẻ mà thuyền trưởng Lucas tiến cử, anh ta được coi là người đã bắn chết đô đốc Nelson đấy.
- Nếu gặp nguy hiểm - Viên đại uý thứ hai nói - tao hứa sẽ ném thằng cha ấy xuống biển mười phút trước đó, nếu tao ở vị trí ấy.
- Anh bạn thân mến, anh thật bất công - Một đồng sự nói với hắn ta - Nếu đó là người đã giết Nelson, anh ta đã làm ở cấp chính phủ Pháp. Là anh, anh có đáng bị quẳng xuống biển vì giết Lucas không? Tôi biết, tất cả các ông Lucas trên đời không sánh được với Nelson nhưng can đảm thay một thuyền trưởng như chỉ huy Lucas. Anh đã thấy bộ quân phục của ông ta sáng lên ta lần khi tấn công trên mạn tàu Victory chưa? Anh đã thấy giữa khói lửa, cái rìu của ông ấy sáng lên như cáu vồng chưa? Nếu anh ở trước mặt Lucas, dù trời đẹp hay giông tố, hãy chào kính cẩn rồi mới đi qua, đó là điều tôi sẽ làm đấy.
Trong khi cuộc nói chuyện ấy diễn ra ở phòng ăn của sĩ quan, trên boong là vẻ lặng thinh tẻ ngắt. Gió đột ngột nhào tới, cỏn tàu đã hạ hết buồm, lừ đừ trôi theo những con sóng. Nước ủ ê lướt trên hai mạn tàu và khi con tàu dềnh lên theo sóng, lớp nước ấy lại rơi từ lưng khoang vào Đại dương tạo thành một luồng thác bé nhỏ trắng sáng.
Khi ấy một luồng sáng từ boong có khi bay lên đến tận trời.
- Đúng là một đêm lệnh hoàng thuyền trưởng Parker ạ. - Viên đại uý thứ nhất nói.
- Tôi đã thấy ít dấu hiệu đổi gió. - Viên thuyền trưởng đáp bằng giọng chắc chắn.
- Nhưng mà - Người thủy thủ già càu nhàu, người với 45 năm đi biển cho phép ông được các sĩ quan nhìn nhận - Sự thay đổi ấy vẫn có dấu hiệu mà người thủy thủ lâu năm không thể không nhận ra.
- Thưa các ngài, vậy các ngài còn muốn gì nữa? - Thuyền trưởng nói - Không hề có mảy may chút gió nào còn tàu thì đã hạ cánh buồm còn gì.
- Được rồi! - Người thủy thủ già nói - tôi sẽ không nói nữa, kể ra tàu Samson cũng hành động không quá tệ so với chiến thuyền buôn đúng mực. Có ít tàu cột buồm vuông nào không mang cờ vua Geoges lại có thể tránh gió hay sóng đâu. Nhưng bây giờ là lúc một thủy thủ phải suy nghĩ. Hãy nhìn dưới ánh sáng xám nhạt chiếu tới chỗ chúng ta kia, ai có thể nói cho tôi biết nó từ đâu đến không? Từ châu Mỹ hay là từ bắc cực? Dù thế nào thì hẳn nó không phải là ánh trăng rồi.
Thuyền trưởng lại gần cửa cầu thang lên boong. Ông ta nghe thấy tiếng cười nói của các sĩ quan và tiếng ly cụng vào nhau.
- Uống thế, cười thế đủ rồi đấy! - ông hét lên - Tất cả mọi người lên boong.
Chỉ trong giây lát, những người được nói tới nhảy lên boong.
Vừa nhận ra tình hình thời tiết trên trời và biển, thủy thủ đoàn gồm sĩ quan và thủy thủ, đều chắc chắn sẽ phải đương đầu với cơn bão.
Không ai nói một lời nhưng mỗi người đều vận dụng tất cả sức mạnh, nghị lực của mình có thể có được. Quả thực, không có cánh tay nào lại không cần thiết, lại không có nhiệm vụ trực tiếp phải làm.
Sương mù nhợt nhạt và càng dày đặc từ mươi phút qua tràn đến từ hướng tây nam bây giờ đã lan khắp tàu với sức nhanh của một con ngựa đang lao đi trong đường đua để giành giải. Không khí mất dần hơi ẩm theo gió đông và những cơn gió tây nam như bắt đầu rít qua các cột buồm, dấu hiệu của cơn bão đang dồn lại.
Thế rồi người ta nghe một tiếng động mạnh và khủng khiếp lồng lên trong Đại dương mà cái bề mặt của nó ban đầu còn xao động sau đó lô nhô và cuối cùng phủ một lớp sóng trắng xoá. Một lát sau, cơn giận dữ của gió liên tiếp chống lại cái khối nặng và trơ ì của con tàu.
Với cơn bão, con tàu đang trong tình trạng một thế trận bộ binh vuông vức đang chờ sức mạnh của cả trung đoàn kỵ binh.
Lại gần gió lốc, viên chỉ huy đã thả vài mảnh buồm để tận dụng gió phía trước ở mức nhiều nhất có thể. Nhưng con tàu này được đóng để làm tàu chuyên chở chứ không phải để đua nên không đáp ứng được lòng mong mỏi trong cơn bất nhẫn cũng như nhu cầu cấp thiết của thời điểm ấy. Mũi tàu rời về hướng đông một cách chậm chạp và nặng nề khiến nó bị rơi vào tư thế phải hứng cơn gió giật bên mạn. Thật may cho tất cả những ai tình cờ đặt tính mạng của mình vào con tàu không sức kháng cự này là nó chắc chắn chứ không phải loại chỉ để nhận một cú va duy nhất của cơn bão. Một chút buồm mà người ta vừa thả run lên trên các xà ngang chình ình, phồng lên rồi lần lượt xổ tung chỉ trong một phút và thế là cơn bão đổ vào đấy với vẻ dữ dội đáng sợ.
Màn đêm quá dày đặc đến nỗi người ta chỉ có thể mò mẫm. Mọi người chỉ thấy nhau, vội vã như những bóng ma, qua ánh sáng yếu ớt của những ánh chớp hay ánh sáng phản chiếu từ các cuộn sáng bùng lên trong mắt họ một lát rồi lại ném ánh mắt ấy vào đêm mịt mùng đến nỗi nó khiến ánh sáng hắt ra gắt hơn, chớp nhoáng hơn. Tất cả những gì con người có thể làm để chiều theo cơn bão là vài phương cách tạm thời đã làm. Người ta chỉ còn nước chờ đợi. Họ đếm từng phút.
Bị những cơn va đập liên tiếp vào cột buồm và thành tàu, nơi các đợt tròng trành lắc lư liên tục ném họ làm họ giập hết mình mẩy, bị những đoạn dây chão đứt đang ngoáy tít trong không trung như những cái roi vô hình và sắc nhọn quật vào. Mệt mỏi vì công việc và vì sợ hãi, không có hy vọng nào manh nha dù là điên khùng vì càng lúc, nguy hiểm mới càng nhiều, các thủy thủ trên tàu Samson đứng sát vào thành tàu phía có gió, cúi lưng xuống để tránh cơn sóng khổng lồ nhào tới ập vào khoang rồi vội vã chạy từ sau lên trước hay chồm lên con tàu từ phải sang trái. Không hề có lời trao đổi nào, ai cũng dồn hết mình vào những dòng suy nghĩ, một sự im lặng tẻ ngắt, vài câu chửi tục, than vãn, rền ri ném lên trời để nguyền rủa hay buộc tội trời cao.
Biển cả nô giỡn với con tàu như một gã khổng lồ chơi đá cầu, huých vào nó phía trước, đằng sau, qua chân, qua má, qua sườn, và đồng thời từ tất cả các phía, đưa nó lên đỉnh ngọn núi di động hay vội vã ném nó xuống vực sâu nơi mà có lẽ nó không bao giờ có thể thoát ra được.
Một trong những cú vào mạn trái va mạnh vào đuôi tàu đến nỗi lập tức mạn này sang thế chỗ mạn phải và chỉ một lát lại mang nó về bên trái, buồm mũi trở nên vô hiệu. Gió cuốn nó, xé rách nó, cái buồm chắc chắn là vậy mà chỉ như một tấm vải mút sơ lin mỏng tang.
Bị chọc thủng, rách bươm, xé thành từng miếng và bị cuốn đi chẳng còn dấu tích nào cho thấy đó là cột buồm. Cần bánh lái bị gãy và con tàu lệch về mạn phải, để những khối nước tràn qua khiến nó không lật lại được vì các lớp nước liên tiếp dồn đến.
- Làm sao bây giờ? - Viên chỉ huy hỏi René.
- Chỉnh cần gió? Chỉnh cần gió! - René đáp.
- Chỉnh cần gió ngay! - Viên chỉ huy Parker hét lên bằng giọng mạnh đến mức giữa cơn ầm ĩ của bão tố, nó vẫn được nghe rõ.
Người thủy thủ già đã tham gia ý kiến ban nãy là người chạy nhanh đến bánh lái với một cái cần khác để thay, chiếm ngay chỗ của người lái. Ông làm theo mệnh lệnh nhanh và chắc chắn, nhưng mắt ông chăm chú nhìn vào cánh buồm phía trước để chờ cơ hội hành động mà không được. Hai lần nhiều cột buồm lớn ngả về phía chân trời là hai lần chúng lại trở dậy điệu đà trong không trung, rồi phải chịu khuất phục trước cơn dữ dội và sóng nước, con tàu chúc nghiêng xuống biển.
- Làm sao bây giờ? - Viên chỉ huy hỏi René.
- Hãy chặt đi! - René nói.
- Chú ý! - Parker lại kêu to với đại uý thứ hai - Hãy đi tìm một cái rìu lại đây.
Nhanh như ý nghĩ vụt đến để đưa ra mệnh lệnh ấy, viên đại uý lao lên cột buồm mũi, giơ tay lên trời, hỏi lại:
- Chặt chứ?
- Chờ đã, Vieux Nick - Thuyền trưởng hỏi người lái - bánh lái còn điều khiển được con tàu không?
- Không, thưa thuyền trưởng.
- Thế thì chặt đi! - Parker đáp bằng giọng chắc chắn và bình thản.
Chỉ một nhát cũng đủ hạ cột buồm mũi. Do bị kéo căng bởi lực lớn cột buồm lớn nhận lưỡi rìu, đau đớn gục xuống như một cái cây bị bật rễ, nó bay một đoạn ngắn rồi rơi xuống biển.
Hỏi xem tàu nâng lên chưa - René thì thầm vào tai thuyền trưởng.
- Nó nâng lên chưa? - Parker gào lên với người lái.
- Thưa chỉ huy, nó chỉ hơi nhích lên một tí thôi, nhưng một cơn gió lốc lại vừa nhấn lên mạn nó rồi.
Viên đại uý thứ hai vẫn còn đứng dưới chân cột buồm lớn, anh ta hiểu toàn bộ tầm quan trọng của công việc mình vừa bắt đầu.
- Có chặt nữa không? - Anh ta hỏi.
- Chặt đi! - Giọng xầm xì của thuyền trưởng cất lên.
Người ta nghe thấy tiếng nhát rìu chát chúa vang lên, tiếp đến là tiếng gãy răng rắc rợn người, nhát thứ hai, thứ ba nối ngay sau đó; Gỗ, dây chão, cánh buồm, tất cả ngả rạp xuống biển và con tàu vừa nổi lên đã nặng nề trôi đi theo hướng gió.
- Nó nổi rồi! Nó nổi rồi! - Toàn bộ thủy thủ đoàn hò reo, tiếng kêu mà trước lúc đó còn câm lặng và ghìm lại.
Bỏ hết nó đi để không gì ảnh hưởng đến hoạt động của tàu - Giọng nói khỏe khoắn đầy xúc động của thuyền trưởng vọng đến - Các anh hãy sẵn sàng cuốn buồm lớn, hãy chờ một lát để tàu ra khỏi bước xấu này đã; nhưng trong khi chờ hãy chặt đi! Can đảm lên các bạn, dao, rìu, chặt hết, cắt hết!
Chỉ trong một lát, với sức mạnh và lòng can đảm do hy vọng hồi sinh mang lại, các dây chão như con tàu với các que vặn bị rơi đã được chặt sạch. Tàu Samson, như ở con chim trụi lông trên mặt biển, chỉ còn nước lướt trên mặt sóng.
Gió gào rú ngang sức với tiếng sấm rền, chỉ những nếp trên cột buồm duy nhất còn lại lúc gió lốc tràn đến là còn bay phần phật và phần buồm vẹt phồng lên như muốn giật cả cột buồm lái, cột buồm duy nhất còn trên tàu, theo cùng nó.
Đặt tay lên cánh tay viên thuyền trưởng, René chỉ mối nguy hiểm ấy cho ông ta. Parker hiểu ra và những lời nói sau đây của ông ta giống như một lời van lơn hơn là một mệnh lệnh:
- Anh em, cột buồm kia không thể cự nổi lâu hơn các cú lắc như vậy. Nếu nó đổ xuống phía trước tàu, những gì nó kéo theo sẽ gây ra đại hoạ. Một hay hai người leo lên cao để cắt buồm trên các trục căng.
Viên đại uý thứ hai là người mệnh lệnh này có vẻ nhắm tới đã lùi lại một bước.
- Cây cụt này gập xuống như cành liễu ấy - Anh ta nói - Nó dập dềnh thế kia thì trèo lên nguy chết, gió lại quấy đảo không ngừng nữa chứ.
- Anh nói đúng đấy - René bảo - Hãy đưa dao cho tôi nào.
Và trước khi viên đại uý hỏi anh định làm gì, René đã giằng lấy con dao từ tay anh ta, chồm lên dây néo mà mỗi sợi đều bị gió bão quần tơi tả như sắp đứt.
Những cặp mắt tinh anh của những người nhìn theo đều hiểu ý định của anh và nhận ra anh tức thì.
- Gã người Pháp! Gã người Pháp đấy? - Chục giọng nói đồng thanh cất lên.
Và bảy tám thủy thủ lâu năm, xấu hổ khi thấy một người Pháp làm cái công việc mà không ai trong số họ dám làm, lao lại phía thang dây để leo về phía nền trời chằng chịt.
- Xuống ngay - Thuyền trưởng hét lên trong loa - Tất cả xuống ngay chỉ trừ người Pháp thôi, xuống ngay.
Những lời đó đến tai các thủy thủ của ông ta nhưng vừa bị kích động lẫn bị làm nhục, họ tảng lờ như không nghe thấy gì.
Nhưng René vẫn là người đến nơi trước, anh lia lưỡi dao sắc nhọn theo chiều rộng các sợi dây chão níu với các trục căng dưới một góc mảnh buồm đã bị xước chỉ chực toác ra. Cánh buồm chỉ mong được giúp, bứt khỏi mọi ràng buộc, người ta thấy nó bay phấn phật trong không trung phía trước con tàu như một chiếc khăn lớn; con tàu nhô lên cao bởi một con sóng lớn rồi nặng nề đổ nhào theo.
Sức mạnh của cú sốc khiến mảnh buồm dưới phồng lên lôi theo cột buồm khiến nó phát ra tiếng kêu răng rắc rồi nghiêng xuống mũi tàu.
- Xuống ngay! - Thuyền trưởng hét lên qua các loa - Xuống bằng các cột chống ấy! Xuống ngay không mất mạng bây giờ, tất cả xuống đi!
Chỉ mình René nghe theo. Anh trượt xuống nhanh như sét đánh vào cột thu lôi chạy theo sợi dây dẫn nó vào cái giếng nơi nó phải tắt lịm.
Cột buồm lắc lư một lát và như chúi xuống điểm thấp nhất rồi theo cơn tròng trành tàu đổ ụp xuống biển, những gì là dây rợ đứt sạch kéo theo những người khác, kẻ rơi xuống boong, người lộn nhào xuống những cơn sóng.
- Thả một thuyền con xuống biển! Một thuyền xuống biển! - Thuyền trưởng gào lên.
Nhưng chỉ trong chốc lát, tất cả mảnh vụn của cột buồm cũng như những thứ dính vào đó đều biến mất giữa lớp sương mù đang bao tứ phía con tàu.
Sau khi nhận ra không còn cách nào để cứu được những người đã rơi xuống biển, sau khi giao những người bị thương do ngã xuống boong cho bác sĩ, viên chỉ huy đến chìa tay cho René, ông ta thấy anh vẫn thản nhiên như thể không hề tham gia vào cơn tai hoạ cuối cùng.
Vào lúc ấy trong khi viên thuyền trưởng hỏi René xem anh có bị thương chỗ nào không thì một thủy thủ đến thông báo nước tràn vào hầm tàu đã dâng đến bốn bộ. Con tàu đã phải chịu nhiều đợi sóng liên tiếp va mạnh, loại sóng mà các thủy thủ gọi đùa là "quà của biển" khiến nước tràn vào lưng khoang hầm người ta mới kịp nghĩ đến.
- Trong hoàn cảnh khác, chuyện này không là gì, - Viên chỉ huy nói - nhưng ngài cũng biết các thủy thủ ghét bơm nước thế nào rồi đấy: họ ghê tởm việc này, cộng với sự mệt mỏi thế kia, tôi không dám buộc họ làm gánh nặng cuối cùng ấy.
- Chỉ huy, - René nói và chìa tay cho viên thuyền trưởng - Ông có tin vào tôi không?
- Hoàn toàn tin tưởng. - ông ta đáp.
- Thế thì được? Tôi có dưới khoang boong sáu mươi bảy đến sáu mươi tám người vốn nghỉ ngơi trong lúc đoàn thủy thủ của ông lo cứu họ: thật ra trong khi cứu họ là họ cũng tự cứu mình. Bây giờ đến lượt người của tôi làm thay cho người khác nghỉ. Hãy trao thủy thủ của tôi cho tôi trong vòng bốn giờ, sau bốn tiếng nữa, ngài sẽ không thấy giọt nước nào trong khoang. Và trong bốn tiếng ấy người của tôi sẽ đến lượt mình đáp lại những gì thủy thủ đoàn của ngài đã làm cho họ trong hai ngày qua.
René, bằng tiếng tăm lan khắp rằng anh là người đã hạ Nelson, bằng cách anh hành động trong cơn bão, anh đã chiếm được uy tín nhất định trong con mắt các thủy thủ Anh. Đó không phải là một con người bình thường, đó là người đã giết được Nelson, con người mà suốt bao năm qua chống lại nước Pháp, chống lại bão tố và đôi khi chống lại cả Chúa.
Thuyền trưởng nhân lúc cơn bão dịu lại đôi chút, tập hợp người của mình trên boong và nói với họ:
- Các bạn của tôi, tôi có tin xấu báo cho các bạn là chúng ta có bốn đến năm bộ nước ngập dưới khoang hầm. Nếu chần chừ nước sẽ tăng nhanh và tàu sẽ chìm trước sáng mai. Nhưng nếu các bạn muốn xuống bơm nước, chúng ta còn cơ may thoát khỏi hiểm nguy mới này, nguy hiểm lớn nhất từ trước đến giờ.
Vậy là điều thuyền trưởng Parker dự đoán đã xảy ra, hơn một nửa thủy thủ đoàn nằm xuống boong và nói rằng họ thà để chìm tàu hơn là đi bơm nước, nửa khác im lặng song thuyền trưởng khỏi cần nhìn cũng biết chỉ cần ông nài nỉ họ sẽ là người phản kháng mạnh nhất.
- Các anh em,- Thuyền trưởng tiếp tục - Tôi hiểu sự mệt nhọc của các bạn và hơn thế là sự ghê sợ của công việc ấy. Đây là đại uý René, người tỏ lòng biết ơn những gì các bạn đã làm cho anh ấy và người của mình trong chuyến đi này, sẽ có lời đề nghị.
Người lái tàu là người đầu tiên ngả mũ của mình và lạy anh.
- Đại uý René là một thủy thủ hoàn hảo, dũng cảm chưa từng, chúng ta hãy nghe lời đề nghị của anh ấy.
Giữa cơn bão mà không ai có vẻ quan tâm đến nó, thủy thủ đoàn cùng đồng thanh kêu lên:
- Chúng ta hãy nghe đại uý René, hoan hô đại uý René!
Người được nhắc đến rớm lệ chào mọi người, trong sự ngạc nhiên của toàn đoàn chưa từng nghe anh nói ra một câu tiếng Anh nào, anh cất giọng bằng ngôn ngữ chuẩn như một người ở hạt Suffolk có thể nói:
- Cảm ơn! Trong trận chiến chúng ta là kẻ thù, sau trận chiến, chúng ta là đối thủ nhưng trong hoạn nạn, chúng ta là anh em.
Những tiếng tán thành rì rào từ tứ phía chào đốn phần mở đầu ấy.
- Đây là điều tôi đề nghị các anh: Các anh có trên tàu sáu mươi chín tù binh đã nghỉ ngơi trong suốt hai ngày khi các anh làm việc vì họ. Dù trong công việc của các anh có đôi chút ích kỷ dù có thể các anh không nghĩ đến họ trong khi cơn bão xảy ra nhưng họ vẫn nhờ tôi đại diện bày tỏ ý muốn đến lượt họ làm việc.
Các thủy thủ anh lắng nghe mà vẫn chưa hiểu.
- Hãy cho họ tự do trong bốn tiếng. Trong thời gian này họ sẽ bơm nước ra thay cho các anh. Trong 4 tiếng nữa con tàu sẽ được thoát hiểm và đôi bên sẽ cùng nhau thân tình uống một ly rượu gin rồi mỗi người trong số họ lại trở về vị trí tù binh, trong lòng vui mừng khi các anh giữ lại kỷ niệm đẹp về họ cũng như họ giữ kỷ niệm đẹp về các anh. Tôi xin dùng danh dự của tôi để đảm bảo cho họ.
Quân Anh vô cùng sửng sốt. Chưa bao giờ họ nghĩ anh sẽ đề nghị như vậy. Có cái gì rất hiệp sĩ trong lời đề nghị của tù nhân của họ khiến trong giây lát họ chưa hiểu ra.
Tuy nhiên ông già chỉ huy Parker, người đang mong điều tương tự đã quàng tay qua cổ René mà kêu rằng:
- Các bạn của tôi, đại uý René đảm bảo cho họ còn tôi đảm bảo cho anh ấy.
Thế là trên tàu xôn xao mà không thể đưa ra ý kiến cụ thể, trong khi ấy viên đại uý thứ nhất nhận được lệnh nói nhỏ của chỉ huy, chỉ lát sau ta thấy xuất hiện ở cửa cầu thang lên boong một tốp mười hai tù nhân đang ngỡ ngàng không hiểu vì sao người ta đưa mình lên boong vào giờ này và vào thời tiết như vậy; nhưng khi thấy trên boong, đã nhẵn lì bởi cơn bão như boong tàu Redoutable của họ gãy sạch buồm bởi trận đấu, đại uý của họ đương tươi cười và chìa tay ra thì họ yên tâm.
- Các bạn của tôi - René nói với họ - đây là những người bạn can đảm từ hai ngày qua đối diện với cơn bão. Không cần nhìn cũng thấy sức mạnh của nó, họ đã thoát nhưng mệt quá rồi. Dưới khoang hầm lại có năm bộ nước tràn vào.
- Hãy đưa chúng tôi đến chỗ bơm nước - Trưởng kíp tàu Redoutable nói - Trong ba tiếng, nước sẽ hết sạch.
René nhắc lại bằng tiếng Anh điều người trưởng kíp vừa nói, trong khi ấy thuyền trưởng Parker mang đến một thùng rượu gin.
- Thế nào các bạn - René nói với quân Anh - Các anh đồng ý chứ?
Chỉ có một tiếng kêu:
- Đồng ý, thưa đại uý! Vâng, chúng tôi đồng ý!
Và những con người này, vài ngày trước còn xông vào nhau không thương tiếc cho đến giọt máu cuối cùng bây giờ lại xông vào nhau đầy thân ái trong vòng tay nhau.
- Hãy nói với người của ngài là họ có thể đi nghỉ. - René thì thầm vào tai ông thuyền trưởng Parker - Còn ngài cũng đi nghỉ đi! Chỉ cần nói với chúng tôi các vị định cập tàu ở đâu, trong 4 tiếng nữa tôi sẽ lo hết, kể cả chuyện lái tàu.
- Chúng tôi phải đến thượng lưu eo Saint-Geoge, gió và sóng đã đẩy chúng tôi đến cảng nhỏ Cork, hãy cắm một cột buồm nhỏ dự trữ và căng mảnh buồm nào đấy rồi điều khiển về phía Cork giữa kinh độ 10 và 12. Một ly rượu gin nào các bạn - viên thuyền trưởng nổi tiếng và làm gương bằng cách cụng ly với René.
Mười phút sau, ai vào việc nấy: Kẻ thắng trận đi ngủ người thua trận làm việc và chính các tù binh lại điều khiển nhà tù của họ.
Sau bốn tiếng, không còn giọt nước nào trong khoang, người Anh trở lại vị trí của mình và ngày hôm sau, những mảnh vỡ tàu Samson thả neo ở cuối vịnh, cách thành phố Cork nhỏ bé hai sải cáp.
Chú thích:
(1) Tàu Vengeur du Peuple do Renaudin chỉ huy đã chiến đấu đến phút cuối cùng chống lại hạm đội Anh của Lơrd Howe ngày 1- 6-1794.

Chương 95: Vượt ngục

Ngày hôm sau, người ta nhận thấy chẳng có lý do gì mà để lại tù binh Pháp trên tàu nữa dù nhìn cái tàu ấy chẳng khác gì một tàu giam tù.
Việc bơi vào bờ quá dễ dàng. Một khi đã lên bờ, có quá nhiều cảm mến giữa người Pháp và người Ai xơ len nên người Pháp chẳng có gì nghi ngờ người Ai xơ len. Hiển nhiên là không bao giờ một người Ai xơ len lại tố cáo một tù binh Pháp.
Người ta đã thoả thuận cho tù binh vào nhà tù của thành phố.
Vừa xuống khỏi bậc thang tàu, một tù nhân lại gần René và nói với anh bằng giọng Ai xơ len không trốn vào đâu được:
- Hãy chọn tôi vào phòng của ngài, ngài sẽ không phải hối hận về điều này đâu.
René liếc nhìn con người này. Anh ta có khuôn mặt thẳng thắn và cởi mở. Khi người ta hỏi anh muốn ở cùng ai, anh chỉ vào anh ta là người thứ ba, còn để năm người khác tự họ chọn.
Mỗi phòng giam gồm có tám người.
René không quan tâm đến chuyện đòi hỏi đặc ân nào. Anh không biết rằng một khi ra khỏi Cork, anh sẽ bị dẫn đến trại giam Poltsmouth và ai biết những hình phạt khủng khiếp gì sẽ xảy ra ở những trại kinh tởm ấy. Tuy thế anh cũng không hỏi han, anh nghĩ chuyện gì đến khắc tự nó đến và anh đã không nhầm.
Quả nhiên, các tù nhân vừa vào phòng giam dành cho họ - đó là một phòng dưới tầng trệt, quay ra sân có tường bao cao 16 bộ, cửa sổ có song sắt, cái sân suốt ngày đêm có hai đội lính gác đi qua đi lại - thì anh chàng người Ai xơ len, sau khi nhìn ngó ra sân chạy lại phía René và nói thì thầm bằng tiếng Anh:
- Có phải muốn trốn thì trốn ở đây, nếu chúng ta không muốn đến trại Porsmouth không?
- Đúng thế, - René trả lời - Bây giờ thì chỉ còn tìm cách nào thôi, tôi có tiền và nếu tiền có ích, tôi sẽ dùng nó cho những người bạn tốt của mình.
- Tiền là một thứ hay - Anh chàng Ai xơ len nói - Nhưng còn có thứ hay hơn.
Rồi anh ta chỉ cho René tám thanh sắt nhọn bọc trong tám cái chân ghế.
- Khi nhận ra chúng ta sắp bị bắt - Anh chàng Ai xơ len nói thêm - tôi đã nghĩ đến tương lai và tự nhủ: "Chẳng có nhà tù nào người ta lại không trốn thoát khi người ta có lòng can đảm và cánh tay khéo léo". Thế là tôi luôn mang theo túi gậy, tôi đã cắt tám chân ghế và lấy một cái dũa chỗ thợ sắt. Đấy là tư trang của tôi.
- Tôi thấy rõ rồi - René nói - Tôi thấy rõ tám con dao găm, một cái rũa để cưa thanh chắn nhưng còn thiếu một sợi dây để leo lên tường.
- Anh có tiền, chẳng phải anh đã nói thế với tôi là gì. Tôi là người Ai xơ len, tôi biết nước tôi và đồng bào tôi. Tàu của chúng ta ít nhất phải mất sáu tuần mới trở lại trạng thái hạ thủy được. Người Ai xơ len sẽ dành cho chúng ta một trong những đêm không có lính gác Anh nào ở ngoài trong giá lạnh. Chúng chỉ mở cửa và túm tụm lại trong phòng ấm cúng. Còn về những đồng bào của tôi, nói tới người Pháp tức là nói người giải phóng cho họ, bạn bè, anh em, liên minh. Về phía đồng bào tôi, không chỉ không có gì đáng ngại mà còn đầy hy vọng nữa kia. Anh nói anh có tiền, điều này không nhất thiết cần nhưng chẳng bao giờ thừa; chúng ta sẽ thấy một gã hay, biết đâu lại chúng là cai ngục ném dây từ đầu tường bên kia cho chúng ta: vậy nên chỉ còn chờ và luôn ở tư thế sẵn sàng. Hãy để tôi lân la với thầy cai và chưa đầy 8 ngày sau, chúng ta sẽ ở ngoài, như thế không có nghĩa là chúng ta đã thoát nhưng thế cũng gần thoát rồi. Bây giờ mới người đã thấy chúng ta nói chuyện với nhau, các bạn khác có thể nghi ngờ, hãy nói chuyện với họ đừng giải thích gì cả để họ im lặng và hy vọng.
Chỉ vài lời René đã hoàn tất ý định của anh chàng Ai xơ len.
- Chà xem nào, xem chúng ta có bao nhiêu người? - ông ta nói.
Rồi ông ta đếm.
- Tám, tức là cần tám cái nệm, vì không có chuyện để các anh ngủ trên ổ rơm. Nếu các anh là người Anh hay người Êcốt thì đừng hòng.
- Hoan hô, bố Donald! - Anh chàng Ai xơ len nói.
Thầy quản ngục rùng mình. Ông ta vừa nghe ai đó gọi tên mình bằng giọng Ai xơ len.
- Ông ấy đã không quên - Anh chàng Ai xơ len nói - rằng mình là bà con bốn mươi năm độ của tướng Mac Donald mà tôi đã phục vụ ở Naples và Calabre.
- Chà cậu là người Ai xơ len à?
- Con nghĩ con là người Ai xơ len, ở Youghal, cách đây 10 dặm. Bố không nhớ con sao, bố Donald, đúng là lâu quá rồi, hơn 20 năm, con vẫn đến chơi cùng hai cậu bé, Jame và Tom. Đó là hai cậu bé kháu lắm. Họ ra sao rồi bố?
Ồng quản ngục đưa mu bàn tay lên lau mắt.
- Chúng buộc phải xung quân phục vụ người Anh: James đã mất, nó bị bắn. Còn Tom, nó cũng bị chết ở Aboukir, tội nghiệp thằng bé!
Chàng Ai xơ len nhìn René như muốn nói: "Anh thấy chưa, cũng không khó như chúng ta tưởng".
- Bọn Anh chết giẫm! - Chàng ta nói - Chúng ta sẽ không bao giờ bỏ qua cho chúng.
- À! Nếu vào tay tôi - ông Donald nói và giơ nắm đấm lên - Tôi cũng chỉ nói thế.
- Bác theo đạo Cơ đốc à? - René hỏi.
Người cai ngục đáp lại bằng cách làm dấu thánh giá.
René tiến lại phía ông ta, lấy một nhúm vàng từ trong túi vừa đặt vào tay ông vừa nói:
- Bác cầm lấy, đây là để làm lễ cầu siêu cho linh hồn các con bác được an nghỉ.
- Ông là người Anh - Người cai ngục nói - Tôi chẳng lấy gì của người Anh cả.
- Tôi là người Pháp và là người Pháp tốt bụng bác ạ, như đồng hương của bác nói đấy. Nếu người ta cầu kinh ở thế giới bên kia, tôi cũng đã cử kha khá bọn Anh đến dự lễ như trẻ hát đồng ca và tu sĩ rồi.
- Thật thế chứ - Người cai ngục hỏi anh bạn đồng hương.
- Thật như thánh Trinité vậy - Anh này trả lời.
Ông già quay lại chìa tay cho René, René siết tay ông:
- Bây giờ bác đồng ý rồi chứ?
- Đồng ý tất thưa anh, vì anh không phải là người Anh.
- Mọi chuyện thế là ổn thoả - Anh chàng Ai xơ len nói - Chúng ta đều là bạn bè và là bạn tốt, chỉ cần đối xử với nhau như bạn bè, bánh mì ngon, bia ngon và lửa khi trời quá lạnh.
- Và cả thịt cho tất cả các bữa nữa. - René nói thêm - Đây là cho tuần đầu tiên.
Rồi anh đưa ra đồng năm Louis cho ông quản ngục.
- Chà, - ông già nói với anh chàng người Ai xơ len - Đây chắc là một đô đốc?
- Không phải. - Anh chàng Ai xơ len đáp - Nhưng anh ấy giàu lắm. Anh ấy đã kiếm được chiến lợi phẩm ở vùng biển Ấn Độ và đến với chúng tôi một hay hai hôm trước trận đấu.
- Trận đánh nào" - ông cai ngục hỏi.
- Thì trận Trafalgar chứ trận nào, trận mà Nelson đã bị giết ấy.
- Cái gì! - Người cai ngục kêu lên - Nelson bị giết rồi ư?
- Đúng thế, nếu cần người ta có thể chỉ cho bố bàn tay nào đã hạ ông ta.
- Cảm ơn cho hôm nay, chúng ta sẽ nói chuyện này sau.
- Tạm biệt bố Donald, và bánh ngọt, bia ngon và thịt tươi nhé.
Tù nhân chẳng có gì phải phàn nàn về ông quản ngục của họ.
Ngay buổi tối, họ đã thấy thành ý của ông Donald muốn hoàn thành lời hứa của mình với họ ra sao. Nhưng cũng ngay tối ấy hai lính gác đi đi lại lại trong cái sân hẹp mà cửa sổ song sắt phòng giam của họ nhìn ra.
Tám ngày trôi đi mà không có lời nào trao đổi giữa những người Pháp với thầy Donald. Nhưng đổi lại, không lần nào ông cai vào phòng giam mà không thì thầm to nhỏ với người đồng hương Ai xơ len của mình.
- Sẽ ổn thôi. - Người này nói sau mỗi lần hội nghị.
Thời tiết ngày càng lạnh. Có những lúc tuyết rơi dày đến mức đám lính canh người Anh túm tụm vào bót gác. Thế là anh chàng Ai xơ len dùng dũa cắt ba thanh chắn song sắt ở cửa sổ, cái ở giữa đã bị đứt chân.
Thời tiết chuyển từ xấu sang tệ hại.
- Đưa cho tôi 100 phăng. - Một buổi tối anh chàng Ai xơ len bảo René.
- René rút ra năm đồng 5 Louis và đưa cho anh ta. Anh này đi cùng quản ngục và trở về sau một tiếng.
- Chúng ta hãy cầu Chúa cho Người khiến thời tiết đêm nay không cho con quỷ nào canh ở cửa - Anh chàng Ai xơ len nói - và chúng ta sẽ tự do.
Bữa ăn tối hôm ấy thịnh soạn hơn thường lệ và mỗi người có thể bỏ chút bánh mì kẹp thịt vào túi cho bữa trưa mai. Khoảng chín giờ tối, tuyết bắt đầu rơi cuộn theo cơn gió bắc mạnh như muốn bẻ gãy hết sừng bò trong vùng. Mười giờ, các tù nhân lắng tai nghe cũng không thấy tiếng bước chân lính gác trong sân: Có thể tấm thảm tuyết dày phủ nền gạch đã ngăn tiếng động. Họ hé mở cửa sổ thận trọng nhìn ra. Lính Anh đã vào phòng trực sưởi ấm thay vì canh ở vị trí gác của chúng.
Anh chàng Ai xơ len lượm một hòn đá trong góc nhà ném qua bức tường. Tức thì một sợi dây ném từ bên kia bức tường, rơi vào sân và đung đưa trong không khí.
- Bây giờ chỉ còn cưa đứt nốt thanh sắt này.
- Được rồi - René nói - không cần phải mất thời gian, hãy đợi đấy!
- Anh dùng hai tay bẻ mạnh về mình, và ngay từ cố gắng đầu tiên, anh đã giật tung tảng đá xây nơi cái chắn song gắn vào đó.
- Đây là vũ khí của tôi, tôi chẳng cần cái gì khác - Anh nói.
Anh chàng Ai xơ len chui qua lỗ đầu tiên và chạy ra sân. Sân vắng ngắt. Anh ta kéo sợi dây, nó căng ra chứng tỏ đầu bên kia có người giữ, anh ta cắn thanh sắt gắn với chân ghế vào mồm, nhẹ nhàng leo lên đỉnh rồi biến mất.
René trèo lên thứ hai với vẻ nhẹ nhàng không kém, nhưng khi sang đến phía bên kia, anh chỉ thấy anh chàng Ai xơ len giữ cái dây, người giúp họ đã biến mất.
Những người khác lần lượt leo qua mà không gặp trở ngại gì khi người cuối cùng đi xuống, họ ném cái sợi dây vào sân.
- Đó là một đêm xứ Bắc Âu, người ta không nhìn rõ quá bốn bước. Chắc chắn không bị đuổi theo, anh chàng Ai xơ len nói cần một lát để định hướng.
- Đây là biển - Anh ta nói và chỉ về phía đông - cũng không chắc lăm, vì tiếng động không mạnh, chắc là vịnh Saint-Gerge.
- Nếu đuổi người ta sẽ đuổi theo chúng ta lối ấy, vì thế chúng ta phải đi theo hướng ngược lại. Chúng ta hãy theo hướng bắc đến khi tới Limenck, tôi biết chỗ này và tôi hầu như chắc chắn không để các anh bị lạc. Tuy nhiên giá có cái la bàn thi tốt hơn.
- Đây tôi có một cái - René nói và rút từ túi ra một cái la bàn nhỏ vật bất ly thân từ hồi anh ở Ấn Độ.
- Thế thì ổn rồi - Anh chàng Ai xơ len nói - Lên đường thôi!
Họ cần phải rời khỏi Cork. Thật may Cork không phải là một thành phố công sự nhưng nó có một quân đội đồn trú. Những kẻ lẩn trốn vừa đi được trăm bước thì họ nghe tiếng đội tuần tra của Anh.
- Anh chàng Ai xơ len ra hiệu im lặng, lùi lại cùng nhịp bước với đội tuần tra nấp dưới một cánh cửa lớn trong phố nhỏ.
Đội tuần đi lướt qua trước mặt họ, tất cả đều nín thở. Một tên lính Anh lẩm bẩm.
- Thuyền trưởng có thể để chúng mình ở đồn gác. Phải có con quỷ trong người mới khiến bọn Pháp có ý nghĩ bỏ trốn trong thời tiết thế này.
Tiếng bước chân xa dần, những người chạy trốn ra khỏi chỗ nấp đi ngược lại con đường đội tuần vừa đi qua. Mười phút sau họ đã ra khỏi Cork và cảm thấy quất vào mặt những cơn gió phương Bắc lạnh buốt mà Hamlet từng than vãn trên thềm Elseneur. Đến đây toán người dừng lại vài giây.
- Chúng ta đang trên đường đến Blamey - Anh chàng Ai xơ len nói - Nếu các anh muốn ngủ, tôi có vài người bạn ở đó, tuy nhiên tôi nghĩ sẽ thận trọng hơn nếu đi tiếp đường này đến Mallow, con đường hoàn toàn vắng vẻ chẳng có lấy một mái nhà.
- Thế ở Mallow anh có biết ai không? - René hỏi.
- Ở Mallow, chúng ta mỗi người có cả chục bạn.
- Thế thì đến Mallow - René nói - Như thế càng lợi thế cho những kẻ muốn đuổi theo chúng ta ngày mai.
Họ đến Mallow vào sáu giờ sáng, tức là một tiếng trước khi trời sáng. Anh chàng Ai xơ len đi thẳng đến một ngôi nhà, gõ cửa và hỏi "Ai ở dưới ấy?" từ cửa lầu một, anh ta hỏi lại thay vì trả lời:
- Farrill vẫn sống ở đây chứ?
Phải - Giọng nói đáp - Farrill là tôi, còn anh là ai?
- Tớ là Sullivan.
- Chờ nhé, chờ nhé, tớ xuống mở cửa cho cậu.
Cánh cửa mở ra, hai người đàn ông lao vào vòng tay của nhau. Farrill lôi bạn vào nhà nhưng anh này đã sắp xếp cho các bạn nấp vào tường nói:
- Tớ không đi một mình, tớ còn bận, tớ phải bảo đảm cho họ đến tận đêm nay.
- Dù bạn có 10 người hay 100 người cũng không sao. Không những Farrill này muốn mời họ nghỉ mà còn tiếp đãi bằng hết khả năng. Dù các anh là ai, hãy vào đi!
Những tù nhân lại gần:
- Thưa ngài - René nói - Chúng tôi là những tù nhân Pháp tối qua mới trốn khỏi nhà tù Cork. Anh bạn Sullivan của chúng tôi đã giới thiệu ngài và chúng tôi đến đây xin trao mạng sống của chúng tôi vào tay ngài.
Cánh cửa mở ra. Farrill ra hiệu, tất cả lẻn vào không để bị lộ và cánh cửa lại khép lại sau lưng họ.
Khi đi vào Sullivan báo cho René là không phải tặng cho Famli cái gì trước tấm thịnh tình hiếu khách của anh ta, mọi món quà đều làm anh ấy bị tổn thương sâu sắc.
Họ đã đi sáu dặm rưỡi. Ngày hôm ấy dùng để ăn, ngủ cho lại sức.
Nhìn bề ngoài hiển nhiên Farrill không phải là người giàu có, tuy nhiên lòng hiếu khách của anh quả đúng như anh chàng Ai xơ len đã hứa, tuy không sang trọng và thịnh soạn nhưng rất thân tình và đầy đủ. Họ còn bột mì, vài chai vang Dublin ngon; thế là đành để uống luôn vào dịp ấy. Buổi tối, ngay từ bảy giờ, những người chạy trốn đã lên đường. Đêm ấy họ phải tới Bruree tức là phải đi bảy dặm nữa. Giày của hai người bỏ trốn đã hư hỏng nhưng trong ngày Farrill sau khi ướm chân mình vào những chiếc giày cũ đã đi mua hai đôi mới để họ không phải bận tâm về chuyện giày dép.
Khoảng 5 giờ sáng, họ đến Bruree.
Sullivan đi về phía hữu ngạn con sông Maigue bé nhỏ dẫn đến làng đã định. Ở đây anh ta có một người quen không kém hiếu khách như anh chàng Farrill trung hậu. Mọi việc lại diễn ra gần tương tự, những người bỏ trốn ăn uống, ngủ nghỉ như ý rồi khởi hành đêm đó đi Askeaton. Chỉ có điều lần này, vì con đường khó đi hơn trước nên người bạn của Sullivan muốn làm người hướng dẫn cho họ, vả lại, Sullivan thú thật anh không quen ai trong thành phố Askeaton.
Thế là họ đồng ý sự giúp đỡ của người bạn Sullivan với lòng biết ơn sâu sắc. Họ đến Askeaton dưới sự dẫn lối của người này.
Với mỗi từ ma thuật: "Đây là những người Pháp!" lập tức những cánh tay giang rộng và những cánh cửa rộng mở. Lần này, người dẫn đường đưa họ đến nhà anh rể mình.
Không cần giải thích dài dòng, dù còn chặng đường hôm sau nữa nhưng René muốn mua một chiếc thuyền và về Pháp bằng chiếc thuyền ấy sau khi chất đủ lương thực cần thiết, nhưng Sullivan lắc đầu anh ta không tin tưởng dân trong cảng, bằng người dân sâu trong lục địa vì họ có buôn bán với quân Anh. Vậy là anh ta đưa ra ý kiến sẽ bất ngờ chiếm một con thuyền và sở dụng nó bất kỳ tình trạng nó ra sao. Nếu cần họ sẽ đổ ở nơi khác để lấy lương thực. Vả lại, khắp nơi người ta đã thấy lính Anh đi lùng sục những người bỏ trốn. Tiếng đồn đã lan khắp bờ biển rằng có tám tù nhân Pháp đã vượt ngực khỏi Cork.
Nghĩ sao làm vậy, họ đi bốn dặm nữa đêm hôm ấy và đến ngủ tại Loghill. Tại đây họ dò la những con tàu đang thả néo bên dòng sông Shannon.
Có một tàu Slúp ở Foynes nhưng nó ở quá sâu trong lạch. Người dẫn đường khuyên họ nên chiếm một con tàu có cột buồm như chiếc Slúp đang thả neo giữa Tarbelt và hòn đảo nhỏ đối diện là hơn.
Mọi người bàn nhau việc này sẽ diễn ra lúc ba bốn giờ sáng. Thật ra khoảng bảy giờ họ mới vớ được một chiếc ca nô để hờ hững ngoài bờ biển do thói vô lo của người Ai xơ len. Họ lên đó, tiến về phía chiếc Slúp rồi xông vào trong. Trong tàu có ba người đàn ông và một phụ nữ. Nhận thấy tám người bất ngờ xông vào, đám người này kêu lên.
Nhưng Sullivan ra hiệu cho họ, nhờ tiếng Ai xơ len tuyệt vời, rằng nếu họ không im, mọi người sẽ dùng luật bắt họ im và chìa ra thanh sắt nhọn. Những kẻ khốn khổ đành làm theo.
Một lát sau, tàu nhổ neo, cánh buồm bung ra đón gió Bắc tiến vào Đại Tây Dương bệ vệ như một chiếc tàu chiến hạng nặng.
Đi được một dặm biển, họ cho bốn người Ai xơ len lên một chiếc tàu ngang qua chiếc Slúp. René đưa cho họ khoảng 20 đồng louis và hứa nếu anh về Pháp bình an vô sự, anh sẽ gửi sang một nhà băng ở Dublin khoản tiền ít nhất là gấp đôi giá trị con tàu của họ.
Đám người ấy không cho đó là điều nghiêm túc song vì họ không đòi mà vẫn nhận được 20 đồng louis nên cũng không mất hy vọng sẽ nhận được khoản kia. Họ vui vẻ trở về phía sông Shannon. Họ đến chỗ thả neo cũ trước khi kịp hoàn hồn xem tai nạn vừa xảy ra với mình là thật hay là một giấc chiêm bao.

Chương 96: Vượt biển

Mọi khi đã làm chủ tàu Slúp, mối quan tâm đầu tiên của những người chạy trốn là đi xem nguồn sống của họ có gì. Chiếc tàu này chở than bùn và chỉ có 100 củ khoai tây, 8 cái bắp cải, hai lọ bơ và hơn chục chai nước ngọt, một cái compa tồi tàn một cánh buồm lớn thủng lỗ chỗ, một cột buồm mũi xấu và một buồm trước áp mũi còn tệ hại hơn.
Như vậy thực phẩm chỉ gần đủ cho năm, sáu ngày dùng tận tiện. Không có bánh mì trên tàu, có thể trong nhà họ cũng không có thứ ấy. Đó là tình trạng của những chủ tàu cũ và nhìn chung cũng là tình trạng của dân Ai xơ len bấy giờ.
- Tôi nghĩ mọi chuyện sẽ ổn nếu chúng ta biết suy nghĩ hợp lý - Réné nói - Chúng ta đã ăn nhiều tối hôm qua, ăn ngon sáng nay rồi cho nên chúng ta sẽ không cần ăn gì cho đến tối nay.
- Hừm… hừm! - Vài giọng cất lên.
- Thôi nào - René nói - hãy là những chàng trai can đảm và cùng nhau nhất trí một điều: không ai đói trước tám giờ tối nay.
- Đồng ý - Anh chàng Ai xơ len nói - không ai đói trước 8 giờ. Ai đói thì buộc bụng vào và đi ngủ. Trong lúc ngủ ta sẽ mơ thấy bữa tối.
- Ối chao? - Một thủy thủ nói - Anh không thấy việc cần thiết nhất bây giờ là đốt lửa hay sao?
- À ít ra chúng ta cũng sẽ không thiếu than bùn - Sullivan nói - Mặt trời không xuất hiện và có vẻ cũng không vội lộ diện đâu.
Tuyết vẫn tiếp tục rơi nhờ đó chúng ta sẽ có thêm nước ngọt nếu có tấm bạt để đựng. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta hãy đi tận hưởng việc sưởi ấm cái đã.
Họ đốt chỗ than giúp giữ ấm từ sáng đến tối và nhất là từ tối đến sáng hôm sau.
Cái lạnh ban đêm thật không thể chịu đựng nổi nhất là đêm tháng giêng và tháng hai bên bờ biển Anh và eo Manche. Không những lạnh mà còn khó nhìn để lái nữa. Họ có thấy cái compa nhưng cũ kỹ và han rỉ đến độ không tính toán chính xác được: họ gắng công tìm một cái đo tốc độ để tính đoạn đường đã đi mò vô ích không hề có dụng cụ nào để xác định hướng gió, không dầu, không đèn chiếu sáng. Họ chỉ biết ban đầu đi theo hướng nam rồi sang hướng đông. Nhưng để làm những điều đó họ chỉ dựa vào chiếc la bàn bỏ túi của René và không có ánh sáng để giúp họ ngoài chỗ than bùn mà ban đầu bị khinh rẻ.
Là người hiểu biết cũng như gan dạ nhất, René được bầu làm thuyền trưởng.
Biển rất xấu, gió mạnh và thay đổi liên tức, buồm lại thủng lỗ chỗ, René ra lệnh tập hợp tất cả những mảnh vải có thể tìm thấy trên tàu lại. Sullivan phát hiện một chiếc thùng, trong thùng có vài mảnh vải còn tốt và một chiếc đèn dùng chiếu sáng cho các thủy thủ làm lại chiếc buồm lớn.
Tất cả mọi người cứ tám tiếng nhận được hai củ khoai tây, hai lá bắp cải, một mẩu bơ và ly nước ngọt.
Chiếc buồm lớn thiếu vải, thế là họ quyết định hy sinh cái buồm trước áp mũi. Việc chuẩn bị ấy mất năm ngày. Khi buồm lớn làm xong, họ đi nhanh và chắc chắn hơn.
Ngày thứ năm, họ nhận ra một con tàu ở phía chân trời. René gọi các bạn của mình và chỉ nó cho họ.
- Nó là tàu Anh hoặc tàu liên minh. - Anh nói - Nếu là tàu Anh chúng ta sẽ áp vào và chiếm lấy, nếu là liên minh của chúng ta, chúng ta sẽ xin trợ giúp, nó sẽ cho chúng ta và chúng ta tiếp tục hành trình. Tàu Standard mà chúng tôi, tàu Revenant, chiếm được có tới 450 người trong khi chúng tôi chỉ có 120. Nó có 48 đại bác chúng tôi chỉ có 16. Giương thanh gió lên và tiến vào.
Mỗi người cầm con dao găm chọn còn René vớ lấy thanh sắt của mình, nhưng con tàu nọ, không biết là bạn hay thù, tàu chiến hay tàu buôn, đã bỏ chạy khiến chiếc Slúp buộc phải bỏ cuộc.
- Có ai còn giọt nước nào cho tôi không? - Một thủy thủ rền rỉ.
- Còn chứ - René nói - tôi còn đây anh bạn can đảm ạ.
- Thế còn anh?
- Tôi không khát. - René nói và nở nụ cười đến những thiên thần cũng phải thèm.
Rồi anh trao phần nước của mình cho người thủy thủ.
Đến tối hôm ấy phần chịu cuối cùng đã xong, mỗi người được một củ khoai tây, một lá bắp cải và một nửa ly nước. Từ lâu họ đã nhận ra trong thủy thủ đoàn nguy khốn này điều phải chịu đựng tệ hại nhất là cái khát: cái khát khiến người ta không đoái hoài đến nhau dù là người bạn tốt nhất.
Ngày hôm sau, như cầu khiến những kẻ chạy trốn thêm thảm hại, mỗi người đứng riêng ra một góc chừng nào họ có thể, những khuôn mặt tái nhợt và hốc hác. Đột nhiên, một tiếng hét vang lên và một trong những thủy thủ trong cơn hoảng loạn đã nhảy xuống biển.
- Ghìm tàu lại và ném dây xuống biển. - René kêu lên.
Rồi anh lao mình xuống biển sau người thủy thủ nọ.
Hai giây sau, anh nhô lên khỏi mặt nước tay ôm người bạn của mình. Anh với một sợi dây quàng quanh người rồi buộc anh ta lại.
- Kéo lên các bạn! - Anh nói.
Và quả thật, họ kéo người thủy thủ lên tàu.
- Bây giờ đến lượt tôi - René nói.
Đã có ba bốn sợi dây ném xuống, anh túm một sợi trèo lên, chỉ một lát đã lên chiếc Slúp.
Cái cơ thể rất là mảnh dẻ và duyên dáng ấy lại là cơ thể duy nhất tỏ ra không phải chịu đói khát.
- Ối chao! - Anh chàng Ai xơ len nói - Giá tôi có một chút chì để mút nhỉ.
- Cậu không nghĩ vàng cũng làm được điều tương tự à? - René hỏi.
- Tôi không biết - Anh chàng Ai xơ len đáp - vì tôi thường có chì nhiều hơn là có vàng.
- Thế thì cầm lấy, cho đồng xu này vào miệng đi.
- Anh chàng Ai xơ len nhìn theo: đó là một đồng xu 24 phăng đúc từ thời vua Louis XVI.
Sáu thủy thủ khác cùng há mồm và chìa tay ra.
- Ái chà! Mát thật - Anh chàng Ai xơ len nói.
- Ngài nghe thấy chưa ngài René - Những người khác đứt hơi nói.
Đây các anh cầm lấy thử xem - René nói và chia cho mỗi người một đồng louis.
Còn ngài? - Họ hỏi.
- Tôi ấy à? Cơn khát của tôi không phải không dùng thủ thuật được, tôi dùng cách này như phương cách cuối cùng.
Quả nhiên, cách giải khát đặc biệt mà các thủy thủ hay làm với một miếng chì cũng có tác dụng tương tự khi họ ngậm vàng.
Họ qua ngày hôm ấy trong càu nhàu, than thở nhưng vẫn mút và nhai đồng louis của mình.
Sớm hôm sau khi vừa có tia sáng từ phía nam. René, người thức suốt đêm bên bánh lái, bật đứng dậy và kêu lên:
- Đất liền!
Tiếng kêu ấy có hiệu quả như có phép thuật, ngay lập tức bảy người khác đứng bật dậy.
- Quay sang mạn trái - Một thủy thủ kêu lên - đó là Guemesey.
Quân Anh chắc chắn có ở đấy, hãy quay mũi sang mạn trái.
Một guồng quay bánh lái đưa con tàu rời khỏi đảo và hướng nó quay về mũi Tréguier.
- Đất liền kìa! - René kêu lên lần thứ hai.
A! Tôi nhận ra nó - Người thủ thủ nói - Đó là mũi Tréguier, chúng ta không việc gì phải sợ, chúng ta hãy tiến lại càng gần bờ càng tốt, trong hai tiếng nữa, chúng ta sẽ ở Saint-Malo.
- Anh chàng Ai xơ len, người đã trở lại vị trí cần bánh lái, làm theo lời chỉ dẫn và một tiếng sau anh ta đã bỏ qua phía bên phải mình mỏm đá Grand-Bé, bán đảo ngày nay dựng lăng mộ của Chateaubriand và giương cao buồm tiến thẳng vào cảng Saint-Malo.
Vì chiếc Slúp đóng theo kiểu Anh nên nó bị phát hiện ngay. Tuy nhiên, khi nhìn thấy trang phục của các thủy thủ, người ta cũng đoán ra sự tình: nó đang chứa các thủy thủ trốn khỏi tàu chở tù binh hay nhà tù Anh.
Vừa hạ neo, họ bị bắt giữ lên chiếc xà lan quân sự vừa nhận ra chiếc Slúp. Việc nhận người nhà diễn ra nhanh chóng. René chịu trách nhiệm kể lại mọi chi tiết của cuộc bỏ trốn trong khi viên lục sự ghi biên bản.
Biên bản soạn xong có chữ ký của René và bốn thủy thủ biết ký. René hỏi thăm họ có biết con tàu Mỹ nào trong cảng trở về từ đảo Pháp có tên là Tay đua New York do thuyền trưởng François chỉ huy hay không.
- Nó thả neo gần xưởng đóng tàu và cũng mới trở về được mười hay mười một ngày.
René bảo đó là tàu của mình và hiện thời anh có thể đến đó hay không. Người ta đáp anh được thừa nhận danh tánh nên muốn đi đâu cũng được.
Nhưng trong lúc người ta lập biên bản, viên phó cẩm hải quân thấy tình trạng của các tù nhân vượt ngục trong đó hai ba người đã ngất đi sau khi nói: "Tôi đói chết mất, tôi khát chết mất!" đã cho mang tám ly nước và một chai rượu vang ngon rồi cho gọi bác sĩ.
Ông bác sĩ ấy đến vừa kịp lúc các thủy thủ đáng thương cần sự cứu giúp nhất song mọi thứ được chia cho họ hết sức cẩn trọng vì họ đang kiệt sức. Họ uống từng thìa nước không bánh mì và chút rượu vang bằng ly bé xíu.
Mười lăm phút sau, ai cũng muốn trả lại René đồng tiền nhưng anh từ chối nhận lại, anh bảo họ cứ cầm lấy phòng khi cần thiết.
Sau đó, vì René tuyên bố chiếc Slúp mà anh và các bạn của mình đã dùng sức đoạt lấy của những người Ai xơ len đáng thương đã đưa họ trở về, anh hỏi giá của nó và muốn chuyển tiền cho chủ tàu. Công việc trở nên dễ dàng khi trong tủ của tàu có giấy tờ ghi địa chỉ của người chủ.
Chiếc Slúp vẫn đậu ở trước cảng. Khi René và các bạn của anh đã lấy lại sức, họ nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ.
- Nào các anh em, bơi đi nào và bơi thật nhanh! - René nói - Thẳng tiến đến tàu Tay đua New York: Hai đồng louis cho các tay chèo.
- Này - Một trong số người chèo thuyền nhận ra anh nói - Đây là ngài René đã trả khoản nợ cho các bạn của chúng ta khi đi tàu Revenant của ngài Surcouf đấy. Hoan hô ngài René!
Những tay chèo khác cũng mong góp phần nhiệt thành của họ gấp hai lần, đồng thanh hô: "Hoan hô!" bằng cả sức của họ.
Nghe tiếng kêu ấy, thủy thủ tàu Tay đua New York chạy hết ra boong và René nhận ra người bạn François trên khoang đuôi đang cầm ống ngắm trên tay cố tìm hiểu xem có chuyện gì.
Anh ta vừa kêu: "Các bạn ơi, ông chủ. Hoan hô ngài René!" thì cả con tàu trương cờ lên chỉ trong một phút và chẳng cần đợi sự cho phép của trưởng cảng, tám phát đạn đại bác đã vang lên.
Sau đó, các thủy thủ vừa lao lên dây néo vừa huơ huơ mũ vừa reo to:
- Hoan hô ngài René!
Trong khi ấy François dừng ở bậc thang cuối cùng tay mở rộng chờ thuyền trưởng của mình và có vẻ sẵn sàng nhảy xuống biển để ôm lấy anh dù chỉ một giây.
Người Anh có thể nhận ra René được chào đón nồng nhiệt thế nào khi lên tàu. Anh trả tiền cho các tay chèo theo ý thích của họ trong lúc bảy người bạn của anh kể lại cho toàn thủy thủ đoàn tàu Tay đua New York nghe họ đã trốn ra sao, René đã chia phần nước của mình cho họ, đã khích lệ lòng can đảm của mọi người và tập hợp họ cho đến khi tìm được cơ hội tốt nhất thế nào.
Sau đó, như thể tất cả những ai đã đồng cam cộng khổ với René đều muốn cùng anh chia ngọt sẻ bùi, vài thủy thủ muốn xin phép anh chia tiền thuê các tay chèo đưa họ lên tàu. Anh nói:
- Các bạn, không phải các bạn chung tiền, mà là chung bữa tối với tôi. Ngày tôi trở về là một ngày lễ, tất cả các thủy thủ đều là sĩ quan trên tàu của tôi hôm tôi từ nhà tù Anh trở về.
Sau khi lại mời các bạn cùng trốn giải khát lần nữa, anh cho gọi người đầu bếp muốn tự mình kêu món cho bữa tối.
Ngày hôm ấy, tất cả những gì đẹp và tốt ở Saint-Malo đều dành cho thủy thủ đoàn tàu Tay đua New York và thuyền trưởng của nó.


Nguồn: http://vnthuquan.org/